MEIN KAMPF – CUỘC ĐỜI TRANH ĐẤU CỦA TÔI
ADOLF HITLER
CHIA SẺ VỚI ĐỘC GIẢ
Do http://nguyentandung.org cũng như nhiều trang khác mang tên các nhà cầm quyền cộng sản tại Việt nam cho đăng tải vô điều kiện một tác phẩm tuyên truyền độc hại cùng cực được tối tác bởi Adolf Hitler nên tôi cũng cho đăng tải lại ở đây tác phẩm đó nhưng có điều kiện nghiêm ngặt nhất: độc giả phải hiểu rằng ngoài những đoạn văn chửi rủa chính đáng (vừa chính xác vừa đúng đắn lại vừa cần thiết) về Chủ nghĩa Marx cùng với Cộng sản Nga, còn lại tác phẩm đó rất đáng bị nguyền rủa chính đáng nhất!
Tập 2: Phong trào Xã hội Chủ nghĩa Quốc gia
CHƯƠNG 1.1: HỌC THUYẾT CHỦ NGHĨA MÁC
Tôi đã tranh luận trong tập 1 với từ “thuộc về nhân dân”, khi mà tôi phải xác định cái từ này về mặt định nghĩa có vẻ ít giới hạn, để có thể cho phép một cộng đồng tranh đấu gắn bó chặt chẽ với nhau. Mọi cái có thể là phần cơ bản trong quan điểm của họ tách khỏi bầu trời của nhau, ẩn mình dưới cái từ che đậy là “thuộc về nhân dân”. Trước khi tôi chuyển sang nói về những nhiệm vụ và mục tiêu của Đảng công nhân Đức XHCN quốc gia, tôi muốn đưa ra sự thể hiện rõ ràng của khái niệm “thuộc về nhân dân” cũng như mối quan hệ của từ này tới phong trào của đảng.
Khái niệm “thuộc về nhân dân” xuất hiện ít rõ ràng, có thể phân tích trải ra nhiều mặt và không giới hạn trong sử dụng thực tế, gần như từ “thuộc về tôn giáo”. Người ta khó có thể hình dung chính xác hoàn toàn cái gì đó được mô tả dưới từ này, kể cả theo ý nghĩa thâu tóm về tư tưởng cũng như trong tác động thực tế. Sự mô tả “tôn giáo” hầu như có thể hình dung nhất là trong thời điểm mà nó được gắn liền với hình thức đã được khoanh gọn trong tác động của nó. Đó là sự giải thích rất hay nhưng đơn giản quá, khi người ta mô tả bản chất của một con người là “có tính tôn giáo tận sâu thẳm”. Có thể có vài người mà qua sự mô tả chung cảm thấy đó chính là mình, chính là vì nó có thể chuyển cho họ hình ảnh sắc nét nhiều hay ít hơn hoặc hình ảnh nhất định về trạng thái tâm linh của họ. Nhưng vì đa số chẳng phải toàn gồm các nhà triết học lẫn thần thánh nên ý tưởng tôn giáo phổ thông đó có ý nghĩa đối với từng người thường chỉ là cho phép tự do tư duy và hành động cá nhân mà không cần dẫn tới tác động của chúng, nghĩa là sự khao khát tôn giáo bên trong bùng lên trong chốc lát, vì từ thế giới tư duy không giới hạn và trừu tượng có một niềm tin sắc nét có giới hạn đã hình thành. Chắc chắn là điều này tự bản thân nó không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để đạt mục đích mà thôi; nhưng nó là phương tiện cần thiết không thể bỏ qua để có thể đạt được mục đích. Mục đích này không chi là về ý tưởng mà rốt cục cũng là một mục đích thực tế quen thuộc. Như người ta nói chung luôn phải rõ ràng về việc cái lý tưởng nhất luôn phù hợp với cái cần thiết cho cuộc sống sâu sắc nhất, cũng như sự cao quí của cái đẹp dễ có nhất về lý do cuối cùng cũng chỉ nằm trong cái thuộc về mục đích logic nhất mà thôi.
Trong khi niềm tin hỗ trợ thêm cho việc con người nâng mình lên trên mức sống chỉ là tồn tại của loài vật, anh ta góp phần vào sự thật để củng cố vững chắc và giữ gìn sự tồn tại của mình. Người ta lấy những nguyên tắc của loài người hôm nay qua sự giáo dục của họ là dựa vào tôn giáo và tín ngưỡng nhưng lại có ý nghĩa thực tế là nguyên tắc về phong tục và đạo đức, thông qua việc bỏ qua giáo dục tôn giáo này và không lấy cái khác tương tự để thay thế, và người ta sẽ nhận được kết quả là có sự lay chuyển mạnh nền tảng tồn tại của họ ngay trước mắt. Như vậy người ta được phép xác định rằng, không chỉ con người sống để phục vụ điều lý tưởng cao hơn, mà lý tưởng đó ngược lại cho con người tiền đề để tồn tại là con người. Vòng tròn như vậy khép kín.
Tất nhiên cũng có những điều tư duy và điều thuyết phục cơ bản trong sự mô tả chun& vấn đề “tôn giáo”, ví dụ trong sự không thể phá huý linh hồn, trong sự tồn tại vĩnh cửu, sự tồn tại của sinh vật sống cao hơn v.v… Chỉ riêng tất cả những ý tường này, dù mức độ thuyết phục đối với từng người cao tới đâu thì chúng vần chịu sự kiểm tra cần thiết đối với từng ý tưởng và cho tới khi không còn chao đảo giữa đồng ý và từ chối nữa, cho tới khi không phải là hiểu biết và kiến thức về tình cảm chấp thuận sức mạnh qui luật của tín ngưỡng hiển nhiên nữa. Cái này trước hết là yếu tố đấu tranh mà đã đẩy sự công nhận quan điểm cơ bản về tôn giáo ra xa và mở lối ra con đường quang đãng.
Mục lục
[ẩn]- I. Lời ban biên tập
- II. Lời người dịch
- III. Lời giới thiệu
- IV. Lời tựa
- V. Tập 1: Toan tính
- VI. Tập 2: Phong trào xã hội chủ nghĩa Quốc gia
Chương 1: Thế giới quan và Đảng Chương 2: Phân biệt 3 quan điểm của Nhà nước Chương 3: Người có quốc tịch và công dân Chương 4: Tính cá nhân tư tưởng Nhà nước nhân dân Chương 5: Thế giới quan và Tổ chức Chương 6: Cuộc đấu tranh trong thời gian đầu - Ý nghĩa của diễn thuyết Chương 7: Cuộc đấu tranh với mặt trận Cộng sản Chương 8: Kẻ mạnh là kẻ có quyền lực nhất Chương 9: Những tư tưởng cơ bản về ý nghĩa và tổ chức của Sư đoàn bão táp S.A 9.1: Hội “chuyên chính nhân dân” ra đời thế nào? 9.2: Cuộc cách mạng thành công nếu tiến hành phân rã quân đội? 9.3: Ham muốn chính trị thiên tài 9.4: Làm sao chiếm được trái tim của một dân tộc? 9.5: Cột chống quan trọng nhất của quyền lực? 9.6: “Ngày của người Đức” tại Koburg 9.7: Vùng Koburg và những tên khủng bố đỏ
Chương 10: Chủ nghĩa Liên bang chỉ là giả tạo Chương 11: Công tác tuyên truyền và công tác tổ chức Chương 12: Vấn đề công đoàn Chương 13: Chính sách Liên minh Đức hậu Thế chiến Chương 14: Định hướng phương Đông hay chính sách phương Đông Chương 15: Quyền được phòng thủ khẩn cấp
- VII.Kết luận
Nếu không có niềm tin giới hạn rõ ràng thì tính tôn giáo trong sự đa dạng mờ mịt của nó đối với cuộc sống con người không chỉ không có giá trị mà dường như còn đóng góp vào sự tan vỡ lung lay chung nữa. Tương tự như khái niệm “thuộc về tôn giáo” thì ý nghĩa của từ “thuộc về nhân dân” cũng vậy. Trong nó đã có bao hàm những kiến thức cơ bản riêng lẻ. Dù chúng có ý nghĩa nổi bật nhất, theo hình thức thì ít xác định được rõ ràng, nên chúng chỉ được nâng lên trên giá trị của một ý kiến được công nhận ít hay nhiều khi chúng được coi là những thành phần cơ bản và được nắm chắc trong khuôn khổ một đảng phái chính trị. Vì việc biến thế giới quan lý tưởng và những yêu cầu từ đó nảy sinh ra thành hiện thực thì ít tiến hành theo tình cảm đơn thuần hay ý muốn bản thân con người mà là sự giành được quyền tự do nhờ niềm khao khát nó nói chung. Không, chỉ khi sự thúc đẩy lý tưởng về nền độc lập trong hình thức của phương tiện cầm quyền quân sự nhận được tổ chức theo phong cách chiến đấu, thì mong muốn cháy bòng của một dân tộc mới được biến thành hiện thực một cách tốt đẹp.
Mỗi thế giới quan, dù có đúng hàng ngàn lần và có lợi cao nhất cho con người, đều không có ý nghĩa cho việc tổ chức cuộc sống thực tế của dân chúng khi những nguyên tắc của nó không trở thành bánh mì vụn cho phong trào chiến đấu, về phần nó vẫn tồn tại là một đảng khi tác động của nó không kết thúc trong sự thắng lợi của tư tưởng và tín điều của đảng lại tạo nên các luật cơ sở nhà nước mới của cộng đồng một dân tộc. Nếu một ý tưởng tinh thần loại bình dân muốn phục vụ sự phát triển đang tới như là nền tảng cơ sở, thì tiền đề đầu tiên là việc tạo nên sự rõ ràng bắt buộc của bản chất, loại và mức độ của ý tưởng đó, vì chỉ có dựa trên cơ sở như vậy mới có thể tạo ra phong trào mà sự thống nhất tâm phục bên trong có thể tạo nên lực lượng cần thiết cho cuộc đấu tranh. Từ những ý tưởng chung chung phải làm nổi lên được một chương trình chính trị, từ thế giới quan bình thường phải nổi lên một niềm tin chính trị nhất định.
Nó sẽ không chỉ hổ trợ cho ý tưởng, vì mục tiêu của nó cần phải được thực sự đạt tới, mà còn phải chú ý tới phương tiện đấu tranh đã có sẵn để nhằm giành được chiến thắng của ý tưởng đó và phải tìm cách để sử dụng chúng. Đối với một ý tưởng trừu tượng của tinh thần đúng đắn mà người lập chương trình đã công bố thì kiến thức thực tế của chính trị gia phải gắn liền vào đó. Như vậy phải có một lý tưởng vĩnh cửu làm ngôi sao dẫn đường cho loài người đáng tiếc là đã hài lòng với việc chú ý tới sự yếu đuối của họ, để không bị thất bại ngay từ đầu vì sự không đạt yêu cầu trong cuộc sống. Để nghiên cứu sự thật thì người hiểu biết tâm hồn quần chúng đã hòa nhập vào để từ vương quốc của sự thật và lý tưởng lấy ra khả năng có thể của con người phục vụ cho cái nhỏ không vĩnh cửu và làm nó hình thành lên.
Việc biến chuyển này của một ý tưởng với thế giới quan lý tưởng từ chỗ coi nó là sự thật cao nhất thành một cộng đồng chiến đấu và có cùng niềm tin chính trị thống nhất tự nguyện, có tổ chức nghiêm chỉnh, có giới hạn nhất định là một thành tựu có ý nghĩa nhất, vì thắng lợi của ý tưởng phụ thuộc vào cách giải quyết may mắn của riêng nó. Ở đây phải có ai đó bước ra từ một đội ngũ hàng triệu người mà biết gì đó nhiều hay ít trong từng sự việc, hiểu một phần nào đó, để nhào nặn những nguyên tắc tối om với sức lực hiển nhiên đã có từ thế giới tư tưởng dao động của đám đông và chấp nhận cuộc chiến với tính đúng đắn của riêng nó mãi, cho tới khi có một tảng đá của sự gắn bó ý muốn và niềm tin nổi lên giữa làn sóng nô giỡn của thế giới tư tưởng tự do.
Quyền phổ thông được hành động như thế nằm có lý do trong sự cần thiết của nó, quyền thành công của cá nhân…
Nếu chúng ta tìm cách bóc vỏ để lấy lõi có ý nghĩa tận trong cùng của cái từ “thuộc về nhân dân” ra, ta sẽ xác định được vấn đề như sau:
Thế giới quan theo từng nước ngày nay của chúng ta nói chung dựa trên sự hình dung rằng nhà nước có lực lượng sáng tạo và hình thành ra văn hóa, nhưng với những tiền đề về chủng tộc không có gì liên quan cả, mà liên quan tới một sản phẩm của tầm quan trọng kinh tế, tốt nhất là kết quả tự nhiên của sự thúc ép quyền lực chính trị. Quan điểm cơ bản này dẫn tới việc tiếp tục hình thành theo logic hợp lý không chỉ tới việc đánh giá sai những lực lượng của các tộc người từ nguồn gốc, mà còn dẫn tới việc hạ giá trị cá nhân nữa. Vì việc phủ nhận sự khác nhau giữa các tộc người riêng lẻ dựa trên các lực lượng tạo nên nền văn hóa phổ thông cũng bắt buộc phải truyền nhầm lẫn lớn nhất đó sang sự đánh giá từng cá nhân. Việc chấp nhận sự giống nhau của các tộc người sẽ trở thành cơ sở của phương thức đánh giá giống nhau cho các dân tộc và tiếp theo đó là cho từng người. Vì vậy chủ nghĩa Mác quốc tế tự bản thân nó cũng chỉ là việc ông Do Thái Các Mác chuyển một ý tưởng, thế giới quan và quan điểm đã có từ lâu vào hình thức của một sự công bố niềm tin chính trị nhất định mà thôi. Không có cái nền móng của sự đầu độc đại loại phổ thông đã có như vậy thì thành công chính trị đáng ngạc nhiên của học thuyết này không bao giờ có thể đạt được. Các Mác thực sự chỉ là một trong hàng triệu người nhận ra trong vũng bùn của một cái thế giới đang chết từ từ với cái nhìn chắc chắn của nhà tiên tri những chất độc cơ bản nhất, lấy chúng ra như một nghệ sĩ áọ đen để hòa vào một dung dịch nhằm nhanh chóng hơn trong việc phá hủy sự tồn tại độc lập của các dân tộc tự đo trên quả đất này. Nhưng điều này lại là bổn phận của dân tộc ông ta.
Như vậy học thuyết của chủ nghĩa Mác là chất chiết xuất tinh thần được thâu tóm lại của thế giới quan có giá trị chung ngày nay. Ngay từ lý do này thì từng cuộc chiến đấu của thế giới thị dân chúng ta không thể chống lại nó, thật nực cười vì vậy, vì cũng cái thế giới này về cơ bản đều đã bị những chất độc từ đó thẩm thấu qua, và bị thế giới quan đó thần phục, cái mà chủ nghĩa Mác nói chung chỉ phân biệt qua cấp độ và cá nhân thôi. Thế giới thị dân là theo CN Mác, nhưng lại tin vào khả năng lãnh đạo của một nhóm người, trong khi CN Mác đã tìm cách theo kế hoạch tự trao thế giới vào tay người Do Thái rồi.
Thế giới quan của quần chúng nhận ra từ phía đối diện ý nghĩa của loài người trong những yếu tố ban đâu về chủng tộc của họ.
Quan điểm đó nhìn nhận trong nhà nước chỉ có một phương tiện nhằm mục đích và quan niệm mục đích đó là việc giữ gìn sự tồn tại chủng tộc ở loài người. Nó không tin vào sự giống nhau của các tộc người, mà nhận ra với sự khác nhau thì loài người có giá trị cao hơn hoặc thấp hơn và cảm thấy qua nhận thức đó có trách nhiệm theo ý muốn vĩnh cửu là thống trị vũ trụ, khuyến khích chiến thắng của kẻ giỏi hơn, mạnh hơn, yêu cầu sự thuần phục xếp hạng thấp hơn của kẻ kém hơn, yếu hơn. Như vậy về nguyên tắc nó đi theo tư duy cơ bản tự nhiên như giới quí tộc và tin vào hiệu lực của luật pháp cho tới giá trị của từng cá thể cuối cùng. Nó không chỉ nhìn thấy giá trị khác nhau cúa các tộc người mà còn thấy giá trị khác nhau của từng cá nhân con người riêng lẻ. Từ trong đám đông sẽ bóc tách ra giá trị của cá nhân cho nó, nhưng qua đó nó tác động ngược với CN Mác không có tổ chức một cách có tổ chức. Nó tin vào sự cần thiết của việc tối ưu hóa nhân loại, vì nó chỉ nhìn thấy trong đó tiền đề của sự tồn tại loài người. Riêng nó không thể đồng ý chấp thuận quyền tồn tại của ý tưởng đạo đức được, nếu như ý tưởng này thể hiện mối hiểm nguy cho cuộc sống của tộc người với nền đạo đức cao hơn; Vì trong một thế giới lẫn lộn các tộc người và cả da đen hóa thì mọi khái niệm về cái đẹp và cao quí của con người cũng như mọi sự hình dung về một tương lai lý tưởng của nhân loại cũng đều bị mất vĩnh viễn cả.
Nền văn hóa và văn minh nhân loại trên một phần quả đất gắn liền không rời với sự tồn tại của người Arian. Sự tuyệt chủng hay suy thoái của họ làm cho quả đất này lại bị chìm sâu vào màn tối tăm của thời kỳ vô văn hóa.
Sự chôn vùi giá trị của nền văn hóa nhân loại qua việc tiêu diệt người mang nó xuất hiện trong mắt người có một thế giới quan nhân dân là một tội ác đáng nguyền rủa nhất. Ai dám đặt tay lên hình ảnh của Chúa là xúc phạm lên người sáng tạo tốt bụng ra điều kỳ diệu này và hỗ trợ cho việc đẩy văn hóa ra khỏi thiên đường.
Như vậy thế giới quan của nhân dân phù hợp với mong muốn sâu thẳm nhất của tự nhiên, vì nó tái tạo lại trò chơi tự do của các lực lượng mà phải dẫn tới sự nuôi dưỡng cao hơn, lâu dài đối với nhau, cho tới khi nhân loại tốt nhất vì đã chiếm chỗ được trên trái đất này mà được tự do hoạt động trên các vùng miền, phần thì nằm bên trên trái đất, phần thì ngoài nó.
Tất cả chúng ta đều biết rằng trong tương lai xa những vấn đề dính dáng tới con người đều có thể xuất hiện mà để giải quyết chúng chỉ có một tộc người cao cấp nhất là dân tộc làm chủ, dựa trên phương tiện và khả năng của toàn cầu được chiếm vị trí đó thôi.
Tất nhiên là có một sự xác định chung về nội dung có ý nghĩa của một thế giới quan nhân dân mà có thể phát triển ra gấp hàng ngàn lần. Thực tế chúng ta hầu như cũng không tìm thấy một trong những đảng phái chính trị mới thành lập trẻ hơn mà bằng cách nào đó không dựa vào thế giới quan này. Nó đang chứng minh qua sự tồn tại của mình đối diện với nhiều đảng phái khác sự khác nhau trong quan điểm của họ. Như vậy đi ngược lại thế giới quan được lãnh đạo bởi một tổ chức hàng đầu thống nhất của CN Mác là hàng loạt quan điểm khác mà về mặt tư tưởng đối diện với mặt trận đoàn kết của kẻ thù ít nổi bật lên. Họ không chiến thắng được vì vũ khí của họ yếu kém. Cho tới khi có một đảng được lãnh đạo và tổ chức thống nhất của nhân dân chống lại thế giới quan quốc tế của đảng Mác xít thì thẳng lợi trong trận chiến với năng lượng chiến đấu bằng nhau sẽ chuyển sang đúng là sự thật.
Nhưng việc nắm bắt có tổ chức một thế giới quan có thể mãi mãi chỉ tiến hành dựa trên một cách thể hiện bằng lời nhất định, và cái gì thể hiện học thuyết của niềm tin, đó chính là những nguyên tắc của đảng chính trị đang hình thành.
Như vậy phải tạo ra một công cụ cho thế giới quan của nhân dân mà có thể bảo đảm cho khả năng đại diện cho cuộc chiến đấu của nó, tương tự như tổ chức đảng Mác xít tạo ra con đường tự do cho chù nghĩa quốc tế.
Như vậy phải tạo ra một công cụ cho thế giới quan của nhân dân mà có thể bảo đảm cho khả năng đại diện cho cuộc chiến đấu của nó, tương tự như tổ chức đảng Mác xít tạo ra con đường tự do cho chù nghĩa quốc tế.
Đảng công nhân Đức XHCN quốc gia (viết tắt: Đảng quốc xã) theo đuổi mục tiêu này.
Việc sự xác định khái niệm nhân dân của đảng là tiền đề để cho thế giới quan nhân dân thắng lợi được minh chứng sắc nét nhất qua một việc thực mà đối phương cũng có quan hệ đảng phái như vậy tự thú nhận ít nhất là gián tiếp. Ngay cả những người chẳng bao giờ mệt mỏi trong việc nhấn mạnh rằng thế giới quan nhân dân không phải là phần thừa kế cho thuê của từng người, mà nằm trong tim của nhiều triệu người chỉ Chúa mới biết thôi đang mơ màng hay đang sống, và chứng minh rằng sự thực sự tồn tại của những ý tưởng đó là không muốn cản trở chiến thắng của thế giới quan thù địch tí nào, cái mà được đại diện bằng đảng phái chính trị kiểu cổ điển. Nếu khác đi thì giờ dân tộc Đức đã phải giành được chiến thắng kiểu Digan và không phải đứng bên bờ vực thẳm. Cái gì đã đem đến thành công cho Thế giới quan quốc tế, đó là sự đại diện cho nó qua một đảng phái chính trị có tổ chức thuộc đội tấn công; điều mà thế giới quan chống đối để cho xếp hạng dưới đó là khiếm khuyết cho tới nay của sự đại diện được nhào nặn thống nhất. Không phải trong việc tự do không giới hạn thế hiện một quan điểm chung mà chỉ trong giới hạn và hình thức tổng quát của một tổ chức chính trị thì một thế giới quan mới có thể chiến đấu và chiến thắng được.
Vì vậy tôi thấy nhiệm vụ của bản thân mình đặc biệt trong việc bóc tách lõi ý tưởng trong nội dung phong phú và chưa được sắp xếp của một thế giới quan phổ thông và biến đổi ít nhiều sang hình thức học thuyết mà trong giới hạn rõ ràng của nó phù hợp với những người có trách nhiệm phải tập hợp thống nhất lại. Với những lời khác: Đảng công nhân Đức XHCN quốc gia từ lối tư duy cơ bản của một ý tưởng chung về thế giới thuộc nhân dân những nguyên tắc cơ bản, tạo nên từ những thứ tương tự, có chú ý tới thực tế, thời gian và chất liệu con người cũng như những yếu kém của anh ta, tiếp nhận sự công nhận về niềm tin chính trị mà tự nó trong đa số những người được tập hợp tích cực có tổ chức lại tạo nên tiền đề cho cuộc đấu tranh đây vinh quang của thế giới quan đó.
(Còn tiếp, mời bạn theo dõi tiếp kỳ tới)
nguyentandung.org lược dịch từ quyển Mein Kampf.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét