Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013

Sự đoàn kết hiệp đồng giữa các thế hệ trong cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước trên tầm chiến lược


Tiêu Dao Bảo Cự

Sự khác biệt, mâu thuẫn, xung đột giữa thế hệ già và trẻ là điều bình thường trong các xã hội dân chủ. Tình trạng thế hệ trẻ phục tùng thế hệ già chỉ là một dấu chỉ của sự trì trệ, bảo thủ trong các chế độ phong kiến và độc tài.
Việc lên tiếng của Nguyễn Đắc Kiên trong bài viết “Trách nhiệm với chữ ký” có phần phê phán thái độ của ông Nguyễn Đình Lộc và cả ông Nguyễn Huệ Chi sau vụ ông Lộc “lên Tivi” để nói về chuyện Kiến nghị 72 là một sự kiện đáng chú ý, một dấu chỉ của xã hội dân chủ bắt đầu trưởng thành. Chưa kể đến ý kiến của Nguyễn Đắc Kiên phê phán Tổng bí thư Nguyễn Phú trọng, dẫn đến phong trào Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do, nằm trong sự đối lập giữa người dân với nhà cầm quyền, việc sau này có thể nói diễn ra giữa những người đấu tranh cho dân chủ.
Các thanh niên “thế hệ chiến tranh” trước đây đã từng lên án những người đi trước là để lại cho họ một gia tài rách nát với chiến tranh tàn khốc, đất nước phân ly, tương lai mù mịt. Thế hệ trẻ hiện nay cũng có thể oán trách cha anh đã để lại cho họ một chế độ độc tài toàn trị mà từ nhỏ đến lớn họ bị tuyên truyền nhồi sọ, thui chột tinh thần sáng tạo và bị tước đoạt nhiều quyền tự do đáng ra họ phải được hưởng từ khi đất nước thống nhất. Có thể khi thế hệ này già đi, họ lại bị thế hệ kế tiếp phê phán vì chưa làm được gì nhiều cho tương lai và cũng để lại nhiều gánh nặng. Tất cả đều trải qua tuổi trẻ, tuổi già và nằm trong “gọng kềm lịch sử”.
Khi tuổi già đến, mọi người sẽ ngẫm nghĩ nhiều về quá khứ nhưng khi còn tuổi trẻ, hầu như chẳng ai bận tâm suy xét gì nhiều chuyện đã qua. Thế mạnh của tuổi trẻ là nhiệt huyết, trong sáng, dũng cảm, dám nghĩ dám làm. Thế mạnh của tuổi già là từng trải, khôn ngoan, trầm tĩnh và kinh nghiệm trong xử sự, giải quyết tình huống. Nhược điểm của tuổi trẻ là nông nổi, thiếu kinh nghiệm, dễ chán nản. Nhược điểm của tuổi già là bảo thủ, ích kỷ, hèn nhát. Những điều chung này ai cũng biết và dĩ nhiên có ngoại lệ cho cả già lẫn trẻ. Thời hiện đại với cuộc cách mạng về công nghệ thông tin đã tạo ra một tình thế mới cho việc tiếp cận thông tin, tri thức và giao tiếp xã hội, trong đó người trẻ nhanh nhạy và có khả năng tiếp thu, sử dụng nhanh hơn người lớn tuổi.
Trong tình hình hiện nay, việc đấu tranh dân chủ hóa đất nước bắt đầu từ những người lớn tuổi và những năm gần đây có sự tiếp sức của những người trẻ, càng ngày càng trẻ hơn. Sự hợp tác giữa các thế hệ là điều đáng mừng vì công cuộc khó khăn gai góc này đòi hỏi sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc nhưng cũng sẽ phát sinh những vấn đề cần có sự giải quyết khôn ngoan, hợp lý mà ý kiến của Nguyễn Đắc Kiên trong vụ việc nói trên và vô số bình luận trái chiều nhau trên mạng đã trở thành sự kiện cho nhiều người suy ngẫm.
Ý kiến của Nguyễn Đắc Kiên rất thẳng thắn, buộc những người lớn trong cuộc và mọi người nói chung phải suy nghĩ. Nhưng nếu những điều Kiên đề nghị được thực hiện (ấn định thời gian lấy chữ ký, lập đoàn đại biểu, yêu cầu chính quyền công khai trao đổi tranh luận) được thực hiện thì tình hình sẽ đi đến đâu? Nếu nhà cầm quyền vẫn lờ đi như lâu nay thì công việc tiếp theo sẽ là gì, hay cũng là những vụ việc phản ứng theo tình thế mà phía những người đấu tranh cho dân chủ chỉ chạy theo chứ không hề chủ động.
Một số người đã nói đến sự cần thiết của một chiến lược dài hạn cho cuộc đấu tranh nhưng cho đến nay ai đã làm được việc đó, với lộ trình rõ rệt, có chỗ cho mọi người trong cuộc đấu tranh? Thực tế có thể cũng đã có người, tổ chức đề ra được chiến lược như thế nhưng chưa tạo ra được sự chú ý hay đồng thuận trong đa số, trước hết là những người đấu tranh cho dân chủ vì nhiều lý do. Một trong những lý do là nhiều người bị hút vào những vụ việc có tính cách thời sự, gây chấn động, đôi khi nhỏ nhặt, mà quên đi chuyện đường dài. Mặt khác sự chia rẽ, óc kỳ thị, tính hẹp hòi, bảo thủ, kể cả sự kiêu ngạo vô lối đã làm cho người ta không những không chịu thừa nhận nhau mà còn kích bác, đả phá nhau. Trong khi đó những người cầm quyền của chế độ toàn trị lại có sẵn chiến lược dài hạn và những sách lược ngắn hạn, trung hạn để đối phó với sự nổi dậy của người dân. Việc sửa đổi Hiến pháp hiện nay là điều đã được chuẩn bị kỹ càng tuy họ vẫn bị bất ngờ trước một số phản ứng của người dân.
Thành phần thức tỉnh để đấu tranh cho dân chủ hiện nay là ai, chiếm bao nhiêu phần trăm dân số? Nổi bật là trí thức, văn nghệ sĩ, cựu đảng viên – quan chức và những người trẻ chiếm bao nhiêu phần trăm trong tầng lớp của họ? Chưa có sự thống kê chính thức nhưng nhìn thực tế e rằng còn quá ít. Và lực lượng đông đảo ủng hộ họ để khi cần có thể trở thành sức mạnh vật chất trong cuộc đấu tranh là ai, hàng ngàn, hàng vạn hay hàng triệu người, trên những địa bàn chiến lược nào? Chưa ai có hiểu biết cặn kẽ hoặc có thẩm quyền, ngoài những phỏng đoán mà phần lớn là chủ quan duy ý chí như đã từng được thực tiễn trắc nghiệm, để có thể khẳng định điều này. Chính vì thế cuộc đấu tranh hiện nay vẫn là một cuộc đấu chưa cân sức.
Tình hình như thế đòi hỏi một cuộc tổng duyệt và tập họp mọi thành phần có khả năng ủng hộ dân chủ để chuyển hóa chế độ độc tài toàn trị. Các thành phần này có quá khứ khác nhau, lợi ích cục bộ khác nhau, cách suy nghĩ và ứng xử khác nhau nhưng có cùng chung khát vọng tự do dân chủ và ước mơ đất nước hòa bình, phát triển. Tất cả sẽ tập hợp thành lực lượng, sức mạnh đích thực của dân tộc.
Thành phần, cá nhân nào cũng có nhược điểm nhất định. Nếu cứ vì nhược điểm mà tấn công lẫn nhau thay vì tấn công đối phương, chưa kể đến một số người chỉ chuyên “chửi cho sướng miệng” bất chấp lợi ích chung hoặc với mục đích gây chia rẽ, thì chuyện thành công chỉ là “nhiệm vụ bất khả thi”. Nếu ta đặt mình vào vị trí của người khác ta sẽ hành xử như thế nào trong tình huống đó hay cũng chỉ như thế và có khi còn tệ hơn. Một chút thiện vẫn hơn một chút ác, dĩ nhiên hơn toàn ác.
Cuộc tranh đấu hiện nay rõ ràng là chưa cân sức trong toàn cảnh mâu thuẫn lớn nhất của thời đại giữa nhân dân bị trị và chế độ độc tài toàn trị. Trong ngắn hạn và trung hạn, lực lượng dân chủ có thể vẫn còn ở trong thế yếu nhưng dài hạn, nếu biết dựa vào và khơi dậy sức mạnh của dân tộc, chắc chắn lực lượng dân chủ sẽ chiếm thượng phong và giành chiến thắng vì nhân dân không thể chấp nhận mãi sự đày đọa của một thiểu số độc tài. Trong viễn cảnh đó, sự đoàn kết hiệp đồng chiến đấu giữa các thế hệ để đấu tranh hiện nay nhất định cần một cương lĩnh có tầm chiến lược, trong đó có chỗ và cơ hội hành động cho mọi người khao khát tự do dân chủ, kể cả lối thoát cho những người cộng sản và Đảng Cộng sản để tránh một bi kịch lịch sử tiếp theo, chắc chắn sẽ có rất nhiều hận thù, máu và nước mắt.
28/3/2013
T. D. B. C.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

Nguồn: http://www.boxitvn.net/bai/45944

Không hiểu


Trần Thị Nga

Đến giờ này tôi vẫn chưa hiểu lý do vì sao mà bộ máy Công an, An ninh và chính quyền Việt Nam lại đề cao chúng tôi, những nạn nhân của tệ nạn buôn bán nô lệ đến thế. Họ đề cao rồi dùng mọi thủ đoạn để ngăn cấm, chia rẽ, hãm hại chúng tôi.
Tình cảm chân thành giúp đỡ nhau khi hoạn nạn thế này mà Công An Việt Nam ngăn cấm gặp nhau chia sẻ và gửi lời cảm ơn tới những người đã chăm sóc giúp đỡ mình khi hoạn nạn.

Từ trước tới nay chuyện Công an, An ninh quấy nhiễu, đe dọa người dân đã quá nhiều, nhiều đến nỗi thành quen. Nhưng dù có quen đến đâu đi nữa cũng không thể chấp nhận sự tàn ác vô lối đó của những kẻ hưởng lương từ đồng thuế của dân nuôi họ rồi họ lại quay lại hại dân.
Chúng tôi, những nạn nhân của tệ nạn buôn bán nô lệ, hẹn nhau ngày Noel hàng năm gặp nhau chia sẻ và giúp đỡ nhau trong tình cảm yêu thương, vậy mà chúng tôi đã bị Công an, An ninh các tỉnh các địa phương ngăn cấm, đe dọa đủ kiểu.
Trước ngày Noel năm 2012 vài hôm bắt đầu chúng tôi đã bị Công an, An ninh đến nhà ngăn cấm, một số người vì bị áp lực gia đình, số khác bị Công an, An ninh quấy phá công ăn việc làm đành phải ở nhà. Còn lại chúng tôi hơn 10 người đến từ 10 tỉnh, thành trong cả nước, những người làm việc tự do khi thấy việc mình làm không vi phạm pháp luật và đạo đức làm người nên không sợ sự đe dọa của Công an.
1. Cô bạn L. quê Tiền Hải, Thái Bình trước đó 1 tuần liền ngày nào gia đình cô cũng bị Công an từ tỉnh tới xã đến động viên, cấm không cho cô đi gặp mặt ngày Noel, cô đã hỏi lại mấy anh Công an tỉnh:
L.: Lý do tại sao các chú, anh đến nhà cấm tôi không được gặp bạn bè?
Công an: Gặp bạn bè là điều tốt, nhưng gặp cô Nga và những người bạn từ VP của ông Hùng về thì không được, bởi họ là người của Đảng khác.
L.: Tôi không cần biết họ là người của Đảng nào? Điều quan trọng là chúng tôi gặp nhau trên tinh thần đoàn kết chia sẻ, giúp đỡ nhau.
Công an: Việc gặp nhau chia sẻ, giúp đỡ nhau là việc tốt, nhưng chị có biết công việc của ông Hùng và cô Nga làm giúp người gặp nạn nhưng đằng sau là Phá hoại An ninh quốc gia không?
L.: Anh nói vậy thì tôi biết vậy, còn khi tôi gặp nạn chính họ đã giúp tôi và với tôi họ rất tốt lành.
Công an: Vì họ là người của Đảng khác nên chúng tôi cấm chị không được quan hệ với họ và không được gặp nhau ngày Noel.
L.: Anh cho tôi hỏi, khi người của Đảng Cộng sản các anh suy đồi đạo đức, làm việc sai trái, tham ô, hối lộ các anh có tránh xa họ không?
Công an: Đấy là việc khác.
L: Tôi hỏi là hỏi thế thôi, còn việc đi gặp bạn bè ngày Noel tôi vẫn cứ đi.
Và sáng 24/12/2012 L. đã ra khỏi nhà khi phải hóa trang như Ninja mới thoát khỏi những ánh mắt của Công an, An ninh ngồi canh quanh nhà và đã đến được với chúng tôi, còn gia đình L. cả ngày hôm đó phải tiếp đón Công an – những vị khách không mời. Sau ngày Noel L. bị Công an tỉnh và huyện gọi lên làm việc hai lần.
2. Bạn Huệ quê Tây Ninh chiều ngày 23/12/2012 khi đang ở sân bay thì gia đình gọi điện nói Công an xã đến đưa giấy mời Huệ lên Công an làm việc. Huệ nói với gia đình về quyền tự do của mình để gia đình yên tâm và từ chối nhận giấy mời. Mời Huệ bất thành, sáng hôm sau Công an mời mẹ của Huệ lên làm việc.TạiCông an xã bà đã trả lời thẳng thừng: “Việc con gái tôi gặp nạn là sự thật. Là một nạn nhân, khi Huệ về nước, các anh là chính quyền địa phương đã có sự động viên giúp đỡ gì nạn nhân chưa? Hay từ khi con tôi về nhà đến giờ các anh hết lần này đến lần khác quấy nhiễu gây phiền phức cho con tôi. Con tôi nó có quyền tự do của nó, nếu nó phạm tội các anh cứ đưa lệnh ra mà bắt, đáng tử hình thì bắn bỏ, đáng đi tù thì bắt giam. Còn không thì đừng có mà quấy nhiễu nó nữa.”
Ngày 01/02/2013 Huệ bị sáu người Công an và An ninh lừa (trong đó ba An ninh tỉnh, một Công an huyện, một Công an thị trấn, một Công an xã), trong số đó chỉ có anh Công an huyện là mặc sắc phục nhưng không nói gì, còn ba anh An ninh tỉnh thì quát mắng:
- “Có quen chị Nga không? Hôm Noel ra Hà nội với mục đích gì? Có bị chị Nga xúi giục làm việc phá hoại an ninh quốc gia không?”
Huệ trả lời: “Có quen chị Nga, ra Hà Nội với mục đích du lịch thăm bạn bè, không bị chị Nga xúi giục cái gì cả bởi tôi là người lớn”.
Chúng bắt Huệ viết bản cam kết không được chơi với tôi nữa. Huệ không viết với lý do “Em không có nghĩa vụ phải viết những điều vớ vẩn ấy”.
Khi ký biên bản Huệ yêu cầu được giữ một bản chúng không cho, đôi co khá lâu không được như ý chúng đập bàn, đập ghế đe dọa đủ kiểu không được chúng đi ra ngoài bàn bạc rồi vào bảo Huệ ký vào chúng đóng dấu rồi đưa Huệ một bản. Tin lời chúng Huệ ký xong thì chúng lật mặt.
3. Tối 23/12/2012 anh bạn tên Chiến đang làm việc tại Nghĩa Đàn, Nghệ An. Anh mua vé xe khách xong, khi vừa bước chân lên xe có ba Công an mặc thường phục đứng trên xe đẩy anh xuống với thái độ hung hãn, anh hỏi lý do chúng bảo cứ theo chúng về đồn Công an sẽ rõ. Dù đã cố gắng chống trả nhưng mình anh không thể chống lại người lực lưỡng và vô nhân tính cộng thêm hai người phụ trợ. Chúng đưa anh về Công an huyện Nghĩa Đàn làm việc từ chiều tối ngày 23 cho tới trưa ngày 25. Trong lúc thẩm vấn, anh Chiến đã tranh cãi nhiều với những tên Công an đó về lý do tại sao bắt anh, rồi anh đòi trả tiền vé xe 150.000đ mà anh đã mua. Nhưng Công an cứ như cái máy được nạp pin để phát ngôn, bảo: “Đã có lệnh cấm không được đi gặp mặt mà anh cố tình đi thì tự chịu thôi, chúng tôi không có trách nhiệm về tiền vé xe của anh”. Anh yêu cầu đưa lệnh cấm, chúng câm miệng.
4. 19g ngày 23/12/2012 anh bạn tên Giáp quê Quảng Bình cũng chung cảnh ngộ với Chiến, anh mua vé ở bến xe Bố trạch hết 250.000đ, ngồi uống café đến giờ xe chạy vừa lên tới cửa xe đã bị 5 tên mặc thường phục bắt về Công an TP Bố Trạch thẩm vấn cũng đến trưa ngày 25/12/2012.
Bản thân tôi từ ngày 18/12/2012 đã có An ninh bao vây quanh nhà, tối 18 tôi nhận được tin nhắn đe dọa giết mẹ con tôi, sáng 19 tôi lại tiếp tục nhận được tin nhắn. Để bảo đảm cho tính mạng ba mẹ con tôi đã đón xe taxi đi Hà Nội, khi xe chạy tôi phát hiện có hai xe máy bám theo tên cầm lái là Trần Anh Tuấn nhân viên phòng bảo vệ chính trị Công an tỉnh HàNamlà một trong số những kẻ đã từng bắt cóc tôi. Thấy tình hình bất ổn khi tên Tuấn chạy xe vi phạm luật giao thông bị cảnh sát giao thông tít còi dừng lại, tôi đã có cơ hội vào bến xe và lên xe bus. Vài phút sau tên ngồi sau xe vào yêu cầu bảo vệ và lái xe đuổi mẹ con tôi xuống. Cũng may là những người lái xe và bảo vệ ở đó hầu hết đều biết tôi qua những lần đi biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược về chụp được ảnh tôi hay cho các anh ấy xem, khi đó một anh đã ra dấu là mẹ con tôi cứ ngồi yên trên xe, kết quả là yêu cầu của tên An ninh đó bất thành.
Trần Anh Tuấn nhân viên Phòng Bảo vệ Chính trị Công an tỉnh Hà Nam đang điều khiển xe máy bám theo tôi.
Tin nhắn đe
Tới Hà Nội mẹ con tôi xin tá túc trong một nhà thờ vì đã có lần tôi nghỉ ở nhà nghỉ đã bị Công an bao vây khám xét. Dù đã cố tránh không ra khỏi cổng nhà thờ nhưng những anh An ninh và Công an vẫn không tha cho mẹ con tôi. Công an đã đưa tấm hình họ chụp khi tôi bế con đứng dưới chân tượng Đức Mẹ cho vị Linh mục ở đó yêu cầu không chứa chấp mẹ con tôi, rồi họ còn cho người vào tận nơi tôi nghỉ quấy nhiễu, lôi kéo mẹ con tôi ra khỏi cổng nhà thờ nơi những tên An ninh đang ẩn nấp. Có mấy người thấy cảnh tôi bị lôi kéo khi trên tay đang bế đứa con mới sinh được vài ngày liền ra tay nghĩa hiệp giúp đỡ. Khi những người bạn của tôi biết chuyện chạy đến thì những tên An ninh đã ra hiệu cho kẻ quấy nhiễu tôi bỏ chạy, còn họ thì chui vào một cơ quan của Hội Chữ Thập Đỏ gần đó và được bảo vệ. Khi đó tôi mới sinh con theo dạng mổ đẻ lên không có sức kháng cự và cũng chưa thể nói to như bình thường.
16g ngày 24/12/2012 hơn 10 người chúng tôi gặp nhau tại quán bia hơi địa chỉ 181 Nguyễn Lương Bằng, Q Đống Đa, Hà Nội để giao lưu tâm sự với nhau cũng bị An ninh kèm cặp theo dõi.
Gặp nhau giao lưu ngày 24/12/2012
Trần Anh Tuấn nhân viên Phòng Bảo vệ Chính trị Công an tỉnh Hà Nam và đồng nghiệp canh gác
Khi về tới nhà tất cả mọi người đều bị Công an mời đi thẩm vấn ngoại trừ tôi. Tất cả các cuộc thẩm vấn đó đều từa tựa giống nhau với những câu hỏi:
- “Tại sao lại quen chị Nga và Cha Hùng?”
- “Có biết chị Nga là người của Đảng Việt Tân không?”
- “Có bị chị Nga dụ dỗ, lôi kéo và giao cho làm việc gì không?”
- “Từ nay cấm anh, chị không được liên hệ với chị Nga và Cha Hùng nữa nếu không thì đừng trách chúng tôi”.
Trong số đó có chị Dung quê Quỳ Hợp, Nghệ An năm 2007 bị tai nạn giao thông chảy máu não, chính tôi là người tiếp nhận hồ sơ giúp chị khi chị bị Văn phòng Đại diện Việt Nam tại Đài Loan bỏ rơi khi tính mạng đang nằm trong ranh giới giữa sự sống và cái chết. Chị đã trả lời Công an huyện Quỳ Hợp: “Nếu không có chị Nga với Cha Hùng thì bây giờ các ông xuống âm phủ mà tìm tôi, có lẽ giờ này xương cũng không còn cho các ông tìm nữa. Mấy năm trước tôi còn bị đau đầu, mắt mờ nên không ra gặp họ được, giờ đầu tôi hết đau, mắt sáng rồi tôi ra cho họ thấy tôi khỏe mạnh để họ mừng cho tôi tại sao lại cấm tôi?”.
Anh Công an huyện nói: “Nếu chị không nghe lời chúng tôi mà vẫn tiếp tục liên hệ với ông Hùng và chị Nga bị Công an bắt giam, khi đấy đừng trách chúng tôi”.
Dung: “Tôi có tội gì mà các ông đòi bắt?”
Công an: “Rồi chị sẽ biết”.
Anh Quyết ở xã Xuân Áng, huyện Hạ Hòa, Phú Thọ khi sang Đài Loan làm việc đã bị tai nạn lao động trở thành người tàn phế, mọi sinh hoạt của anh phải gắn liền với xe lăn và đôi nạng. Khi gặp nhau giao lưu với chúng tôi về anh đã bị Công an đến tìm, những ngày đó bà ngoại anh mất, đi lại khó khăn lên anh ít ở nhà, Công an vào không gặp đã nói với bố mẹ anh về phải cấm anh không được giao lưu gặp gỡ chị Nga và những người ở Văn phòng của ông Hùng về, chị Nga là kẻ phản động, bán nước rồi lại bị chị Nga súi dục làm việc Phá hoại an ninh quốc gia. Bố mẹ anh nghe vậy rất hoảng sợ đã về ngăn cấm, anh nói “ Ngày con bị tai nạn ở bên Đài Loan chính họ là người giúp đỡ con, khi về Việt Nam chị Nga là người hướng dẫn con làm những thủ tục để đòi quyền lợi, cũng chính chị ấy chỉ cho con ra xã làm thủ tục lĩnh tiền trợ cấp và bảo hiểm y tế. Người ta giúp con khi hoạn nạn, giờ có cơ hội gặp nhau để nói lời cảm ơn là điều tốt chứ sao lại cấm con”. Bố mẹ anh nghe thế đã ủng hộ việc đi gặp chúng tôi của anh.
Trưa ngày 03/3/2013 Quyết đang nằm viện phải mổ cột sống vì bị vôi hóa do lần tai nạn thì ông Thắng Phó Chủ tịch xã đã nói với bố của Quyết trước mặt nhiều người dân trong xã là anh dùng máy tính vào mạng internet giao du với bọn phản động để phản đối chính phủ này kia, Công an đã về xã xác minh. Ông yêu cầu bố của Quyết về quản lý không cho Quyết dùng máy tính. Từ câu nói đó của ông Thắng dân làng đã xôn xao bàn tán, lời ra tiếng vào làm bố của Quyết ức chế, ông đã đập máy vi tính của anh. Chiều tối hôm đó tôi đã gọi điện yêu cầu ông Thắng đến xin lỗi Quyết và gia đình với lý do: “Là một người khỏe mạnh anh dùng lời nói vu khống, hãm hại để cô lập một người tàn phế đang phải nằm viện đã là tội ác, đằng này anh là cán bộ của Đảng, của Nhà nước mà làm điều đó thì tội ác đó được nhân lên nhiều lần, nếu Quyết có tội thì Công an đưa lệnh ra mà bắt, còn Quyết không có tội mà Công an và chính quyền các anh làm điều bất nhân, hại Quyết tàn phế nốt tâm hồn thì chúng tôi những người yêu công lý và sự thật sẽ giúp đỡ Quyết không để các anh yên mà sẽ tố cáo tội ác của các anh”. Ông Thắng hứa sẽ làm nhưng sau đó ông ta đến nhà Quyết không xin lỗi mà chỉ thanh minh việc ông làm là đúng.
Quả thực đến giờ này tôi vẫn chưa hiểu lý do vì sao chính quyền Việt Nam lại sợ tình cảm chân thành giúp đỡ nhau khi hoạn nạn của chúng tôi đến như thế? Và tại sao cứ những ai làm việc tốt giúp đỡ người bị hại thì chính quyền và công an đều cho là người của Đảng Việt Tân? Câu trả lời này tôi xin dành cho chính quyền và công an Việt Nam hiện nay!
T. T. N.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Nguồn: http://www.boxitvn.net/bai/45933

Không phải thay đổi sẽ làm rối loạn xã hội


BS Nguyễn Quang Bình Tuy

Tướng Tô Lâm đã lập luận nếu “đặt vấn đề Hiến pháp mới quy định phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” thì sẽ mắc phải “các âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng việc góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhằm tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng, gây bất ổn định chính trị, xã hội của đất nước”. Tôi xin phản biện ý của Tướng Lâm chung quanh vấn đề “thay đổi”.
Thay đổi từ trên cao xuống là thay đổi khôn ngoan nhất, không đổ máu và không gây rối loạn xã hội như người ta lo sợ. Myanmarlà một thử nghiệm thành công, nên theo cách của họ. Đừng chủ quan rồi khư khư giữ lấy ghế của mình, để đến khi mất kiểm soát mới tính tới nhượng bộ (như Syria, Lybia thì đến độ không có đường lui để giữ mạng sống, buộc phải giữ “tới cùng”) thì không phải là cách làm khôn ngoan. Không một người dân nước nào muốn sống trong xã hội bị rối loạn, bất ổn, bạo lực, chiến tranh… Nhưng nếu bị buộc phải làm điều đó để có một tương lai tươi sáng hơn, thì họ sẽ làm, dù biết rõ phải hy sinh, nhưng khát vọng “tương lai tươi sáng hơn” giúp họ có nhiều nghị lực hơn gấp nhiều lần để làm bất cứ điều gì. Minh chứng cho điều này là các cuộc đánh giặc ngoại xâm, mà gần nhất là Pháp, mặc dù Pháp có cả trăm năm đô hộ với vũ khí hiện đại, nhưng cũng không làm họ nhụt chí. Chẳng phải họ muốn có một tương lai tươi sáng hơn cho không chỉ con cháu họ mà cho dân tộc ViệtNam mai sau hay sao? Họ hy sinh cả cuộc đời, hy sinh nhiều người trong gia đình, cũng là mong có được “tương lai tươi sáng hơn” cho con cháu, chứ bản thân họ cũng đâu có sống được bao lâu sau chiến tranh?
Tại sao chúng ta tốn trí tuệ, sức lực và cả xương máu để “giành độc lập cho dân tộc” nhưng rồi lại gắn thành quả ấy chỉ cho một nhóm “giai cấp”? Nay nhóm giai cấp này đã trở nên quyền lực và giàu có, và trở thành “nhóm lợi ích”. Nếu biết tình hình như hiện nay, chắc chắn không ai hy sinh cho cuộc chiến đó, bởi nó đã thành vô nghĩa, bởi những mục tiêu cao cả ban đầu “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc” cho “cả dân tộc Việt Nam” nay chỉ còn thu nhỏ cho “nhóm lợi ích” đó, bỏ mặc những lực lượng xã hội khác. Chẳng phải mục tiêu của chúng ta là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” đó sao? “Dân giàu” khác xa với “nhóm lợi ích giàu”. Nay chúng ta đã và đang xây dựng một xã hội “nhóm lợi ích giàu”, không khác gì “cường hào ác bá” thời phong kiến, chỉ thay đổi hình thức và tên gọi mà thôi.
Thay đổi mà người dân mong đợi là tạo một xã hội tốt đẹp hơn, có nhiều sân chơi hơn cho nhiều người chứ không giành đặc quyền cho một nhóm người, xã hội mà mọi người đều có cơ hội làm giàu, miễn là họ “có tài”, chứ không phải “có quyền” và “có đặc quyền” như hiện nay. Nếu nhiều người giàu lên vì có quyền (điển hình là “nhóm lợi ích”) thì không được xã hội kiêng nể, trọng vọng mà trong thâm tâm người dân là khinh miệt họ, bởi biết rõ tiền họ có là do bòn rút, do “trộm cắp”, “cướp giật” và “hợp thức hóa” mà ra, chứ không phải do “tài năng”.
Nếu có ai đó nghĩ rằng không cần thay đổi, như hiện tại là tốt rồi, thì hãy nhìn sang các nước lân cận, không cần nhìn sang Âu Mỹ làm gì, và chỉ ra có nước nào nghèo và lạc hậu hơn Việt Nam trong số 10 nước Đông Nam Á không? Dân ở nước nào “sướng” hơn? Có một cán bộ tập kết cao cấp tôi kêu bằng Thím Ba (bạn thân của ba mẹ tôi), đi Thái Lan chơi (năm 2012) nhờ có con làm cho công ty nước ngoài có tiền tài trợ cho ba mẹ đi du lịch. Khi qua Thái Lan, Thím Ba nói với cậu con trai: “Sao dân người ta sướng quá, mà dân mình khổ quá vậy con?”. Tôi nghe kể mà ứa nước mắt, bởi đó cũng là cảm giác của tôi cách đây gần 20 năm khi mới vừa bước xuống sân bay Bangkok (lúc đó phải khai là “thất nghiệp” mới được đi nước ngoài, còn trí thức thì khó khăn lắm, gần như không thể đi). Một cảm giác như vừa trong môi trường thiếu oxy ngột ngạt bước vô phòng dưỡng khí. Trước đây, nói tới nước “có vấn đề”, nhất ASEAN, thì ai cũng nêu đích danhMyanmar. Nhưng nay thì ViệtNamđã thay vào chỗ đó, mặc dù không ai nêu tên chỉ mặt. Lãnh đạo các nước cũng tế nhị, nhưng họ cũng rất mong muốn Việt Nam “thay đổi” để ASEAN hùng cường, có sức nặng hơn trên trường quốc tế. “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, nếu xem ASEAN là “gia” (một gia đình), trong gia đình còn có “đứa con” “khác người”, thì “ra ngoài đường” nói ai nghe, ai nể?
Thay đổi có “dễ sợ” như một số người vẽ ra không? Mà ngay khi họ vẽ ra điều đó, tôi tin chắc một ngày nào đó, họ sẽ phản đối lại chính điều họ đã vẽ ra, bởi lúc đó họ không còn hưởng lợi từ cái họ đã vẽ ra đó nữa. Mỗi người một nghề, một năng khiếu bẩm sinh. Làm sao để mỗi người phát huy hết khả năng của mình để đóng góp cho sự phát triển chung của xã hội, kể cả chính trị. Chính trị, kinh tế, nghệ thuật, kỹ thuật… đều phải có khiếu thì mới đạt đỉnh cao, đóng góp mới nhiều. Liệu những người phản đối thay đổi bây giờ, rồi con cháu họ có được như họ không, có khả năng làm chính trị như họ không hay lại thích nghệ thuật? Vậy thì cớ sao lại phải bảo vệ cái ghế ấy cho con mình, trong khi nó không có khả năng và cũng không thích ngồi cái ghế đó. Nó có thể làm cái khác tốt hơn nhiều, trở nên giàu có hơn và được xã hội trọng vọng hơn. Con cái trong một gia đình không nhất thiết phải theo nghề cha mẹ, đôi khi “tréo cẳng ngỗng” đến nỗi cha mẹ không nghĩ tới. Tôi tin là các bậc từng làm cha làm mẹ cũng thấu hiểu điều này, bởi con người sinh ra có một thiên hướng nghề nghiệp bẩm sinh, chỉ cần gặp môi trường thuận lợi, nó sẽ đâm chồi nẩy lộc và cho trái ngọt, hơn cả mong đợi. “Cha mẹ sinh con, trời sinh tánh” là vậy. Có thiên tài nào trên thế giới là con của một thiên tài không?
Vậy, xin phân tích thêm những khái niệm còn chưa rõ, mà nhiều người đôi khi còn nhầm lẫn.
  1. 1.     Đảng phái chính trị có bất biến theo thời gian?
Phải nói ngay, đảng phái chính trị phải thể hiện là “trí tuệ” chứ không phải thể hiện “bạo lực, cơ bắp, hay vũ lực”!
Đảng phái là tập hợp một nhóm người gọi là “tinh túy của xã hội”, có khả năng đưa ra một cương lĩnh để lèo lái đất nước. Cương lĩnh, đường lối của một đảng phái nếu phù hợp với xu thế và nhu cầu của xã hội vào một giai đoạn nhất định, thì sẽ được lòng dân và dân hết lòng ủng hộ, bao bọc, che chở, và nhờ đó có đủ sức mạnh để thực hiện ý chí đó. Hay nói cách khác, nếu chỉ dựa vào sức lực của “một nhóm đảng viên” mà không có sự ủng hộ của dân, thì đảng phái đó cũng không làm được gì, cho dù có “quyết liệt” tới đâu, cương lĩnh có hay cách mấy.
Như vậy, công việc của đảng chủ yếu là “lãnh đạo” nhà nước, còn nhân dân mới là “người làm trực tiếp”. Nếu ai từng lãnh đạo điều hành công ty hay bất kỳ tổ chức nào (kể cả bệnh viện, trường học) thì sẽ thấy tầm quan trọng của “sức dân” như thế nào, và lãnh đạo phải mẫu mực và có đủ tầm, đủ tâm như thế nào thì mới tạo được sức mạnh cho tổ chức. Đừng dùng cách tuyên truyền kiểu “bịt tai che mắt” lỗi thời để áp dụng cho thời đại thông tin ngày nay. Bởi không khó để kiểm chứng thông tin chỉ qua vài cái nhấp chuột. Nếu là lãnh đạo, cần thận trọng trong từng lời nói, cử chỉ, hành động. Đừng ngây thơ nghĩ rằng “dân ngu” không biết gì, và phát ngôn và cư xử coi thường người dân, để rồi một ngày nào đó mới vỡ lẽ và tiếc rẻ “phải chi…”.
Trong quá khứ một đảng phái tốt, không nhất thiết hiện tại nó tốt. Nó phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tập hợp quần chúng của đảng đó, khả năng chọn lãnh đạo là người tài trí đủ tầm và có tâm… Đó mới là sức sống của một đảng phái chính trị. Trong quá khứ, một đảng phái tập hợp được nhiều trí thức (kể cả du học nước ngoài), nhiều thành phần tiến bộ (kể cả tư sản) vào đảng và họ đã làm nên kỳ tích bởi thuyết phục được toàn dân chung sức chung lòng chống ngoại xâm. Dân thấy rõ điều đó. Nhưng hiện tại, đảng đó có lãnh đạo khác, con người khác, ban lãnh đạo đảng không phải là những tinh túy của đảng, và nội bộ đảng viên ai cũng thấy rõ điều đó. Hậu quả là ngay trong đảng cũng không đồng lòng, nói chi đến kêu gọi dân đồng lòng? Dân im lặng không phải là đồng ý, mà vì họ không muốn ảnh hưởng “miếng cơm manh áo”, vì họ sợ bị hành hung, sợ “bạo lực công quyền” mà thôi. Lãnh đạo phải sáng suốt nhận ra điều đó, thì mới là lãnh đạo có tầm và có tâm, xứng đáng lãnh đạo đất nước. Bản thân từ “chính trị” nên hiểu là “trị vì đất nước một cách chính danh” chứ không phải “tà trị” tức là “trị vì đất nước bằng bạo lực, uy hiếp, dọa dẫm”.
Không một đảng phái nào ở Mỹ khi vận động tranh cử lại đi nói “Washington từng là người của Đảng Dân Chủ (ví dụ vậy), ông ấy từng có công lập quốc, hãy bầu cho chúng tôi, chúng tôi là bản sao của ông ấy”. Thay vào đó, họ phải chứng tỏ tổ chức hiện tại của họ có đủ trí tuệ, đủ nhân lực, đủ tài, đủ phẩm chất để làm những gì người dân đang mong mỏi, đang khát khao muốn có. Việc lấy hình ảnh tốt đẹp trong quá khứ để che chắn cho thực tại thối nát (và có nguy cơ tan rã vì chính các thành viên trong đảng không còn thấy lý tưởng tốt đẹp nữa, không cảm thấy tự hào khi đứng trong tổ chức nữa, và họ cũng cảm thấy e ngại khi đi ra đường, khi về gia đình, cộng đồng) là điều tối kỵ trong chính trị. Thay vì phải “thể hiện” và “quyết tâm” làm trong sạch nội bộ, làm thuyết phục dân bằng cách đưa những gương mặt tiến bộ lên, thì họ đang “tô vẽ, sơn phết” bên ngoài cho thấy đẹp. Tiếc thay, những cách tô vẽ đó không thể nào qua được mắt dân, bởi chẳng ai “ngu” như người ta nghĩ.
  1. 2.     Chính trị khác Nhà nước và Quân đội: chiến lược và chiến thuật – hành động
Chính trị khác Quân đội ở chỗ, chính trị đưa ra chiến lược, còn quân đội thi hành chiến lược đó. Chính trị sẽ có tầm bao phủ tất cả các lĩnh vực của một đất nước: kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa, an ninh, quân đội… Như vậy quân đội cũng như các lĩnh vực khác, là một bộ phận để thực thi các chiến lược của chính trị. Chính trị mà đại diện là “chính phủ” có thể thay đổi, mục tiêu cuối cùng là để chọn lựa một chiến lược tốt nhất thông qua việc nhân dân lựa chọn một đảng chính trị tốt nhất với cương lĩnh rõ ràng nhất.
Bản chất của chính trị là phải thay đổi, vì chiến lược quốc gia sẽ thay đổi theo từng thời kỳ, cần có một nhóm đủ tầm và đủ tâm để điều hành giai đoạn đó và đưa ra chiến lược phù hợp. Chiến lược không đúng, không sai, chỉ có chiến lược phù hợp với giai đoạn lịch sử nhất định, để giải quyết vấn đề của đất nước, của dân tộc, với mục tiêu tối thượng là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Bởi thế nên mới có cạnh tranh chính trị, bàn luận công khai mà không bị quy chụp kết tội là “phản động”, để mọi người, mọi giới, mọi tầng lớp trong xã hội soi xét để chọn cái nào có lợi nhất cho xã hội vào thời điểm đó. Cái khác là không đánh giá quá khứ đúng sai, mà đang tính những sách lược tương lai, đang vạch ra một con đường sáng cho mọi người, cho dân tộc mình bước tiếp.
Trong khi đó, quân đội là bất biến, với mục tiêu là bảo vệ đất nước, chủ quyền, chống ngoại xâm, giữ hòa bình để đất nước phát triển. Khi đất nước bình yên phát triển, thì chính sự giàu có chung của xã hội, sẽ có phần của quân đội trong đó, mà cụ thể là bản thân quân nhân, con cháu của quân nhân cũng sẽ được sống trong sung sướng.
  1. 3.     Sự nguy hiểm của chính trị hóa quân đội
Bản chất của quân đội của bất kỳ nước nào cũng không có chính trị. Việc chính trị hóa quân đội có nghĩa là một nhóm chính trị nào đó nắm quyền điều hành quân đội để bảo vệ lợi ích chỉ của nhóm chính trị đó thôi. Việc trao cho Tổng thống quyền “tổng tư lệnh tối cao” khác hoàn toàn với việc “chính trị hóa quân đội” như hiện nay. Bởi vì Tổng thống là của đất nước, của dân, phụng sự vì dân vì nước, cho dù khi tranh cử là đảng viên của một đảng phái nào đó. Nhưng khi làm Tổng thống, ông không có quyền dùng quân đội để bảo vệ và phục vụ lợi ích của riêng đảng của mình. Tổng thống Ai Cập Mursi mắc phải sai lầm này, và đã bị phản đối.
Có lập luận cho rằng “các đảng phái đều có âm mưu tranh giành quyền điều hành quân đội”, phi chính trị hóa quân đội là “mắc bẫy”. Thực ra cách nói này không đúng, và sai về bản chất vấn đề. Việc phi chính trị hóa quân đội cũng giống như việc gỡ bỏ “vòng kim cô” trên đầu của quân đội mà thôi. Khi đó, quân đội sẽ không bị sai khiến bởi một đảng phái nào đó để phục vụ và bảo vệ cho lợi ích của riêng đảng phái đó, bảo vệ sự tồn vong của nhóm người đó (thiểu số) và vô tình quay lưng lại với nhân dân (đa số). Nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân (trong đó có gia đình và người thân của quân nhân) nay không còn.
Nếu lập luận rằng “còn Đảng, còn ta” thì e rằng không thuyết phục. Bởi “Đảng” là đảng, còn “ta” là ta. “Ta” từ nhân dân mà ra, sinh ra để bảo vệ nhân dân, bảo vệ đất nước. Việc trả quân đội về “dân sự”, không “chính trị hóa” sẽ tăng quyền lực thực sự cho các chỉ huy, và có sức mạnh vượt bậc, không bị “một người không có chuyên môn, không biết gì về quân sự” “cỡi đầu cỡi cổ”.
Nếu chính trị hóa quân đội, thì mỗi đảng được lập ra sẽ kèm theo việc lập quân đội riêng để tăng sức mạnh cho đảng đó, nghĩa là sẽ dẫn tới nội chiến! Lúc đó, sức mạnh trí tuệ của đảng được thay thế bằng sức mạnh vũ lực của quân đội. Tức là thay vì thể hiện “trí tuệ hơn người”, thì các đảng phái sẽ tranh nhau thể hiện “cơ bắp hơn người”. Thế thì đất nước rơi vào nội chiến lần nữa chăng?
Các đảng phái tranh nhau bằng trí tuệ, chứ không phải tranh nhau bằng vũ lực. Một khi đã thể hiện vũ lực thì chỉ chứng tỏ cho dân thấy “trí tuệ mình kém hơn người khác”, và không tự tin nghĩ rằng mình sẽ thắng bằng trí tuệ.
  1. 4.     Thay đổi từ cấp càng cao (chủ động thay đổi) thì càng ít rối loạn và ngược lại
Myanmar đã khôn ngoan, rất khôn ngoan để chọn một lối thoát cho sự bế tắc của họ. Cho đến giờ, sự thay đổi đó chưa tạo ra một rối loạn nào, mà ngược lại tăng uy thế trên trường quốc tế. Từ một nước bị cô lập, bị “đội sổ” trong 10 nước ASEAN, nay Myanmar đã thay đổi. Vậy ai sẽ thay thế? Việt Nam! Nói tới nước “có vấn đề” trong ASEAN, mọi ánh mắt đều dồn về “Việt Nam”. Những ánh mắt e ngại của cộng đồng quốc tế đã chuyển từ Myanmar sang Việt Nam. Sự thay đổi này không có ai “giật dây” cả, mà họ thấy cần thiết, thấy có lợi cho dân, và là lối thoát an toàn cho những lỗi lầm trước đây. Tại sao chúng ta cứ khư khư, liệu giấu mãi sai lầm được không? Sự khoan dung của người Việt sẽ an toàn cho tất cả, để cùng tự hào và không mặc cảm khi đi ra các nước.
Các nước bị rối loạn hầu hết là thay đổi chậm, và tệ hơn là thay đổi “từ dưới lên”. Bởi vì khi càng cố giữ, càng tỏ ra bạo lực, thì càng gây thù oán, càng xa dân mà thôi. Khi không có một đảng phái nào nổi trội hơn hẳn, ắt sẽ rối loạn. Cũng như phân tích trên, đảng phái cần được đa số dân ủng hộ thì mới “làm được việc”. Nếu để càng lâu, uy tín của Đảng Cộng sản (hiện nay đang ưu thế) ngày càng thấp sẽ là mối nguy cho xã hội. Thay đổi cũng chính là cơ hội để Đảng Cộng sản tự thay đổi chính tổ chức của mình, để trở nên vững mạnh và được dân tín nhiệm, thì cơ hội cầm quyền là chắc chắn. Khi nào Đảng Cộng sản còn kể công quá khứ, mà né tránh hiện tại, thì khi đó sẽ không thuyết phục được dân theo.
Một sự thay đổi gây rối loạn nữa là do gian lận và mất đi nền tảng pháp lý xã hội. Cứ nhìn những gì chính quyền đang đề nghị (công an được bắn trực tiếp vào dân khi “chỉ cần có dấu hiệu chống người thi hành công vụ”) cho thấy xu hướng bạo lực hóa xã hội ngày càng tăng. Đó là mầm mống của áp bức và bạo lực tự phát sẽ diễn ra. Lúc đó không còn luật pháp (mà hiện nay đã không còn), mọi người hành xử theo cảm xúc, miễn cho mình đúng thì có quyền bắn người khác (kể cả dân sẽ bắn công an – ai biết được!). Khi có nhiều người bức xúc và “chống người thi hành công vụ” thì nên xem lại đội ngũ “công chức” có hành xử đúng mực không. Bản thân “người thi hành công vụ” cũng phải làm đúng luật thì mới “tâm phục khẩu phục” được. Cứ hỏi cánh tài xế xem, có bao nhiêu biển báo giao thông bất hợp lý trên đường quốc lộ, và họ đã bị công an “làm tiền và móc túi” như thế nào, họ sẽ kể cả mấy ngày, nghe không hết. Tại sao phải tạo “nhiều cái bẫy” để công an kiếm tiền như vậy? Nhiều “cái bẫy” rõ đến mức chẳng cần học hành gì cũng biết.
  1. 5.     “Thay đổi” chứ không phải “lật đổ”, không có nghĩa Đảng phải “chết”
Nếu Đảng Cộng sản chủ động thay đổi, đừng xem thường những ý phản biện, rồi mở chiến dịch công kích và bôi nhọ, thì sẽ tốt hơn nhiều. Đừng phản ứng thái quá, bởi lãnh đạo càng cao thì phải càng sáng suốt, lời nói “trước sau như một”, đừng tỏ ra bất nhất như vừa rồi. Các ông hãy hóa trang là người dân thường, đi uống cà phê, đi ăn bình dân… sẽ thấy cả mấy bác xích lô cũng bàn chuyện thay đổi. Tại sao chúng ta quy chụp, trích đoạn để bôi nhọ? Tại sao không cho đăng toàn văn những góp ý, rồi làm một cuộc khảo sát nghiêm túc “Bạn thấy có cần giữ điều 4 không?”, sẽ nhận được câu trả lời ngay. Để đỡ tốn kém, có thể khảo sát trên VNExpress cũng được. Tôi tin là chỉ trong vòng 1 ngày, sẽ có đầy ắp bình chọn. Điều đó cho thấy người dân quan tâm tới chính trị, tới đại cuộc quốc gia, tới tồn vong dân tộc đến mức nào.
Thay đổi tức là “cho phép người khác được nói” khác ý mình mà không bị cầm tù, không bị kết tội. Để qua đó đo lường được sự cần thiết như thế nào, chứ không phải chỉ nói những gì ta muốn nói. Không ai có thể “lật đổ” được Đảng Cộng sản hiện nay, vì những “lực lượng phản động” đã đi nước ngoài hết rồi. Sao lại phải sợ một người chỉ nói mà không có súng đạn trong người? Không lẽ họ nói quá đúng hay sao mà chúng ta lại úp úp mở mở, không công khai toàn văn “họ đã nói gì”?
Nếu Đảng Cộng sản khởi xướng thay đổi bằng việc góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992, để rồi thấy “nguy cơ”, rồi “bịt miệng” lại hết, e rằng sẽ không ổn trong tình hình hiện nay. Thay vào đó, khôn ngoan hơn, tỏ ra mình có trí tuệ hơn người, bằng cách “tự thay đổi mà không cần một áp lực nào”, mới là thượng sách. Lúc đó, tôi tin rằng nhiều người sẽ vẫn bầu cho Đảng Cộng sản, chứ không phải một đảng phái nào khác, mà mình cũng không cần “ép dân bầu cho mình” bằng cách giữ điều 4. Tôi tin tỷ lệ đó vẫn là hơn 90%. Lúc đó công trạng của Đảng Cộng sản vẫn được giữ nguyên vẹn, chứ không khéo sau này, dân “tự xử” thì họ chỉ kể tội, mà quên công lao của Đảng Cộng sản là giành độc lập và thống nhất đất nước.
Đảng Cộng sản nếu chủ động tạo thay đổi, sẽ mãi “sống” trong lòng dân tộc, chứ không bao giờ “chết” như nhiều người lo sợ.
  1. 6.     Gốc rễ của rối loạn xã hội sau chính biến: gian dối và tái lập lợi ích nhóm
Các cuộc chính biến gây rối loạn xã hội, nếu nhìn kỹ thì là do không có một nhóm nào áp đảo các nhóm còn lại, và xã hội đã bị chia rẽ nhiều, hoặc do gian lận với nhau, hoặc do quân đội can thiệp và thiên vị cho một nhóm chính trị nào đó.
Như đã nói trên, chính trị là phải thể hiện “trí tuệ”, phải “đấu trí” chứ không phải “đấu cơ bắp”. Khi tình hình ổn định, nên chủ động tạo ra cuộc đấu trí thực sự, chứ đừng để xã hội dẫn tới một cuộc “đấu súng” do bức xúc không được giải quyết thỏa đáng. Kinh nghiệm các nước cho thấy, rồi tới lúc quân đội cũng sẽ đứng về lẽ phải, về chính nghĩa, khi họ được biết rõ tình hình.
Sự gian dối, vì lợi ích cục bộ của nhóm mình, của riêng đảng mình… sẽ dẫn tới rối loạn sau bất kỳ một cuộc cách mạng nào, cho dù nó nhân danh mỹ miều đến mấy, để lôi kéo mọi người hy sinh giành thắng lợi. Nhưng trước sau thì người dân cũng biết, và động thái phản ứng lại, đòi thay đổi của các cựu đảng viên Cộng sản, các đảng viên hiện tại… là minh chứng cho điều đó. Đảng Cộng sản ngày càng xa dân, ngày càng gần quân đội. Đó là một sai lầm chiến lược. Và đó cũng là gốc rễ của sự chia rẽ, của rối loạn xã hội. Đảng Cộng sản cho rằng phi chính trị hóa thì quân đội sẽ trở thành “quân đánh thuê”. Nhưng đánh thuê cho ai? Cho nhân dân sao? Còn nếu chính trị hóa như hiện tại thì quân đội không phải là phục dịch, nô lệ cho Đảng Cộng sản sao? Mà nói trắng ra là toàn thể quân đội chỉ phục vụ cho một nhóm người cầm quyền của Đảng Cộng sản, những người có lợi ích, gọi là “nhóm lợi ích”. Quan hệ như vậy là “chủ tớ” rồi. Há chẳng phải là “đánh thuê” cho Đảng Cộng sản sao?
  1. 7.     Thay đổi quan điểm quản lý quân đội, chứ không thay đổi bản chất quân đội
Thay đổi được kêu gọi là phi chính trị hóa quân đội, có nghĩa là trả quân đội lại về cho nhân dân – người chủ của đất nước. Tre già măng mọc, quân đội luôn từ nhân dân mà ra, luôn có sức mạnh của tuổi trẻ, trí tuệ của người già.
Quân đội vẫn là thể thống nhất chứ không hề yếu đi, không hề tan rã, mà ngược lại sẽ mạnh mẽ hơn rất nhiều lần. Bởi ai cũng ở đúng vị trí của họ, nên phát huy hết sức mạnh của mình, và chính vì vậy làm quân đội mạnh mẽ hơn. Việc phong hàm tướng tá không còn dựa vào ý kiến của Đảng Cộng sản, mà dựa vào thành tích và tài năng về quân sự của người đó.
Như vậy tiếng nói của các vị tướng tá sẽ được trọng vọng hơn, có sức nặng hơn, chứ không như hiện nay.
Bản chất quân đội là bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân thì không hề thay đổi. Nếu quân đội lại chỉ bảo vệ Đảng Cộng sản và chống lại nhân dân, đồng nghĩa với phản bội dân tộc, phản bội tổ quốc.
  1. 8.     Thay đổi có lợi cho con cháu của cả Đảng viên, quân nhân
Sự thay đổi sẽ tạo môi trường phát triển tốt hơn về mọi mặt: kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, chính trị…, sẽ làm nảy sinh ra nhiều nhân tài, và từ họ sẽ tạo ra rất nhiều ngành nghề, nhiều công ăn việc làm. Chỉ cần có tài trong bất cứ lĩnh vực nào, mọi người bất kể nghèo hèn, bất kể địa vị, bất kể xuất thân là gì, miễn là có nỗ lực hết mình, có tài thì ắt sẽ trở nên giàu có. Đó mới là “xã hội dân sự” mà chúng ta cần xây dựng. Không như hiện nay, chỉ dựa vào mỗi quyền lực chính trị thì mới giàu, còn không thì sẽ bị “đập chết”. Hay nói cách khác, nếu bạn không thuộc hai nhóm này thì bạn không thể làm giàu: nước ngoài và tư bản đỏ!
Khi một người giàu có, thì sẽ kéo theo nhiều người khác có thu nhập cao hơn, và nâng mức sống xã hội lên ngày càng cao. Singapore chỉ cần 30-40 năm đã đạt đến thu nhập bình quân đầu người cao nhất nhì thế giới. Người Việt Nam không phải dở, chỉ cần có môi trường tốt, thuận lợi, thì họ sẽ làm việc cật lực để thay đổi cuộc đời. Đó là khát vọng của rất nhiều người Việt. Sinh ra là người Việt, dù ở đâu, cũng phấn đấu để vươn lên vị trí cao hơn, không đời mình thì đời con cháu mình phải đạt được. Đó cũng là ý chí của người Việt. Nhiều người thành đạt ở nước ngoài là vậy. Chỉ cần tạo môi trường tốt!
Có chắc gì con cháu sẽ theo nghề cha mẹ khi nó có một năng khiếu đặc biệt khác, không phải là chính trị? Nó có thể làm giàu bằng chính năng khiếu đó mà không cần dựa dẫm vào quyền lực của cha mẹ? Đó là một xã hội dân sự. Chỉ cần giỏi đá bóng là đủ giàu có, sống xa hoa. Liệu chừng nào cầu thủ Việt Nam có thể sống cả đời bằng chính tài năng của họ?
Sự giàu có chung của xã hội, kéo theo mặt bằng lương cao hơn, và dĩ nhiên lương của quân nhân cũng tăng theo. Chứ không như bây giờ, muốn tăng 100 ngàn là cả một vấn đề. Bởi vì có quá nhiều người đang sống bám vào quyền lực mà không làm gì hiệu quả để sinh ra của cải cho xã hội. Giống như một bầy muỗi hút máu vậy.
  1. 9.     Xã hội dân sự tạo nhiều ngành nghề và tăng cạnh tranh quốc tế và vị thế quốc gia
Khi đã có tự do, sự sáng tạo của người Việt không bị bó hẹp nữa, sẽ bùng phát phát triển kinh tế, chỉ cần trong vòng 10-20 năm sẽ khác xa hiện nay. Nhiều ngành nghề mà người Việt giỏi thì sẽ được phát triển tối đa.
Sự phấn khởi của xã hội lên cao, niềm tin đã có do lãnh đạo tốt, sẽ kích thích họ làm việc. Và lúc đó không cần tuyên truyền “phải yêu nước” thì tự trong mỗi người cũng sẵn có rồi. Tự hào dân tộc lúc nào cũng có. Những ánh mắt e ngại, xem thường người Việt sẽ không còn, và vị thế quốc gia cũng tăng.
Cách đây 20 năm, tôi đến sân bay Bangkok, thấy người Myanmar nghèo khó ốm yếu nhìn mọi người với ánh mắt ái ngại, nhưng giờ họ có thể ngẩng cao đầu, mà không còn bị thế giới coi thường nữa. Đó là sự thay đổi dũng cảm, ngoạn mục, và của người có tầm, có tâm với đất nước, với dân tộc. 
N. Q. B. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Nguồn: http://www.boxitvn.net/bai/45909

Trách nhiệm với chữ ký


Nguyễn Đắc Kiên

Nhận được bài viết của nhà báo Nguyễn Đắc Kiên do một bạn đọc gửi tới, bày tỏ những suy nghĩ cá nhân nhân phát biểu của ông Nguyễn Đình Lộc trên VTV tối 22-3 về việc ông ký vào Kiến nghị 72 cũng như việc ông nhận vai trò “trưởng đoàn” trao Kiến nghị 72 cho Quốc hội, và bài trả lời phỏng vấn BBC của GS Nguyễn Huệ Chi trong ngày 23-3 xoay quanh sự việc ấy, BVN xin trân trọng đăng lên để bạn đọc tham khảo. Trước khi đăng, chúng tôi có trao đổi với GS Nguyễn Huệ Chi mong ông viết cho mấy lời đề dẫn, vì bài viết có liên quan đến ông. Dưới đây là những câu trả lời qua thư điện tử của người điều hành BVN:
Nói lên mối thông cảm với ông Nguyễn Đình Lộc là một tình cảm chân thật của tôi, vì tôi nghĩ một người từng giữ chức vị như ông mà nay tự nguyện đặt bút ký vào một Kiến nghị yêu cầu dân chủ hóa như Kiến nghị 72 là không dễ dàng gì và cũng do đó hiện đang ở trong một trạng thái phải chịu những tác động tâm lý không thoải mái gì, thế mà vẫn không rút chữ ký thì chứng tỏ việc đặt bút ký tên của ông không phải là một việc bất chợt hứng lên, hay bị ai lôi kéo, trái lại ông đã nghĩ chín chắn. Đó là thêm một hiện tượng phản tỉnh đáng mừng về nhận thức trong hàng ngũ vốn là quan chức cỡ bự của Việt nam.
Tôi cũng thành tâm mong gắn kết khối đoàn kết của phong trào dân chủ vốn còn non yếu trong tình thế hiện nay, điều đó hay hơn là vừa nghe lời phát biểu của vị cựu Bộ trưởng Tư pháp – mà mình chưa rõ lý do đích thực vì sao và có xảo thuật gì không trong cách phỏng vấn ông của truyền thông nhà nước vốn chưa bao giờ thiếu xảo thuật – liền vô tình hay hữu ý đẩy ông ta trở lại tư cách “ông quan” chứ không cho ông cơ hội phát huy tư cách “làm dân” nữa – để ông phải tiếp tục bảo vệ bằng chết những điều nó từng trói buộc dân tộc này đã bao nhiêu năm khiến đất nước ngày thêm suy thoái, xuống dốc không phanh. Như thế hỏi có ích gì hay không?
Một phong trào muốn tiến lên thì phải có những người có tầm nhìn, biết tạo sự đồng tâm, gây niềm tin cho quần chúng, chấp nhận mọi khác biệt và tìm được mẫu số chung giữa những khác biệt, chứ nếu khăng khăng đưa ra một tiêu chí cứng nhắc theo ý riêng nào đấy thì chưa họp đã tan ngay thôi.
Tất nhiên, cần hiểu cho rằng tôi không trả lời phỏng vấn về người khác cốt để nói thay “tâm sự” của mình, và cũng không có ý muốn hành xử như ông Lộc. Bản thân tôi, nếu đi trong đoàn đưa Kiến nghị, tôi sẽ không đề nghị cử ông Lộc làm trưởng đoàn, mà cử một người khác có trí tuệ nhưng là một trí thức tự do và tuyệt không từng có địa vị gì trong Nhà nước cả, như thế thoải mái hơn và cũng biểu hiện sự dứt khoát hơn về con đường dân chủ mà mình theo đuổi. Chọn “trí thức cận thần” trước sau vẫn là một sách lược đấu tranh theo kiểu mong bề trên… cởi mở. Từ lâu trang mạng BVN đã không làm thế. Tuy nhiên, đã ở trong phong trào thì phải biết gắn bó và đoàn kết với nhau – vì cách làm thì có thể ta không tán đồng nhưng người làm lại xuất phát từ ý tốt, hơn nữa dù nhiều dù ít cách nào cũng góp phần dấn thêm một bước tới đích.
Còn việc một nhà nước toàn trị dùng truyền thông để triệt hạ phong trào dân chủ đang vươn mầm là việc ai cũng dư biết và biết từ lâu, trang BVN đã từng nhiều lần “chịu trận” và lên tiếng đàng hoàng, thẳng thắn. Song để đối chọi lại việc ấy thì không thể bất cứ lúc nào cũng hùng hổ tố cáo mà được, mà hãy gắng phát huy nội lực bằng mọi cách – vì mình là một người đang tự nguyện dấn thân cho một công cuộc dân chủ, mình phải chấp nhận kẻ nói ngược với mình, nhất là khi kẻ đó có đủ phương tiện và quyền lực trong tay thì sự “át giọng” của họ làm sao tránh được. Hãy cứ bình tâm tin tưởng vào xu thế tất yếu của thời đại, khi đã đi đúng quy luật thì đến một lúc nào đấy phong trào sẽ như cái cây lớn vượt lên, bấy giờ ai muốn át giọng cũng sẽ bó tay. Cứ xem từ Kiến nghị bauxite 2009 đến nay, tiếng nói dân chủ đã là cả một bước tiến hùng hậu như thế nào, bởi chúng ta làm những chuyện thực sự ích nước lợi dân, được thực tế kiểm nghiệm và xác nhận (chống khai thác bauxite trả giá nặng nề về nhiều mặt, hay biểu tình phản đối Trung Quốc xâm chiếm biển đảo hun nóng truyền thống yêu nước,…). Cho nên, theo tôi thì mỗi người một việc khác nhau, người này nói khía cạnh này người kia nói khía cạnh khác, không nhất thiết cùng một giọng mới là đồng tâm.
Về sự kiện Kiến nghị 72, anh Nguyễn Đắc Kiên nói rất đúng là không nên chỉ dừng ở mốc lấy chữ ký và cử một phái đoàn trang trọng đến trao Kiến nghị cho Quốc hội là xong. Cần có tiếp một sự đối thoại, tranh luận công khai, trực diện và đến cùng giữa những người bảo vệ các điều đã trở thành vật cản đối với xã hội Việt Nam trong Hiến pháp 1992 và những người khởi xướng Kiến nghị 7 điểm. Việc này ai cũng mong muốn song không dễ, bởi phía bên kia với tư tưởng toàn trị thâm căn cố đế có chấp thuận cho mình không thì không tùy thuộc ở mình. Chúng ta cần có biện pháp nêu lên trước Quốc hội Việt Nam yêu cầu chính đáng và quan trọng này” – Nguyễn Huệ Chi
Ban Biên tập Bauxite Việt nam
Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu Ban soạn thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 bỏ những ý kiến khác dự thảo vào sọt rác, với lý lẽ: “Có những ý kiến trái chiều nhưng đa số người dân ủng hộ dự thảo”. Tuy nhiên, sẽ là một nỗi thất vọng to lớn nếu một cách hành xử tương tự xảy ra với những người chủ trương Kiến nghị 72 và Tuyên bố Công dân Tự do.

Đằng sau mỗi chữ ký trong hàng nghìn, vạn chữ ký của Kiến nghị 72 – Tuyên bố Công dân Tự do là một con người với những trăn trở, suy tư, thậm chí cả những rủi ro cho bản thân họ và gia đình. Vì thế, có quá đáng không khi chúng ta đòi hỏi một hành xử có trách nhiệm và thực xứng đáng với những chữ ký của mình?
Trả lời BBC Tiếng Việt, GS Nguyễn Huệ Chi cho biết, có nhiều người đã viết những lá thư bày tỏ nỗi buồn, nỗi đau và xin rút tên khỏi danh sách, vì thế: “Anh (ông Lộc) vẫn cố giữ được chữ ký thế là tốt rồi”(*).
Còn trả lời RFA Tiếng Việt, ông Nguyễn Đình Lộc nói rằng: “Cái việc hôm ấy đã làm xong rồi thì rút hay không rút làm gì nữa? Chỉ làm bằng ấy thôi chứ có làm thêm điều gì đâu? Chuyện gì mà ân hận nhỉ? Quốc hội kêu gọi nhân dân đóng góp ý kiến thì chúng tôi góp ý kiến thôi có gì đâu mà ân hận? Tiếp thu hay không thì đó là việc của ban soạn thảo, đem trình Quốc hội thì Quốc hội quyết chứ ” (**).
Trong tư cách một người đã ký tên mình vào Kiến nghị 72, tôi hy vọng rằng, đây chỉ là những ý kiến cá nhân của GS Chi và ông Lộc, không phải là quan điểm chính thức của nhóm chủ trương Kiến nghị 72.
“Chỉ làm bằng ấy thôi chứ có làm thêm điều gì đâu?… Tiếp thu hay không thì đó là việc của ban soạn thảo”.Bằng ấy thôi là bằng thế nào? Tốt rồi là tốt thế nào? – tôi đã tự hỏi mình như vậy.
Tôi tin rằng, người ta sẽ có đủ lý lẽ để biện minh cho cái “bằng ấy thôi”, cho cái “tốt rồi”. Tôi sẽ không bàn đến cái “bằng ấy thôi”, “tốt rồi” ở đây, mà sẽ bàn đến cái khác, cái liệu rằng chúng ta có thể làm tốt hơn, có trách nhiệm hơn không?
Tôi luôn tin tưởng vào ý hướng tốt đẹp và tính chính trực của những người chủ trương Kiến nghị 72, nhưng tôi nghĩ rằng có lẽ họ đã làm chưa hết nhẽ.
Khi quyết định ký tên mình vào bản Kiến nghị 72, tôi đã băn khoăn: Tại sao nhóm chủ trương không đưa ra một thời hạn tiếp nhận chữ ký? Tại sao nhóm chủ trương không đưa ra một lộ trình, mục tiêu, sau khi hết thời hạn tiếp nhận chữ ký, họ sẽ xử lý ra sao với những chữ ký đó?
Những câu hỏi này đã trở lại mạnh mẽ với tôi khi nghe ý kiến của GS Nguyễn Huệ Chi và ông Nguyễn Đình Lộc đã nói ở trên.
Cá nhân tôi cho rằng, các nhóm chủ trương Kiến nghị 72 và Tuyên bố Công dân Tự do hoàn toàn có thể làm khác. Ngay bây giờ, họ có thể đưa ra một thời hạn lấy chữ ký. Sau thời hạn đó, có thể cử đại diện trực tiếp trao bản Kiến nghị, lời Tuyên bố cùng với danh sách người đã ký tên cho Ban soạn thảo Hiến pháp, đồng thời, yêu cầu một sự giải trình, đối thoại, tranh luận sòng phẳng về những điểm khác biệt. Tôi nhấn mạnh là đối thoại, tranh luận hoặc nếu là giải trình cũng phải trực tiếp và công khai, tuyệt đối không phải là hình thức trả lời bằng văn bản.
10.000 chữ ký theo Dự thảo Hiến pháp 2013 (tài liệu tham khảo đi kèm Kiến nghị 72) đã có thể mở đường cho một người ứng cử vào Quốc hội làm Nghị sỹ, thì với 11.688 chữ ký trong bản Kiến nghị 72 hay 8.300 chữ ký trong bản Tuyên bố Công dân Tự do hiện có, tại sao lại không thể đòi hỏi một đối thoại chính thức với chính quyền?
Trong trả lời phỏng vấn với BBC Tiếng Việt, GS Chi cũng cho rằng, việc truyền thông nhà nước tuyên truyền, phản bác bản Kiến nghị 72 và các ý kiến khác dự thảo là lẽ thường, là dân chủ. Tôi không đồng ý với cách lập luận này.
Có lẽ vì GS Chi đã không theo dõi những diễn biến gần đây trên truyền hình nên mới có ý kiến như vậy. Tôi theo dõi sát sao cách đưa thông tin trên các đài, báo của nhà nước, đặc biệt trên kênh 1 của Đài truyền hình VN (VTV1). Ở đó, tôi chỉ thấy được một chiều thông tin là có một dự thảo nhà nước đưa ra và hàng loạt các ý kiến bảo vệ cho các điểm trong dự thảo. Tôi không thấy những ý kiến trái chiều và những lập luận để bảo vệ cho các ý kiến đó. Tức là, không có một sự tranh luận, đối thoại sòng phẳng trong chủ đề này. Vì thế, tôi cho rằng, sẽ theo nguyên tắc dân chủ nếu có một diễn đàn tranh luận, đối thoại sòng phẳng trên các kênh thông tin quan trọng trên của nhà nước. Nên nhớ, Đài truyền hình VN cũng như các đài, báo khác của nhà nước như: Nhân Dân, QĐND… là của người dân VN, hoạt động từ tiền thuế của nhân dân nên đòi hỏi này là chính đáng.
Tôi xin mượn lại hình ảnh “hầm trú ẩn” của Nhà báo Huy Đức để nói rằng, không chỉ ĐCS VN, kể cả những người có mong muốn thúc đẩy dân chủ tự do trên đất nước chúng ta, có lẽ đã đến lúc chúng ta cần phải ra khỏi hầm trú ẩn cuối cùng của mình.
N.Đ.K. 
http://www.boxitvn.net/bai/45894

Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc


Nguyễn Trọng Vĩnh

Cũng như một ông gì trước đây, mới rồi, để bảo vệ cho Điều 70 trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, ông Tô Lâm nói: “Đảng Cộng sản lập ra và rèn luyện các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản, vậy Điều 70 ghi Lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam là đúng”.
Vậy hãy thử đưa thực tế ra để xem ông Tô Lâm nói đúng hay sai.
Sau khi về nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lập ra Mặt trận “Việt Nam độc lập đồng minh” gọi tắt là “Việt Minh” và trong khu rừng Trần Hưng Đạo ở Cao Bằng, chính Người lập ra Đội Võ trang tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 người và giao cho đồng chí Văn (tức Võ Nguyên Giáp) chỉ huy; Người không nhân danh Đảng Cộng sản, Người cũng chưa lấy tên Hồ Chí Minh, nhân dân gọi Người là “Ông Ké”.
Lúc ấy ít người nói đến Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân thường chỉ biết “Việt Minh”, tán thành chương trình “Việt Minh”, theo “Việt Minh”, gia nhập tổ chức “Việt Minh”…
Sau Cách mạng Tháng 8, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong cuộc đấu tranh với bọn “Việt Nam Cách mạng đồng minh hội” và bọn “Quốc dân đảng” theo Tàu dựa vào bọn tướng Tàu Lư Hán, Tiêu Văn định lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh thì hàng ngày hàng chục vạn dân Hà Nội và các tỉnh xung quanh rầm rập biểu tình, hô vang “Ủng hộ Việt Minh”, “Ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh”, do đó mà giữ được chính quyền.
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát triển từ 34 chiến sĩ “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” thành quân đội quốc gia để bảo vệ nước, bảo vệ chính quyền. Thời gian đầu gọi là Vệ quốc quân (chứ không gọi là Vệ Đảng quân), cho nên mới có bài hát: “Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi, …”. Đội quân Nam tiến giúp đồng bào miền Nam đánh Pháp vẫn mang tên “Vệ quốc quân”. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói Trung với nước, hiếu với dân nên trên báo chí và trong các văn kiện sau này ghi “Quân đội ta từ nhân dân mà ra, trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Tháng Giêng năm 1946, vì sách lược, Bác Hồ đã tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản (thực tế là rút vào bí mật). Như vậy, trên công khai với dân và với quốc tế là không có Đảng Cộng sản, thế thì làm gì có chuyện Hồ Chủ tịch khi nói chuyện công khai với lớp học sĩ quan, Người lại nói Quân đội phải trung với Đảng Cộng sản? Tôi đọc Tuyển tập Hồ Chí Minh xuất bản lần thứ nhất không thấy trang nào ghi Hồ Chủ tịch nói câu ấy. Trong Tuyển tập xuất bản lần thứ 2 năm 2000 có thể người ta đã sửa thế nào đó.
Nói Đảng lãnh đạo các lực lượng vũ trang thì đúng. Đảng lãnh đạo toàn dân chứ không riêng gì đối với lực lượng vũ trang. Đảng lãnh đạo, nhưng lực lượng vũ trang vẫn là của nước, trong đó có Đảng, lực lượng vũ trang bảo vệ được nước thì cũng bảo vệ được cả Đảng, việc gì Đảng phải giành lấy cho riêng mình, “bắt phải trung thành tuyệt đối với Đảng”? Đảng lãnh đạo là nói chung, nhưng phải có binh sĩ là con em nhân dân hết lòng yêu nước, hăng hái chiến đấu, có những tướng lĩnh trí dũng và vị Tổng tư lệnh đức độ, tài ba kiệt xuất trực tiếp rèn luyện và chỉ huy thì mới chiến thắng.
Ông Tô Lâm còn lý luận bừa rằng: “Ở các nước có nhiều Đảng thì Đảng nào cầm quyền quân đội phải theo Đảng ấy”. Không đúng! Hãy lấy nước Mỹ và nước Pháp làm ví dụ.
Ở Mỹ, dù người của Đảng Cộng hòa hay Đảng Dân chủ trúng cử Tổng thống, thì quân đội vẫn là quân độicủa nước Mỹ, không phải của Đảng nào. Tổng thống được dân bầu ra là người của dân, Tổng thống của dân, của nước Mỹ, nắm quyền điều khiển quân đội nhân danh nước Mỹ không nhân danh Đảng Cộng hòa hay Đảng Dân chủ. Không phải khi ông Bush làm Tổng thống thì quân đội theo Đảng Cộng hòa, khi ông Obama làm Tổng thống thì quân đội theo Đảng Dân chủ, ở Mỹ còn tùy thuộc Quốc hội nữa.
Ở Pháp cũng vậy, người của Đảng nào nắm quyền thì quân đội vẫn là quân đội của nước Pháp. Bất cứ ứng cử viên của Đảng nào được đa số cử tri bầu làm Tổng thống, có nghĩa là nhân dân Pháp giao cho thay mặt nhân dân điều hành công việc của nước Pháp cũng như điều khiển quân đội. Quân đội tuân theo mệnh lệnh của Tổng thống là tuân theo người thay mặt cho nhân dân Pháp và nhà nước Pháp, trung thành với nước Pháp, chứ không phải khi ông Sarkozy làm Tổng thống thì quân đội theo Đảng UMP, hoặc ông Hollande làm Tổng thống thì quân đội Pháp theo và trung thành với Đảng Xã hội.
Suốt từ năm 1946, mọi lời nói, mọi việc làm của Bác Hồ đều là Trung với nước, hiếu với dân, từ cái ca tráng men uống nước phát cho bộ đội cũng in chứ Trung với nước, hiếu với dân. Lá cờ nhỏ mà Bác Hồ tặng cho trường Võ bị lục quân Trần Quốc Tuấn khi Bác đến thăm cũng ghi Trung với nước, hiếu với dân. Trong bức thư Người gửi cho thanh niên ngày 2/9/1965 dòng thứ 20 Người cũng dặn: “Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng, trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Trong Hiến pháp 1980, tại Chương IV Điều 51 ghi “Các lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân…”.
Trong Hiến pháp 1992, tại Chương IV Điều 45 vẫn còn ghi “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân…”.
Nay dự thảo sửa đổi Hiến pháp lại thêm điều 70 ghi “Các lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản…”, gạt Tổ quốc ra một bên hay đứng trên Tổ quốc, như vậy là có động cơ gì, ý đồ gì?
Lại nói về Đảng lãnh đạo.
Từ thành công trong cuộc Cách mạng Tháng 8, thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cho đến cuộc chiến đẩy lùi 60 vạn quân Trung Quốc xâm lược, không ai có thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản. Không những không phủ nhận mà nhân dân rất tôn trọng và tự giác tuân theo theo sự lãnh đạo của Đảng mà chả cần có “Điều 4 Điều 3” nào. Vì sao được như vậy? Vì mục đích duy nhất của Đảng là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Đảng không có lợi ích riêng tư nào khác. Tổ chức Đảng trong sạch, có Đảng viên hư hỏng chỉ là số rất rất ít. Đảng có phạm sai lầm thì công khai kiểm điểm trước dân, xin lỗi dân, thành tâm tích cực sửa chữa, người phụ trách chính từ chức.
Nếu bây giờ Đảng kiên quyết loại trừ hết những Đảng viên thoái hóa biến chất ra khỏi Đảng, khôi phục tính chất cộng sản chân chính của Đảng, kiên quyết bài trừ tham nhũng, xóa bỏ lợi ích nhóm, thực hiện dân chủ, trở lại gắn bó với dân, trọng dụng nhân tài thứ thiệt, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, hết lòng phục vụ đất nước thì nhân dân lại tôn phục, tự nguyện theo sự lãnh đạo của Đảng, chả cần đến Điều 4.
Nếu không thay đổi, tham nhũng cứ phát triển, nhiều đảng viên thoái hóa biến chất hư hỏng về đạo đức lối sống, vẫn nắm các chức quyền, Đảng suy thoái, kinh tế quốc doanh thua lỗ, thất thoát lớn tiền của của nhà nước, kinh tế sa sút nghiên trọng dẫn đến nước nghèo, dân khổ thì dù cứ khăng khăng áp đặt “Điều 4”, “Hiến hóa” quyền của Đảng, Đảng vẫn mất lòng tin của dân.
Lại còn tình trạng chuyên quyền độc đoán, nhiều cấm, nhiều tăng, đối với những người có ý kiến quan điểm khác với lãnh đạo, phản biện những chủ trương chính sách sai, đề nghị những ý kiến thành tâm xây dựng… thì chụp cho là suy thoái, phản động, chống Đảng, chống nhà nước, bị địch kích động, mua chuộc…, dân oan đi khiếu kiện cũng coi là chống đối, gây mất trật tự, phải xử lý.
Hành xử như trên chỉ gây bất bình, phẫn uất trong nhân dân, dồn đẩy người ta đến chân tường thì tình hình sẽ thế nào?? 
Ngày 24/3/2013
N. T. V.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Nguồn: http://www.boxitvn.net/bai/45891

Hoang tưởng Quyền lực


Thiền Lâm, gửi RFA từ Việt Nam

Công an Hà Nội ngăn cản người dân biểu tình chống Trung Quốc hôm 09/12/2012.  AFP
Công an Hà Nội ngăn cản người dân biểu tình chống Trung Quốc hôm 09/12/2012. AFP
Chứng nhận hình ảnh những công an viên và dân phòng nghênh ngang hoạt náo trước tượng chúa Jesus trong nhà thờ, khối tín đồ Công giáo thành kính mới có thể nhận chân vì sao chính nhóm nhân viên công vụ nhiệt thành ấy, chứ không phải ai khác, mới vươn tới xác tín “lòng tin chở được núi lớn” nhanh chóng đến thế. 
Hoang tưởng nghị trường 
Xã hội hiện đại Việt Nam đang bất thần ngoặt vào một khúc cua rêu phong ngay trong quý đầu tiên của năm con giáp tượng trưng cho loài bò sát. 
Cần có quy định bắt buộc người khiếu nại tố cáo ứng ra một khoản tiền đặt cọc. Thua thì coi như mất tiền đặt cọc, còn kiện đúng thì tiền cọc mới được nhà nước hoàn trả”. 
Nguyên văn ý kiến đề xuất từ đại biểu quốc hội Phan Xuân Dũng, cũng là người đóng vai trò Phó Chủ nhiệm Ủy ban khoa học công nghệ và môi trường của Quốc hội. 
Đề xuất chưa từng có tiền lệ này được cảm hứng từ cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự thảo Luật tiếp công dân vào trung tuần tháng 3/2013. 
Ngay cả thời kỳ cao điểm của hoạt động khiếu tố đông người trong những năm 2007-2008, cũng chưa từng có một cơ quan hay cá nhân quản lý nào ở Việt Nam nghĩ ra một sáng kiến mang dấu ấn thụt lùi đến mức như thế. 
Sáng kiến ấy cũng làm cho người ta nhớ lại một ấn tượng khác không thể phai mờ trong trí não dư luận là chỉ trong vài tháng qua, nghị trường Việt Nam đã chợt sôi động hẳn lên với những phát ngôn bắt đầu từ hành lang quốc hội. 
Hoàng Hữu Phước – vị đại biểu bị một số cử tri TP.HCM công khai bày tỏ là “chọn lầm người”, cũng là người được một blogger trong nước đặt cho biệt danh “nghị sĩ phản phản biện” – là một đồng điệu không kém cạnh so với đại biểu Phan Xuân Dũng. 
Vào dịp tết nguyên đán 2013, ông Hoàng Hữu Phước đã kỷ niệm sự kiện truyền thống dân tộc này bằng một bài viết trên blog của mình, xoáy sự công kích vào một người đồng nhiệm của ông là đại biểu, nhà sử học Dương Trung Quốc. 
Tuy nhiên, điều mà ông nghị Phước đã không thể ngờ tới là cái “tứ đại ngu” mà ông áp chế cho nhà sử học lại chỉ nhận được một làn sóng phản ứng dữ dội từ khắp dư luận báo chí trong nước cho đến các trang mạng truyền thông xã hội. 
Cách thức và từ ngữ nhẹ nhàng nhất mà công luận mô tả về ông Phước là não trạng thiếu sáng suốt và mơ hồ về lý trí của vị đại biểu được coi là đang tồn tại trên ý nguyện của nhân dân. 
Một ý thức có chủ đích được tiếp nối bởi một hoang tưởng gần như vô thức. 
Logic này cũng gần tương tự như hai khái niệm “đĩ” và “đa đảng” mà nghị Phước dành để tôn vinh cho Dương Trung Quốc, hẳn đã làm cho phát ngôn và bài viết của “nghị sĩ phản phản biện” này đi xa đến mức mà người đời phải dành cho ông ta một ngữ nghĩa còn vượt quá cả điều được gọi là hoang tưởng. 
Công tâm mà xét, Hoàng Hữu Phước và Phan Xuân Dũng – cả hai ông đã cống hiến cho nghị trường ViệtNammột tiền đề của chân không trí tuệ. 
“Lòng tin chở được núi lớn” 
Nhưng hoang tưởng không nhất thiết là một trạng thái hoàn toàn mất lý trí. 
Sau tết nguyên đán 2013, báo chí và dư luận trong nước cũng không kém bức bối trước một đề xuất về cái được gọi là “quyền được bắn”, hay theo ngôn ngữ phim hành động là “quyền nổ súng” – nằm trong một dự thảo nghị định của Bộ công an, dự kiến sẽ trình cho Chính phủ. 
Nếu nghị định cho lực lượng chức năng được bắn người chống đối, có nghĩa là người thi hành công vụ đã được quyền phán xét tính mạng người khác thay tòa án – một nhận định của thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao TP.HCM Phan Công Hùng. 
Còn hơn cường độ và liều lượng của công luận phản biện về bài viết của đại biểu quốc hội Hoàng Hữu Phước, “quyền được bắn” của Bộ Công an đã gây một chất men phản ứng mạnh mẽ cả trong và ngoài nước. 
Khá trùng với thời điểm dự thảo nghị định của Bộ Công an được trưng ra, đã xảy ra một vụ tấn công công của nhóm thanh niên làm một số công an và dân phòng bị thương. 
Nhưng trước đó, lại đã diễn ra không ít vụ việc lực lượng cảnh sát lạm dụng vũ khí và công cụ hỗ trợ gây thương tổn nặng nề cho “kẻ chống đối”, trong đó có những trường hợp chưa được kết luận minh bạch về việc người bị bắn hoặc bị đánh có thực sự chống đối hay chỉ biểu hiện hành động tự vệ chính đáng. 
Trên tất cả, vụ án một trung tá công an giao thông tên Ninh đánh chết ông Trịnh Xuân Tùng vào đầu năm 2011 ở Hà Nội là một minh chứng quyết liệt cho việc viên công an kia vẫn cố sát mà chưa cần phải dùng đến vũ khí. 
Cảnh sát giao thông lại là lực lượng biểu lộ điển hình cho bộ mặt của ngành công an ngoài xã hội. Nhưng qua nhiều năm, bất chấp quá nhiều tai tiếng từ nạn nhũng nhiễu và mãi lộ, cơ chế xử lý các cảnh sát giao thông “có vấn đề” vẫn luôn chìm ẩn trong một chủ đề chưa bao giờ được tiết lộ công khai. 
Hiển nhiên, nếu “quyền nổ súng” thuộc về cảnh sát giao thông và được “một bộ phận không nhỏ” trong số này lạm dụng để đòi “đạn”, vô hình trung ngành công an sẽ rước lấy những phiền toái vô cùng tận từ phản ứng của người dân  – vốn đã quá uất ức trước cảnh ăn tiền công khai của những sắc phục bị coi là “đứng đường”, và có thể từ cả chính phủ hoặc ban bí thư – những lãnh đạo không muốn gầy dựng thêm bất kỳ “điểm nóng chính trị” nào trong bối cảnh đã quá thừa thãi các loại điểm nóng. 
Công an đánh dân!” – một khẩu ngữ nhuốm tính tự phát và bị coi là kích động của người dân – cũng vì thế có nguy cơ được diễn biến một cách chẳng mấy hòa bình sang “Công an bắn dân!”. 
Một chuyển biến xáo động dữ dội như thế từ phía người dân có thể sẽ làm cho uy tín của ngành công an, bao gồm cả lực lượng an ninh vốn không mấy liên quan đến “quyền được bắn” và luôn bị cách biệt với lớp “đứng đường” bởi hố phân hóa giàu nghèo rất đáng kể, bị giảm sút đến khó lường trong lý trí của nhân dân và cả trong con mắt nhân quyền quốc tế. 
Một cách nào đó, có thể hiểu thái độ tự tin khi nêu ra đề xuất cũng chính là sự tự mãn và cả tự tôn của chủ thể kiến nghị. 
Trong xã hội ViệtNamđương đại, thái độ tự tôn như thế cũng đang diễn ra trong một vấn nạn mà người dân gọi là “kiêu binh”. 
Thích quyền lực và tận dụng cơ hội để giương cao ngọn cờ quyền lực, thái độ tự tôn này đã trở nên một hình ảnh quá thiếu ánh sáng trong bầu không khí xã hội đang chực chờ nhiều bóng đen xung đột. 
Chứng nhận hình ảnh những công an viên và dân phòng nghênh ngang hoạt náo trước tượng chúa Jesus trong nhà thờ, khối tín đồ Công giáo thành kính mới có thể nhận chân vì sao chính những nhân viên thừa hành công vụ nhiệt thành ấy, chứ không phải ai khác, mới vươn tới xác tín “lòng tin chở được núi lớn” nhanh chóng đến thế. 
Sang chấn quyền lực 
Hoang tưởng quyền lực cũng đang được xem là một đặc trưng ghê gớm trong xã hội ngày nay. Không nhận ra hoặc kém ý thức về việc quyền lực không phải là một phạm trù vĩnh viễn, và cũng như mọi thể chế, nó có thể mất đi vào một ngày nào đó, “một bộ phận không nhỏ” vẫn cố gắng níu giữ quyền lực bằng mọi cách và bằng vào cả tâm thế hoang tưởng đang ngày càng bị tác động bởi sang chấn xen cài ngay trong nội tâm họ. 
Một trong những sang chấn được coi là hoang tưởng tột đỉnh là đề xuất của ông Lê Hoàng Châu – Chủ tịch Hiệp hội bất động sản TP.HCM – về việc đánh thuế trên lãi tiền gửi tiết kiệm của người dân. Một lần nữa, người dân và ngay cả các nhà báo lại trở nên kinh ngạc về một kiến nghị không tiền khoáng hậu như thế. 
Vẫn cảm thông cho cơn ác mộng của thị trường bất động sản ở Việt Nam nói chung và tại TP.HCM nói riêng  đang tồn ứ đến ít nhất hàng trăm ngàn căn hộ cao cấp, nợ xấu bất động sản lên tới vài trăm ngàn tỷ đồng và cảnh đóng băng không lối thoát đang khiến cho nhiều đại gia nhà đất phải nhập viện tâm thần. 
Nhưng để giải cứu thị trường này mà phát ra một sáng kiến như của ông Lê Hoàng Châu thì quả là “dã man và phi đạo đức” – như tiêu đề hết sức giận dữ của của một bài báo trong nước, cũng như đã đẩy tình thế vào một trạng thái hoang tưởng gần như cực đại. 
Giờ đây, khi quý cuối cùng của năm bò sát đã gần trôi qua, nhìn lại những đề xuất trên, giới chuyên gia xã hội học hẳn đã nhận ra rằng nhiều năm qua đã không xảy ra cái tình trạng oái oăm đến cực đoan như thời gian gần đây. 
Những năm trước, dù trong một xã hội nhiễu nhương và tha hóa về mặt bằng văn hóa, nhưng một số đề xuất của các cơ quan quản lý nhà nước cũng chỉ mang tính “bất hợp lý” chứ không đến mức bị coi là không tưởng về tính khả thi, hoang tưởng về lý trí và bất chấp cả đạo lý như hiện nay. 
Một quan chức như ông Phan Xuân Dũng, người nằm ngay trong một cơ quan về khoa học của Quốc hội, lại đã quá tự tin vào cái được gọi là “quyền lực của dân, do dân và vì dân” sẽ biến thành vũ khí để chống lại chính người dân. 
Bị mô tả là hoàn toàn thiếu tính khoa học và chỉ nhằm thắt buộc hơn nữa những kẻ bần hàn đi tìm lại ánh sáng công bằng qua khiếu tố, đề xuất của ông Dũng đã tiến rất nhanh đến khái niệm “khoa học què quặt” của nhà bác học Albert Einstein. 
Phân tâm học bất lực 
Trên phương diện xã hội học, hiện tượng đầy bất thường về các loại hình và trạng thái hoang tưởng như trên lại là một vấn đề rất thú vị để mổ xẻ và đánh giá. 
Nhiều câu hỏi, nhiều giả thiết có thể được nêu ra, kể cả việc cần và buộc phải tham khảo những lý thuyết và khảo sát về phân tâm học và căn bệnh tâm thần phân liệt của vị bác sĩ người Áo – Sigmund Freud. 
Trong cuộc đời nghiên cứu và thể nghiệm phong phú của mình, Freud lại đã không quên đề cập đến những kẻ hoang tưởng do bị bất lực. 
Chỉ là lớp hậu sinh của Freud, nhưng chúng ta lại có kinh nghiệm tràn đầy về ứng nghiệm nghiên cứu của ông: Lẽ nào quyền lực trở thành hoang tưởng khi nó bị hành hạ bởi căn bệnh bất lực? 
Sau biểu hiện hoang tưởng tiền đề, sẽ còn những hoang tưởng phát triển nào khác với mức độ trầm trọng hơn? 
Và phải chăng hoang tưởng quyền lực là giai đoạn cuối của một thứ quyền lực thực chất là hoang tưởng?
(Thiền Lâm, Việt Nam 25-03-2013)
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/paranoid-power-tl-03252013101538.html
http://www.boxitvn.net/bai/45846