Thứ Ba, 29 tháng 7, 2014

Việt nam cấ́m 6 đối tượng làm cho nước ngoài

Cập nhật: 09:03 GMT - thứ ba, 29 tháng 7, 2014
Những người đã bị kết án về các tội an ninh quốc gia sẽ không thể làm việc cho nước ngoài
Chính quyền Việt Nam vừa ra lệnh cấm công dân thuộc một số đối tượng nhất định làm việc cho các tổ chức hay cá nhân nước ngoài có văn phòng ở trong nước, Cổng thông tin điện tử Chính phủ vừa loan báo.
Mục tiêu của lệnh cấm này, vốn sẽ có hiệu lực kể từ ngày 15/9, dường như là vì mục đích an ninh quốc gia và bảo vệ chế độ.

Sáu nhóm đối tượng

Đây là nghị định dưới luật do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký để cụ thể hóa một số điều của Bộ Luật Lao động Việt Nam.
Cụ thể, có sáu nhóm đối tượng nằm trong phạm vi lệnh cấm này, bao gồm:
Một là những người phục vụ trong Quân đội và Công an bao gồm cả sỹ quan, hạ sỹ quan, quân nhân và công nhân, viên chức.
Hai là cán bộ, công chức nhà nước theo quy định của Luật cán bộ, công chức.
Ba là những người làm các công việc ‘liên quan đến bí mật nhà nước’. Tuy nhiên Nghị định không nói rõ những ngành nghề nào là có liên quan đến bí mật nhà nước.
Ngay cả vợ hoặc chồng của của những người ở nhóm đối tượng thứ ba cũng bị cấm và được xếp vào đối tượng cấm thứ tư.
Năm là những người từng bị kỷ luật vì ‘tiết lộ bí mật nhà nước’ hoặc xâm phạm ‘an ninh quốc gia’.
Nhóm đối tượng cuối cùng nằm trong lệnh cấm là những người đang bị truy cứu hình sự, những người đã bị kết án tù hoặc chưa được xóa án tích...
Nghị định này do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành
Hai nhóm đối tượng cuối này được các nhà quan sát cho là chủ yếu nhằm vào những nhà hoạt động dân chủ và nhân quyền đã bị chính quyền truy tố và xét xử các tội về ‘an ninh quốc gia’.
Ngoài ra, Nghị định này cũng nói rõ các tổ chức, cá nhân nước ngoài nào không được phép tuyển dụng sáu nhóm đối tượng trên, trong đó có các đại sứ quán, lãnh sự quán các nước, văn phòng đại diện các tổ chức quốc tế, các cơ quan thông tấn báo chí nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ...

‘Phải là luật của Quốc hội’

Trao đổi với BBC từ Hà Nội, luật sư Trần Vũ Hải nói việc chính phủ ra nghị định này là ‘không phù hợp với Hiến pháp’.
Theo giải thích của luật sư Hải thì mặc dù bản Hiến pháp năm 2013 viết rằng ‘quyền của công dân có thể bị hạn chế để đảm bảo an ninh quốc gia hay trật tự xã hội’ nhưng ‘quyền làm việc là quyền đương nhiên của công dân’.
“Muốn hạn chế thì phải ban hành luật,” ông nói, “Việc hạn chế (quyền đương nhiên của công dân) phải quy định trong Bộ Luật Lao động hoặc luật nào đó do Quốc hội ban hành chứ không phải Nghị định của chính phủ.”
Quyền làm việc là quyền đương nhiên của công dân Việt Nam
“Các cơ quan phải giải trình việc hạn chế quyền đó phải có những lý do xuất phát từ những quy định của Hiến pháp,” ông nói thêm.
Ông cũng nêu vấn đề trong Nghị định này của Chính phủ là hạn chế quyền làm việc của cả ‘những người không có liên quan gì đến an ninh quốc gia, không biết qua bí mật’.
Đối những người đã chấp hành hình phạt tù vốn cũng thuộc một trong sáu nhóm đối tượng, Luật sư Hải lập luận rằng họ ‘đã bị hình phạt rồi thì không thể trừng phạt nữa là cấm lao động trừ khi tòa án có nói rõ ràng’.
Một điểm không hợp lý nữa của Nghị định này, theo ông Hải, là các tổ chức nước ngoài phải đi thẩm tra lý lịch các ứng viên mà họ vốn ‘không có trách nhiệm phải làm’ vì họ ‘không phải xin giấy phép lao động cho nhân viên của họ từ cơ quan nào đó’.

Thêm về tin này

Chủ đề liên quan

    • http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/07/140729_foreign_working_ban.shtml

Đảng viên lão thành kêu gọi thoát Tàu

Cập nhật: 07:34 GMT - thứ ba, 29 tháng 7, 2014
Cựu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đứng đầu nhóm các Đảng viên lão thành
Hơn 60 Đảng viên Cộng sản lão thành vừa gửi thư ngỏ lên Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi từ bỏ con đường xây dựng XHCN và thoát khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc.
Bức thư mà BBC có trong tay đề ngày 28/7/2014 với 61 chữ ký của nhiều nhân vật hoạt động lâu năm và có tiếng ở Việt Nam như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Thứ trưởng Chu Hảo, các kinh tế gia Lê Đăng Doanh và Phạm Chi Lan... được gửi tới Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung thư bắt đầu bằng nhận định rằng từ nhiều năm nay, Đảng CSVN đã "dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin".
"Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc."
Đường lối chính sách của Đảng và nạn tham nhũng, theo các tác giả bức thư, đã "đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh".
Thư nhắc tới Hội nghị Thành Đô năm 1990, mà nhiều người cho là mốc dấu cho một giai đoạn Việt Nam bị lệ thuộc về chính trị-kinh tế vào Trung Quốc.
Từ đó tới nay, "Việt Nam đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới".
Theo các Đảng viên chấp bút thư, thực trạng yếu kém của Việt Nam phơi bày sự bất cập "cả về trách nhiệm và năng lực của lãnh đạo Đảng và nhà nước trong thời gian qua".

Khuyến cáo

Những người này cũng thừa nhận rằng toàn thể Đảng CSVN, trong đó có bản thân họ, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về tình hình nói trên nhưng phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị.
Bức thư nêu ra một số yêu cầu chính, mà trước tiên là Đảng CSVN cần thay đổi Cương lĩnh và "từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa".
Chỉ có hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ mới có thể mở ra thời kỳ mới phát triển cho Việt Nam, theo nhận định trong thư.
Họ cũng kêu gọi quyết tâm thoát khỏi tình trạng lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc.
"
Đảng CSVN cần thay đổi Cương lĩnh và từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa."
Giai đoạn này, Đảng CSVN đang chuẩn bị tiến tới đại hội Đảng các cấp trước khi tổ chức Đại hội Đảng lần thứ XII vào năm 2016. Các tác giả bức thư cho rằng đây là thời điểm thuận lợi để tiến hành thay đổi thể chế chính trị một cách thực sự.
Đặc biệt, lá thư đề cập tới quan hệ đối ngoại, mà trước hết là với Trung Quốc.
Các tác giả kêu gọi lãnh đạo Đảng CSVN và nhà nước "thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc".
Họ yêu cầu minh bạch hóa sự thật về quan hệ Việt – Trung và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế …
Lá thư cũng khuyến cáo nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về tình hình tranh chấp căng thẳng trên Biển Đông.
"Quan điểm 'không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba' là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi."
Trước đây đã một vài lần các thư ngỏ với nội dung kêu gọi thay đổi đã được gửi tới lãnh đạo Đảng và nhà nước Việt Nam nhưng không thấy có phản hồi công khai từ người nhận.

Thêm về tin này

Chủ đề liên quan

THƯ NGỎ

Ngày 28 tháng 07 năm 2014
 Kính gửi: Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.
Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay,Việt Nam đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Trung Quốc có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi Việt Nam là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng Trung Quốc đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của họ.
Thực trạng đau lòng này phơi bày sự yếu kém cả về trách nhiệm và năng lực của lãnh đạo đảng và nhà nước trong thời gian qua.
Toàn thể ĐCSVN, trong đó có chúng tôi, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về tình hình nói trên và phải góp phần tích cực khắc phục những sai lầm đã gây ra; trong đó phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị.
Vì vậy chúng tôi, những người ký tên dưới đây, thấy cần bày tỏ suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung thành với tâm nguyện vì nước vì dân khi vào Đảng với mấy yêu cầu chính dưới đây:
1. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, với trách nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa. Ngay từ bây giờ, cần thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về tình hình mọi mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi mới rất trắng trợn của Trung Quốc bá chiếm Biển Đông, vạch ra con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường được đoàn kết, hòa hợp dân tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.
Quan điểm nêu trên cần được thấu suốt và thực hiện ngay trong việc chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII với các đại biểu được bầu chọn thật sự dân chủ, đáp ứng được yêu cầu chính trị của đại hội. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng các cấp và của từng đảng viên có tinh thần yêu nước. Đồng thời, kỳ bầu cử Quốc hội sắp tới phải thật sự dân chủ, tạo lập một Quốc hội chuyên nghiệp, xứng đáng đại diện cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp chuyển đổi thể chế chính trị.
Việc cần làm ngay để thể hiện sự thực tâm chuyển đổi thể chế chính trị, tạo niềm tin trong dân là các cơ quan công quyền chấm dứt các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước, đối với các tổ chức xã hội dân sự mới thành lập, trả tự do cho những người đã và đang bị kết án hình sự chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình.
2. Lãnh đạo đảng và nhà nước thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa thuận, hợp tác bình đẳng, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…
Việc cần thiết và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa của nước ta. Đồng thời, Việt Nam cần chủ động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, bãi đá; củng cố sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Quốc muốn độc chiếm vùng biển này thành ao nhà của mình.
Quan điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi.
Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.
Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân tộc!
DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KÝ THƯ NGỎ GỬI BCH TW
VÀ TOÀN THỂ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
______________________
1. Nguyễn Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội.
2. Đào Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
3. Trần Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
5. Lê Duy Mật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988, Hà Nội.
6. Tạ Đình Du (Cao Sơn), vào Đảng năm 1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
7. Vũ Quốc Tuấn, vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.
9. Hoàng Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.
10. Đỗ Gia Khoa, vào Đảng năm 1949, nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.
11. Hà Tuân Trung, vào Đảng năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập tạp chí Kiểm tra, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y viện 108, Hà Nội.
13. Phạm Xuân Phương, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
14. Tô Hòa, vào Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng.
15. Võ Văn Hiếu, vào Đảng năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.
16. Hoàng Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.
17. Huỳnh Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội.
18. Tạ Đình Thính, vào Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
19. Nguyên Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.
20. Tương Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Khắc Mai, vào Đảng năm 1959, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội.
22. Đào Công Tiến, vào Đảng năm 1960, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
23. Vũ Linh, vào Đảng năm 1962, nguyên Chủ nhiệm chương trình PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội.
24. Nguyễn Kiến Phước, vào Đảng năm 1962, nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân Dân, TP. Hồ Chí Minh.
25. Nguyễn Thị Ngọc Trai, vào Đảng năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
26. Võ Văn Thôn, vào Đảng năm 1965, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
27. Nguyễn Trung, vào Đảng năm 1965, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Hà Nội.
28. Huỳnh Kim Báu, vào Đảng năm 1965, nguyên Tổng thư ký‎ Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
29. Hạ Đình Nguyên, vào Đảng năm 1965, nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
30. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), vào Đảng năm 1966, nguyên thư k‎ý của Bí thư Thành ủy Mai Chí Thọ, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh
31. Lê Công Giàu, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, đầu tư TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
32. Kha Lương Ngãi, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh.
33. Tô Nhuận Vỹ, vào Đảng năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.
34. Phạm Đức Nguyên, vào Đảng năm 1968, Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.
35. Bùi Đức Lại, vào Đảng năm 1968, nguyên Vụ trưởng, chuyên gia cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung ương Đảng, Hà Nội.
36. Lữ Phương, vào Đảng năm 1968, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Lê Thu An, vào Đảng năm 1969, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP. Hồ Chí Minh.
38. Nguyễn Đăng Quang, vào Đảng năm 1969, Đại tá công an, đã nghỉ hưu, Hà Nội.
39. Trần Văn Long, vào Đảng năm 1970, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
40. Nguyễn Thị Kim Chi, vào Đảng năm 1971, Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh, Hà Nội.
41. Huỳnh Tấn Mẫm, vào Đảng năm 1971, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.
42. Võ Thị Ngọc Lan, vào Đảng năm 1972, nguyên cán bộ công an TP. Hồ Chí Minh.
43. Hà Quang Vinh, vào Đảng năm 1972, cán bộ hưu trí, TP. Hồ Chí Minh.
44. Nguyễn Đắc Xuân, vào Đảng năm 1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao Động tại khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, TP. Huế.
45. Lê Đăng Doanh, vào Đảng năm 1974, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
46. Chu Hảo, vào Đảng năm 1974, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
47. Nguyễn Xuân Hoa, vào Đảng năm 1974, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.
48. Nguyễn Vi Khải, vào Đảng năm 1974, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, 40 tuổi đảng, Hà Nội.
49. Cao Lập, vào Đảng năm 1974, nguyên Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh.
50. Lê Thân, vào Đảng năm 1975, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám đốc Liên doanh SG-Riversite, TP. Hồ Chí Minh.
51. Ngô Minh, vào Đảng năm 1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế.
52. Trần Kinh Nghị, vào Đảng năm 1976, cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.
53. Hồ An, vào Đảng năm 1979, nhà báo, TP. Hồ Chí Minh.
54. Đoàn Văn Phương, vào Đảng năm 1979, nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu trung ương Cục, TP. Hồ Chí Minh.
55. Hồ Uy Liêm, vào Đảng năm 1980, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
56. Trần Đình Sử, vào Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
57. Lê Văn Luyến, vào Đảng năm 1987, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
58. Nguyễn Gia Hảo, vào Đảng năm 1988, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
59. Phạm Chi Lan, vào Đảng năm 1989, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
60. Đào Tiến Thi, vào Đảng năm 1991, Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
61. Nguyễn Nguyên Bình, vào Đảng năm 1996, Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.
http://www.boxitvn.net/bai/28363

Tòa án dưới chế độ tập quyền

Đỗ Thúy Hường

Không thực hiện thiên chức

Đòi hỏi mà Chủ tịch nước nêu ra với Tòa Án nhân dân tối cao hôm 15/7/2014, khiến mọi người… bổ ngửa.
Nguyên văn, câu của Chủ tịch: Tòa án phải mang lại công lý cho mọi người.
Từ thượng cổ, thiên chức của Tòa Án là thực thi công lý. Đó là lý do duy nhất để Tòa Án sinh ra và tồn tại. Nay đã là năm 2014. Tòa án ở Việt Nam đã hành xử ra sao trong quá khứ mà đến nỗi bị đích thân nguyên thủ quốc gia đòi hỏi phi thực thi thiên chức của mình?
Nếu (giả sử) một loạt các ngành khác cũng bị đòi hỏi như vậy, ví dụ:
- Đại biểu của dân phải bênh vực dân;
- Đầy tớ của dân phải phục vụ và lễ phép với dân;
- Đảng (tiêu cả đống tiền ngân sách do dân đóng) phải coi dân như bậc sinh thành…
- Quân đội do dân nuôi phải trung thành với dân;
- Công an do dân nuôi không được đánh chết dân…
- vân vân…
Thử hỏi, ai chẳng “bổ ngửa”? Và người dân vô phúc biết nhường nào?
Hai vị trí thức “bổ ngửa” khi nghe câu của Chủ tịch nước
- Đó là luật sư Ngô Ngọc Trai, với bài viết Toà án Việt Nam “không nhân danh công lý“. Rà soát nhiều văn bản tư pháp, vị luật sư hầu như không tìm ra từ “công lý”. Đọc lại hàng trăm bản án (sản phẩm trực tiếp của ngành Tòa Án) vị luật sư đi đến kết luận: Tòa ở Việt Nam không nhân danh công lý, mà nhân danh Nhà Nước (hoặc Nước) CHXHCN Việt Nam để kết tội bị can. Rồi luật sư phân tích sự treo ngoe (phi logic) của cái “nhân danh” này. Đã không nhân danh công lý, làm sao “mang lại công lý cho mọi người”? Tôi cũng “bổ ngửa” khi đọc bài của luật sư.
- Cũng đọc bài của luật sư, một vị trí thức khác là GS Nguyễn Văn Tuấn đã không thể nhịn được, lập tức có bài thể hiện thái độ: Toà án KHÔNG nhân danh công lí! Cái “tít” của bài gần như trùng với bài trên, nhưng thú vị là ông nhấn mạnh chữ “không”, và kết thúc bằng dấu chấm than (!). Nó thể hiện sự ngạc nhiên, thất vọng. Và cả mỉa mai nữa. Nghe nói, vị giáo sư này sống ở nước ngoài, chỉ thỉnh thoảng mới về nước, nhưng vẫn dẫn ra được nhiều bản án để làm ví dụ và xếp loại, mà khi so sánh, chẳng ai thấy công lý ở đâu hết. Dưới đây, để cho tiện, tôi sử dụng cách xếp loại này.
Bị kết án nặng nề nhất là các trí thức phát biểu ôn hòa, thể hiện những bất đồng chính trị, thậm chí chỉ là phản đối sự lệ thuộc Tàu. Còn được xử nhẹ nhất là công an. Bản chất chế độ thể hiện quá rõ. Chính cách xử này khiến quan tòa vứt bỏ công tâm và lương tâm, trở nên tàn bạo, vô cảm. Sự tha hóa, thối nát khiến việc kết án nhóm thứ ba (trộm cắp, tham ô) và thứ tư (mua bán dâm) cũng tùy tiện, bất chấp công lý.
Nhớ lại mấy câu trong môt bài thơ yêu nước
(của một chí sĩ bị đi đày vì chống thực dân Pháp)
Tôi được nghe ông tôi đọc về cái thời dân ta còn sống kiếp nô lệ, cách đây trên 70 năm.
Thần Công Lý bên trời lẩn mất
Quỷ Văn Minh chật đất làm càn
Biết đâu mà giải nỗi oan
Đã đày đọa Nước, lại tan nát Nhà…
Không lạ, nếu nhìn từ bản chất
Các vị Mác và Lênin coi nhà nước là công cụ đàn áp sự phán kháng. Tòa án của Lênin (tư pháp nói chung) chĩa mũi nhọn vào mọi sự phản kháng, kể từ thái độ, lời nói, ý kiến, cho tới hành vi. Tòa án Xô Viết là công cụ của chuyên chính vô sản. Nó không độc lập, vì không có đảng cộng sản “chân chính” nào thừa nhận tam quyền phân lập.
GS Nguyễn Văn Tuấn hầu không học dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, lại sống chủ yếu ở nước ngoài (đã không được Đảng dạy chủ nghĩa Mác-Lê, thì chớ) làm sao sờ, ngửi, nghe, nhìn… được sự vận dụng nó vào thực tế Việt Nam? GS ngạc nhiên là phải. Còn luật sư Ngô Ngọc Trai, ra trường trước tôi dăm-bảy khóa, tuy có được học Mác-Lê ở trường Luật, nhưng làm sao còn nhớ được bằng tôi?
Tôi xin nói ngay: Nếu Đảng “ta” còn theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì tòa án Việt Nam vẫn không độc lập, vẫn là một công cụ chuyên chính. Các vị quan tòa, dù cao, dù chỉ èng èng, đều là đảng viên cả đấy ạ.
Bốn loại tội phạm chính
Như GS Nguyễn Văn Tuấn phân loại, trước mặt quan tòa có 4 loại tội phạm:
1) Tội dám phản đối cái chế độ đang ưu đãi quan tòa; do vậy các vị tự thấy rằng mình đang xử kẻ thù. Xin nói rằng cái từ “phản động” được gán ghép rất tùy tiện. Thật ra, “phản động” là khái niệm rất tương đối, tùy theo được nhìn từ phía nào. Hai phía đối lập coi nhau là “phản động” là tất nhiên. Tranh luận mất công, chỉ cần có cái nhìn tổng quát. Vậy, tổng quát, trong thời đại dân chủ hóa toàn cầu, một chế độ độc đảng, độc đoán chính là chế độ phản động.
2) Tội “quá tay” khi thực hiện công vụ: được xử nhẹ. Quá tay khi thực hiện chuyên chính vô sản: càng được xử nhẹ, thậm chí được khen, được tin, được cất nhắc…
3) Tội hình sự, chế độ nào cũng phải răn đe;
4) Tội vi phạm “thuần phong” được nống lên thành vi phạm đạo đức.
Tuy nhiên, do bản thân là nhân sự của bộ máy đàn áp, cho nên quan tòa sẽ mất dần lương tâm, không thể công tâm; trở thành tàn bạo, vô cảm… Do vậy nhóm 3 và 4 cũng bị xử rất tùy tiện, tùy hứng. Kể cả vi phạm quyền con người khi xử (bán dâm bị tù nhiều năm).
Còn Luật? Tất nhiên, những điều nhằm đàn áp sự phản kháng độc tài đều bị quy tội rất nặng. Phản dân chủ lộ liễu nhất nằm ngay trong cái Điều “lợi dụng tự do dân chủ dân chủ” để thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt thái độ.
Điều 77, 88 và 256, bị coi là chống tự do ngôn luận; nhưng sâu xa trong bản chất chúng chống trí thức. Đúng vậy, nó kết án những người đủ kiến thức, đủ năng lực thể hiện quan điểm và có tư duy phản biện và phản đối bất công – đó chính là tiêu chuẩn để trở thành trí thức đúng nghĩa.
Đ. T. H.
Tác giả gửi BVN.
http://www.boxitvn.net/bai/28358