Thứ Hai, 17 tháng 12, 2012

KHẢO LUẬN KHOA HỌC VỀ HIẾN PHÁP HOA KỲ (IV)


CHƯƠNG VI:
PHIÊN BẢN THỨ BA (PHIÊN BẢN THỨ HAI KÈM THEO MƯỜI BẢY ĐIỀU LUẬT BỔ SUNG SỬA ĐỔI ĐƯỢC THÔNG QUA RẢI RÁC TRONG KHOẢNG THỜI GIAN TỪ NĂM 1795 ĐẾN NĂM 1992).

I. PHIÊN BẢN THỨ HAI CỘNG THÊM CÁC ĐIỀU LUẬT BỔ SUNG SỬA ĐỔI TỪ NĂM 1795 ĐẾN NĂM 1992.

Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 11
CÁC VỤ KIỆN CHỐNG LẠI CÁC BANG
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 04 Tháng Ba 1794 rồi được thông qua vào ngày 07 Tháng Hai 1795.
Quyền lực tư pháp của Mỹ sẽ không được giải thích với mục đích mở rộng ra các vụ tố tụng về luật pháp hoặc công lý mà công dân của một bang khác hoặc công dân và đối tượng của một nước khác dựa vào đó để khởi kiện hoặc truy tố một bang của Mỹ.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này khiến cho công dân của một bang không thể kiện một bang khác ra tòa án liên bang. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này xuất phát từ vụ Chisholm kiện bang Georgia vào năm 1793, trong đó một người đàn ông từ Nam Carolina kiện bang Georgia về việc thừa kế. Bang Georgia cho rằng họ không thể bị kiện tại tòa án liên bang, tuy nhiên Toà án Tối cao quy định rằng điều đó là có thể. Sau đó bang Georgia sẽ phát động một phong trào nhằm bổ sung Điều luật Bổ sung Sửa đổi này vào Hiến pháp. Tuy nhiên, các cá nhân vẫn có thể có các hành động chống lại chính quyền các bang tại tòa án liên bang để ngăn ngừa các chính quyền này không được tước bỏ các quyền hợp hiến của họ.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 12
BẦU TỔNG THỐNG VÀ PHÓ TỔNG THỐNG
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 09 Tháng Chạp 1803 rồi được thông qua vào ngày 27 Tháng Bảy 1804.
Các Đại Cử tri sẽ họp lại trong từng bang của họ và bằng lá phiếu bầu Tổng thống và Phó Tổng thống. Ít nhất một trong hai người này sẽ không phải là cư dân cùng một bang với họ. Họ sẽ ghi vào lá phiếu tên người được bầu làm Tổng thống và trên lá phiếu khác tên người được bầu làm Phó Tổng thống. Và họ sẽ lập ra các bản danh sách khác nhau những người bầu cho Tổng thống, những người bầu cho Phó Tổng thống và cả số phiếu bầu cho mỗi người. Họ sẽ ký xác nhận vào những danh sách này, niêm phong và chuyển lên Chính phủ Mỹ, trình lên Chủ tịch Thượng Nghị viện. Chủ tịch Thượng Nghị viện trước sự hiện diện của Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện, sẽ mở tất cả các hồ sơ đã được chứng nhận và các phiếu bầu sẽ được đem ra đếm. Người có số phiếu nhiều nhất trong cuộc bầu cử cho Tổng thống sẽ đắc cử Tổng thống nếu con số này là đa số trong tổng số Đại Cử tri được chỉ định; nếu không ai đạt số phiếu như vậy thì Hạ Nghị viện sẽ ngay lập tức bỏ phiếu bầu Tổng thống trong những người có số phiếu bầu cao nhất, nhưng không quá 3 người. Nhưng trong việc bầu Tổng thống này, việc bỏ phiếu sẽ được tính theo các bang, đại diện của mỗi bang có một phiếu bầu. Số đại biểu quy định để tiến hành việc này gồm một hoặc các thành viên của hai phần ba các bang và phải có đa số các bang. (Nếu Hạ Nghị viện đã được trao quyền bầu cử mà không bầu ra Tổng thống [trước ngày 04 Tháng Ba tiếp theo], thì Phó Tổng thống sẽ là quyền Tổng thống, cũng giống như trường hợp Tổng thống qua đời hoặc không đủ năng lực như Hiến pháp quy định). Người có số phiếu bầu nhiều nhất cho Phó Tổng thống sẽ đắc cử Phó Tổng thống nếu số phiếu này là đa số phiếu của tổng số Đại Cử tri được chỉ định; nếu không có ai được đa số phiếu, thì Thượng Nghị viện sẽ căn cứ vào hai người có số phiếu cao nhất trong danh sách để bầu ra Phó Tổng thống. Số đại biểu cần thiết cho mục đích này gồm hai phần ba trong tổng số Thượng Nghị sỹ và đa số trong tổng số là tiêu chuẩn cần thiết để chọn lựa. Người nào không đủ tiêu chuẩn hợp hiến để đảm nhận chức vụ Tổng thống thì cũng không đủ tiêu chuẩn để được chọn làm Phó Tổng thống Mỹ.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này quy định rằng các thành viên của Đại Cử tri Đoàn, được gọi là các Đại Cử tri, bầu một người làm Tổng thống và một người làm Phó Tổng thống. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này xuất phát từ cuộc bầu cử năm 1800. Lúc đó, mỗi Đại Cử tri bầu hai người, không xác định rõ bầu ai làm Tổng thống. Người nhận được số phiếu nhiều nhất sẽ trở thành Tổng thống, và người có số phiếu thứ nhì sẽ làm Phó Tổng thống. Thomas Jefferson, ứng cử viên Tổng thống của Đảng Dân chủ, và Aaron Burr, ứng cử viên Phó Tổng thống cũng của Đảng Dân chủ đã nhận được cùng một số lượng phiếu. Kết quả ngang bằng này đã đưa cuộc bầu cử vào Hạ Nghị viện đang bị kiểm soát bởi đảng đối lập: Đảng Liên bang. Hạ Nghị viện cuối cùng đã chọn T. Jefferson nhưng quyết định mất quá nhiều thời gian khiến mọi người lo lắng rằng sẽ không thể chọn được Tổng thống trước ngày có Lễ Nhậm chức. Hạ Nghị viện cũng đã chọn một Tổng thống khác – John Quincy Adams vào năm 1825.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 13
BÃI BỎ CHẾ ĐỘ NÔ LỆ
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 31 Tháng Giêng 1865 rồi được thông qua vào ngày 06 Tháng Chạp 1865.
Khoản 1
Không một chế độ nô lệ hoặc lao dịch cưỡng bức nào có thể tồn tại ở Mỹ hoặc ở một nơi nào thuộc thẩm quyền của Mỹ, trừ trường hợp trừng phạt thích đáng đối với tội phạm hình sự mà đương sự phạm phải.
CHÚ THÍCH:
Tuyên bố Giải phóng Nô lệ của Tổng thống Abraham Lincoln năm 1863 đã giải thoát cho các nô lệ tại Hợp bang vẫn còn đang nổi loạn. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này hoàn tất việc bãi bỏ chế độ nô lệ tại Mỹ.
Khoản 2
Quốc hội sẽ có quyền thực thi điều luật này bằng quyền lập pháp tương ứng.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 14
QUYỀN CÔNG DÂN
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 13 Tháng Sáu 1866 rồi được thông qua vào ngày 09 Tháng Bảy 1868.
Khoản 1
Tất cả những người sinh ra trên lãnh thổ Mỹ hoặc được nhập quốc tịch ở Mỹ và thuộc thẩm quyền tài phán ở đó, đều là công dân của Mỹ và của bang mà họ sinh sống. Không một bang nào được ban hành hoặc thực thi bất cứ đạo luật nào nhằm hạn chế đặc quyền hoặc quyền bất khả xâm phạm của công dân Mỹ. Cũng không một bang nào có thể tước đoạt sinh mệnh, tự do hoặc tài sản của một cá nhân mà không theo một quy trình do luật định. Cũng không thể phủ nhận quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng của một cá nhân trong phạm vi thẩm quyền tài phán của bang đó.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này nhằm trao quyền công dân cho các nô lệ cũ của Mỹ lẫn các bang nơi họ sống và nhằm bảo vệ họ khỏi sự phân biệt đối xử của các bang. Các điều khoản trong Điều luật Bổ sung Sửa đổi này xác định rõ tư cách công dân có được như thế nào. Tư cách công dân của bang là một phần của tư cách công dân quốc gia. Bằng cách sống trong một bang, mọi công dân Mỹ sẽ tự động trở thành công dân của bang đó. Tất cả những người đã được nhập tịch (trao tư cách công dân) theo luật đều là công dân Mỹ. Bất cứ ai được sinh ra tại Mỹ cũng là một công dân của quốc gia này bất kể quốc tịch của bố mẹ, trừ khi bố mẹ họ là đại diện ngoại giao của nước khác hoặc là kẻ thù trong thời kỳ chiếm đóng của chiến tranh. Các trường hợp như vậy được coi là các ngoại lệ do bố mẹ của họ không phải là “đối tượng của quyền tài phán” của Mỹ. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này không trao tư cách công dân cho những người Mỹ thổ dân đang sống trong các vùng bảo tồn, tuy nhiên Quốc hội đã thông qua một điều luật cho phép trao quyền công dân cho họ.
Cụm từ “tiến trình tố tụng đúng” được giải thích nhằm nghiêm cấm các bang vi phạm hầu hết các quyền mà Tuyên ngôn Về Nhân quyền bảo vệ khỏi sự hạn chế của chính phủ liên bang. Nó cũng được giải thích nhằm bảo vệ các quyền khác bằng chính hiệu lực của nó. Tuyên bố rằng một bang không thể từ chối bất cứ ai “sự bảo vệ bình đẳng của pháp luật” đã đặt ra nền tảng cho nhiều quy định của Toà án Tối cao về quyền công dân. Ví dụ, vụ án năm 1954 (Brown kiện Ban Giáo dục) đã tuyên bố sự phân biệt chủng tộc trong các trường công lập chính là sự phủ nhận đối với nguyên tắc bảo vệ bình đẳng theo pháp luật. Sau đó Toà án Tối cao đã quy định rằng bất cứ dạng phân biệt chủng tộc nào được ủng hộ bởi các chính quyền đều trái với Hiến pháp.
Khoản 2
Số Hạ Nghị sỹ được phân chia theo tổng số nhân khẩu của các tiểu bang, [ngoại trừ những người da đỏ không phải nộp thuế]. Nhưng trong bất cứ một cuộc bầu cử Đại Cử tri (để bầu Tổng thống và Phó Tổng thống Mỹ), bầu cử các Hạ Nghị sỹ trong Quốc hội, các quan chức hành pháp và tư pháp của bang hoặc các thành viên của cơ quan lập pháp nơi đó, nếu quyền bầu cử của nam công dân tuổi 21 và là công dân Mỹ bị phủ nhận hoặc bị tước bỏ vì lý do nào đó (không kể trường hợp những người tham gia phiến loạn hoặc phạm các tội khác), thì số Đại Cử tri ở đó sẽ bị giảm bớt theo tỷ lệ giữa tổng số nam công dân và số nam công dân ở độ tuổi 21 tại bang đó.
CHÚ THÍCH:
Phần này đề xuất hình phạt đối với các bang từ chối trao quyền bầu cử trong các cuộc bầu cử liên bang cho tất cả các công dân nam giới trưởng thành. Các bang hạn chế việc bầu cử có thể bị giảm số đại biểu của họ tại Hạ Nghị viện. Hình phạt này chưa bao giờ được thực hiện. Phần này đã được hủy bỏ bởi Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 19 và 26.
Khoản 3
Những ai với tư cách là thành viên của Quốc hội, hoặc một quan chức của Mỹ, hoặc một thành viên của một cơ quan lập pháp của bang, hoặc quan chức hành chính hoặc tư pháp của bất cứ một bang nào đã tuyên thệ ủng hộ Hiến pháp của Mỹ nhưng lại tham gia các cuộc nổi dậy hoặc phiến loạn chống lại Hiến pháp hoặc trợ giúp hoặc úy lạo kẻ thù, thì không thể là Thượng Nghị sỹ hoặc Hạ Nghị sỹ trong Quốc hội, hoặc Đại Cử tri để bầu Tổng thống và Phó Tổng thống, hoặc phụ trách một cơ quan dân sự hoặc quân sự nào của Mỹ hoặc một bang nào đó. Nhưng Quốc hội có thể với 2/3 số phiếu của hai phần ba thành viên mỗi Viện để bác bỏ sự nghiêm cấm nói trên.
CHÚ THÍCH:
Phần này chỉ đáng quan tâm về mặt lịch sử. Mục đích của nó là nhằm ngăn cản các quan chức liên bang đã từng tham gia vào Hợp bang không được trở thành quan chức liên bang nữa.
Khoản 4
Giá trị của những khoản nợ công cộng của Mỹ, được luật pháp bảo đảm, kể cả những khoản nợ để trả cho các khoản phụ cấp và tiền thưởng cho công việc phục vụ trấn áp các cuộc nổi dậy và phiến loạn, không bị chất vấn. Tuy nhiên Mỹ và bất cứ bang nào đều không thừa nhận hoặc thanh toán các khoản nợ hoặc trái vụ liên quan tới sự hỗ trợ các cuộc nổi dậy và phiến loạn chống lại Mỹ, hoặc đối với những yêu cầu bồi thường cho tình trạng mất mát nô lệ hoặc giải phóng nô lệ. Những khoản tiền, nghĩa vụ và yêu cầu loại này phải bị coi là phi pháp và không có giá trị.
CHÚ THÍCH:
Phần này bảo đảm rằng các khoản nợ trong thời kỳ Nội chiến của Liên bang sẽ được thanh toán, tuy nhiên các khoản nợ của Hợp bang sẽ mất hiệu lực. Phần này cũng nói rằng các chủ nô cũ sẽ không được thanh toán cho các nô lệ đã được giải phóng.
Khoản 5
Bằng luật lệ thích hợp, Quốc hội có quyền triển khai xem xét điều khoản này.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 15
QUYỀN BỎ PHIẾU CỦA NGƯỜI MỸ GỐC PHI
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 26 Tháng Hai 1869 rồi được thông qua vào ngày 03 Tháng Hai 1870.
Khoản 1
Quyền bầu cử của các công dân Mỹ sẽ không bị phủ nhận hoặc hạn chế, dựa vào lý do chủng tộc, màu da hoặc tình trạng nô lệ trước đây.
CHÚ THÍCH:
Những người Mỹ gốc Phi từng là nô lệ đã trở thành công dân theo các điều khoản của Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 14. Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 15 nghiêm cấm các bang không được từ chối trao quyền bầu cử cho các công dân vì lí do chủng tộc. Một vài bang miền Nam đã từ chối trao quyền bầu cử cho những người Mỹ gốc Phi mặc dù có Điều luật Bổ sung Sửa đổi này cho đến những năm 1960, khi Quốc hội thông qua các đạo luật buộc thực hiện việc sửa đổi và Toà án Tối cao tuyên bố các hành vi và thủ tục pháp lý trái với Hiến pháp là các hành vi mà kết quả của chúng vi phạm các quy định của Hiến pháp.
Khoản 2
Quốc hội sẽ có quyền triển khai điều khoản này bằng luật lệ thích hợp.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 16
THUẾ THU NHẬP
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 12 Tháng Bảy 1909 rồi được thông qua vào ngày 03 Tháng Hai 1913.
Quốc hội sẽ có quyền ban hành và thu các khoản thuế thu nhập có từ bất cứ nguồn nào mà không phân bổ tỷ lệ giữa các bang và không dựa vào bất cứ sự thống kê và điều tra dân số nào.
CHÚ THÍCH:
Năm 1894, Quốc hội thông qua luật thuế thu nhập, nhưng Toà án Tối cao tuyên bố rằng đó là thuế trực tiếp và phải được phân bố cho các bang và do vậy khiến việc thu thuế không thể thực hiện được. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này cho phép Quốc hội thu thuế thu nhập mà không phải phân bố đều.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 17
BẦU CỬ TRỰC TIẾP THƯỢNG NGHỊ SỸ
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 13 Tháng Năm 1912 rồi được thông qua vào ngày 08 Tháng Tư 1913.
(1) Thượng Nghị viện của Mỹ sẽ gồm có hai Thượng Nghị sỹ của mỗi bang được bầu ra bởi dân chúng ở đó với nhiệm kỳ 6 năm và mỗi Thượng Nghị sỹ sẽ có một lá phiếu biểu quyết. Ðại Cử tri ở mỗi bang phải có đủ phẩm chất cần thiết như phẩm chất của Đại Cử tri ở bang có cơ quan lập pháp đông đảo nhất.
(2) Khi có chỗ trống trong số đại diện của tiểu bang trong Thượng Nghị viện, cơ quan hành pháp của bang đó sẽ ban hành lệnh bầu cử để bổ sung vào chỗ trống, với điều kiện là cơ quan lập pháp của bang đó trao quyền tạm thời cho cơ quan hành pháp cho đến khi nhân dân bầu chọn được người bổ sung vào những chỗ trống theo luật lệ sẵn có.
(3) Ðiều khoản này sẽ không được giải thích làm ảnh hưởng đến việc bầu cử hoặc nhiệm kỳ của Thượng Nghị sỹ được bầu ra, cho đến khi nó có hiệu lực như một bộ phận của Hiến pháp.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này lấy quyền bầu cử các Thượng Nghị sỹ từ tay cơ quan lập pháp của bang trao cho các cử tri của bang.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 18
LUẬT CẤM RƯỢU
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 18 Tháng Chạp 1917 rồi được thông qua vào ngày 16 Tháng Giêng 1919.
Khoản 1
[Một năm sau khi phê chuẩn điều khoản này của Hiến pháp, việc sản xuất, mua bán hoặc chuyên chở các loại rượu có cồn ở trong nước, nhập khẩu từ nước ngoài, xuất khẩu từ Mỹ và các lãnh thổ thuộc thẩm quyền của Mỹ đều bị cấm.
Khoản 2
Quốc hội và các bang có quyền lực như nhau khi triển khai điều khoản này của Hiến pháp.
Khoản 3
Ðiều khoản này sẽ không có hiệu lực trừ phi được phê chuẩn bởi cơ quan lập pháp của các bang như một điều bổ sung của Hiến pháp trong vòng 7 năm kể từ ngày Quốc hội chuyển đến các bang như Hiến pháp quy định].
CHÚ THÍCH:
Đây là Điều luật Bổ sung Sửa đổi đối với lệnh cấm nhằm ngăn cấm nhân dân pha chế, bán hoặc vận chuyển rượu. Điều luật này đã bị hủy bỏ bởi Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 21 được thông qua vào năm 1933.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 19
QUYỀN BẦU CỬ CỦA PHỤ NỮ
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 04 Tháng Sáu 1919 rồi được thông qua vào ngày 18 Tháng Tám 1920.
Khoản 1
Quyền bầu cử của các công dân Mỹ sẽ không bị phủ nhận hoặc hạn chế bởi Liên bang hoặc bất cứ bang nào với lý do giới tính.
Khoản 2
Quốc hội có quyền thực hiện điều khoản này bằng luật lệ thích hợp.
CHÚ THÍCH:
Các sửa đổi nhằm trao quyền bầu cử cho phụ nữ đã lần lượt được trình trước Quốc hội trong hơn 40 năm trước khi Điều luật Bổ sung Sửa đổi này cuối cùng đã được thông qua.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 20
CÁC ĐIỀU KHOẢN VỀ TỔNG THỐNG VÀ QUỐC HỘI
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 02 Tháng Ba 1932 rồi được thông qua vào ngày 23 Tháng Giêng 1933.
Khoản 1
Nhiệm kỳ của Tổng thống và Phó Tổng thống sẽ kết thúc vào đúng trưa ngày 20 Tháng Giêng, và nhiệm kỳ của các Thượng Nghị sỹ và Hạ Nghị sỹ sẽ kết thúc vào đúng trưa của ngày 03 Tháng Giêng của năm mà những nhiệm kỳ trên sẽ kết thúc, nếu điều khoản này vẫn chưa được phê chuẩn và nhiệm kỳ của những người kế nhiệm họ sẽ bắt đầu từ thời điểm đó.
Khoản 2
Quốc hội sẽ họp ít nhất mỗi năm một lần và kỳ họp sẽ bắt đầu vào giữa trưa ngày 03 Tháng Giêng, trừ trường hợp họ có thể căn cứ vào luật để xác định một ngày khác.
Khoản 3
Nếu vào thời điểm bắt đầu nhiệm kỳ đã được ấn định mà Tổng thống đắc cử qua đời, thì Phó Tổng thống đắc cử sẽ trở thành Tổng thống. Nếu trước thời điểm bắt đầu nhiệm kỳ đã được ấn định mà Tổng thống chưa đắc cử hoặc Tổng thống đã đắc cử nhưng không đủ tư cách, thì Phó Tổng thống đắc cử sẽ đảm đương cương vị Tổng thống cho đến khi Tổng thống được xác định có đủ tư cách. Quốc hội có thể căn cứ vào luật để quyết định về trường hợp khi cả Tổng thống đắc cử và Phó Tổng thống đắc cử đều không đủ điều kiện, tuyên bố ai sẽ đứng ra đảm đương quyền Tổng thống hoặc xác định cách thức để chọn người đảm đương chức vụ Tổng thống cho đến khi Tổng thống hoặc Phó Tổng thống có đủ tư cách.
Khoản 4
Quốc hội có thể căn cứ vào luật để quy định trong trường hợp có sự qua đời của bất cứ cá nhân nào trong những người mà Hạ Nghị viện có thể chọn làm Tổng thống khi Hạ Nghị viện được trao quyền lựa chọn đó; và trong trường hợp có sự qua đời của bất cứ cá nhân nào trong những người mà Thượng Nghị viện có thể chọn làm Phó Tổng thống khi Thượng viện được trao quyền lựa chọn đó.
Khoản 5
Khoản 1 và khoản 2 sẽ có hiệu lực bắt đầu vào ngày 15 Tháng Mười sau khi điều khoản này được phê chuẩn.
Khoản 6
Ðiều luật này của Hiến pháp sẽ không có hiệu lực trừ phi được phê chuẩn như những điều bổ sung của Hiến pháp bởi cơ quan lập pháp của ba phần tư các tiểu bang trong 7 năm kể từ ngày được đệ trình.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này, được gọi là điều luật sửa đổi về viên chức sắp mãn nhiệm, chuyển ngày nhậm chức của Tổng thống và các thành viên Quốc hội mới được bầu gần hơn với thời gian bầu cử. “Viên chức sắp mãn nhiệm” là một quan chức vẫn phải tiếp tục làm việc mặc dù không được bầu lại. Trước khi Điều luật Bổ sung Sửa đổi này có hiệu lực, các thành viên Quốc hội và Tổng thống không được bầu lại trong cuộc bầu cử Tháng Mười một vẫn phải tiếp tục giữ cương vị đó cho đến Tháng Ba năm sau.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 21
HỦY BỎ CÁC LỆNH CẤM
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 20 Tháng Hai 1933 rồi được thông qua vào ngày 05 Tháng Chạp 1933.
Khoản 1
Kể từ nay, Điều luật Bổ sung Sửa đổi số 18 của Hiến pháp bị bãi bỏ.
Khoản 2
Việc chuyên chở hoặc nhập khẩu nhằm cung cấp và sử dụng rượu có cồn ở bất cứ bang nào hoặc lãnh thổ và vùng thuộc sở hữu của Mỹ mà vi phạm luật ở những nơi đó sẽ bị nghiêm cấm.
Khoản 3
Ðiều luật này sẽ không có hiệu lực trừ phi nó được phê chuẩn bởi các đại hội của các bang như một điều luật bổ sung của Hiến pháp, theo quy định của Hiến pháp, trong vòng 7 năm kể từ ngày Quốc hội chuyển đến các bang.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này chỉ đơn giản hủy bỏ Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 18.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 22
GIỚI HẠN NHIỆM KỲ TỔNG THỐNG TRONG HAI NHIỆM KỲ
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 24 Tháng Ba 1947 rồi được thông qua vào ngày 27 Tháng Hai 1951.
Khoản 1
Không người nào được bầu giữ chức vụ Tổng thống quá hai nhiệm kỳ và không người nào đã đảm đương chức vụ Tổng thống hoặc quyền Tổng thống quá hai năm trong nhiệm kỳ mà người khác đã đắc cử Tổng thống sẽ được bầu vào chức vụ Tổng thống hơn một nhiệm kỳ. Nhưng điều khoản này không áp dụng đối với những người đang giữ chức vụ Tổng thống khi điều khoản này được đề nghị bởi Quốc hội và sẽ không ngăn cản bất cứ ai có thể giữ chức vụ Tổng thống hoặc quyền Tổng thống trong thời gian điều khoản này có hiệu lực đúng vào nhiệm kỳ của họ, vì vậy họ sẽ tiếp tục cương vị Tổng thống hoặc quyền Tổng thống trong thời gian nhiệm kỳ còn lại.
Khoản 2
Ðiều luật này sẽ không có hiệu lực trừ phi nó sẽ được phê chuẩn bởi cơ quan lập pháp của ba phần tư các bang như một điều luật bổ sung vào Hiến pháp trong vòng 7 năm kể từ ngày Quốc hội chuyển tới các bang.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này quy định rằng không ai được bầu làm Tổng thống hơn hai lần. Không có Tổng thống nào đã từng giữ cương vị của mình nhiều hơn hai năm so với nhiệm kỳ của các Tổng thống khác được bầu hơn một lần. Một Tổng thống có thể giữ cương vị đó trong hơn 10 năm. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được ủng hộ bởi những người cho rằng Tổng thống Franklin D. Roosevelt không nên hoạt động trong bốn nhiệm kỳ. Không có Tổng thống nào khác được ra tranh cử trong hơn hai nhiệm kỳ liên tiếp.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 23
QUYỀN BẦU CỬ TRONG QUẬN COLUMBIA
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 16 Tháng Sáu 1960 rồi được thông qua vào ngày 29 Tháng Ba 1961.
Khoản 1
Các địa hạt cấu thành nên các khu vực bầu cử chính quyền của Mỹ sẽ được tổ chức theo thể thức mà Quốc hội quy định như sau:
Số Đại Cử tri bầu Tổng thống và Phó Tổng thống mà các địa hạt có được bằng tổng số Thượng Nghị sỹ và Hạ Nghị sỹ trong Quốc hội, nếu đó là một bang, nhưng nếu số Đại Cử tri không nhiều hơn so với bang có dân số ít nhất, thì họ sẽ được ghép vào số Đại Cử tri được bổ nhiệm bởi các bang, nhưng xuất phát từ mục đích của cuộc bầu cử Tổng thống và Phó Tổng thống, thì họ sẽ được coi là các Đại Cử tri được bổ nhiệm bởi một bang, và họ sẽ họp với nhau ở khu vực bầu cử và hoàn thành trách nhiệm được quy định bởi điều luật bổ sung sửa đổi thứ 12 của Hiến pháp.
Khoản 2
Quốc hội có quyền đem lại hiệu lực cho điều khoản này bằng luật lệ phù hợp.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này cho phép các công dân của Quận Columbia được bầu cử Tổng thống. Tuy nhiên, họ không có thành viên nào trong Quốc hội để bầu.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 24
THUẾ BẦU CỬ
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 27 Tháng Tám 1962 rồi được thông qua vào ngày 23 Tháng Giêng 1964.
Khoản 1
Quyền bầu cử của công dân Mỹ trong các vòng bầu cử sơ bộ, hoặc trong các cuộc bầu cử Tổng thống hoặc Phó Tổng thống, cuộc bầu cử Đại Cử tri để bầu chọn Tổng thống, Phó Tổng thống, Thượng Nghị sỹ hoặc Hạ Nghị sỹ trong Quốc hội, sẽ không bị phủ nhận hoặc hạn chế bởi Mỹ hoặc một bang nào với lý do không có khả năng nộp thuế thân hoặc thuế khác.
Khoản 2
Quốc hội có quyền thực thi điều luật này bằng luật lệ phù hợp.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này nghiêm cấm một bang buộc các cử tri phải nộp thuế thân hoặc thuế bầu cử trước khi họ có thể bầu cử trong cuộc bầu cử quốc gia. Toà án Tối cao đã giải thích điều khoản bảo vệ bình đẳng của Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 14 nhằm ngăn cấm việc đánh thuế bầu cử trong các cuộc bầu cử bang. Thuật ngữ thuế bầu cử (poll tax) không có nghĩa là thuế đánh vào việc bầu cử. Nó xuất phát từ “poll” – một từ Anh cổ  có nghĩa là “đầu”. Một vài bang đã từng sử dụng các loại thuế như vậy để ngăn cản những người nghèo và người Mỹ gốc Phi tham gia bầu cử.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 25
TỔNG THỐNG BỊ TÀN PHẾ VÀ VIỆC KẾ NHIỆM
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 06 Tháng Bảy 1965 rồi được thông qua vào ngày 10 Tháng Hai 1967.
Khoản 1
Trong trường hợp Tổng thống bị phế truất, qua đời hoặc từ chức, Phó Tổng thống sẽ trở thành Tổng thống.
Khoản 2
Trong trường hợp vị trí Phó Tổng thống bị bỏ trống, Tổng thống sẽ chỉ định một người làm Phó Tổng thống, nhưng phải được đa số phiếu bầu của cả hai viện trong Quốc hội.
CHÚ THÍCH:
Phần này quy định việc bổ sung chỗ khuyết cho chức danh Phó Tổng thống. Năm 1973, Gerald R. Ford trở thành Phó Tổng thống đầu tiên được chọn theo các điều khoản của sửa đổi này. Tổng thống Richard M. Nixon đã bổ nhiệm Gerald R. Ford làm Phó Tổng thống sau khi có Spiro T. Agnew từ chức Phó Tổng thống. Năm 1974, Richard M. Nixon từ chức và Gerald R. Ford trở thành Tổng thống. Nelson A. Rockefeller sau đó trở thành Phó Tổng thống theo thủ tục mới. Lần đầu tiên, nước Mỹ có cả Tổng thống và Phó Tổng thống không phải được bầu cử vào cương vị đó. Trước khi Điều luật Bổ sung Sửa đổi này có hiệu lực, các chỗ khuyết trong chức vị Phó Tổng thống thường để trống cho đến kỳ bầu cử Tổng thống tiếp theo.
Khoản 3
Trong trường hợp Tổng thống chuyển đến Chủ tịch Lâm thời của Thượng Nghị viện và Chủ tịch Hạ Nghị viện văn bản tuyên bố rằng Tổng thống không thể thực thi quyền lực và trách nhiệm của mình và cho đến khi Tổng thống chuyển đến họ một văn bản với nội dung ngược lại thì những quyền lực và trách nhiệm đó sẽ được thực thi bởi Phó Tổng thống với tư cách quyền Tổng thống.
CHÚ THÍCH:
Phần này quy định rằng Phó Tổng thống kế nhiệm chức vụ Tổng thống nếu Tổng thống bị tàn phế. Phó Tổng thống George H. W. Bush trở thành quyền Tổng thống đầu tiên. Ông chính thức giữ cương vị này trong tám giờ đồng hồ vào ngày 13 Tháng Bảy 1985, khi Tổng thống Ronald Reagan phẫu thuật ung thư.
Khoản 4
Trong mọi trường hợp khi Phó Tổng thống và đa số các quan chức chủ yếu của cơ quan hành pháp hoặc cơ quan tương đương nào khác mà Quốc hội đã quy định bằng luật, chuyển lên Chủ tịch Lâm thời của Thượng Nghị viện và Chủ tịch Hạ Nghị viện văn bản của họ tuyên bố rằng Tổng thống không thể thực thi những quyền lực và trách nhiệm của mình, thì Phó Tổng thống sẽ ngay lập tức nắm quyền lực và trách nhiệm đó với tư cách quyền Tổng thống.
Sau đó, khi Tổng thống chuyển lên quyền Chủ tịch của Thượng Nghị viện và Chủ tịch Hạ Nghị viện văn bản tuyên bố về năng lực của mình, Tổng thống có thể tiếp tục thực thi quyền lực và nhiệm vụ với điều kiện trong vòng 4 ngày Phó Tổng thống và đa số các quan chức chủ yếu của cơ quan hành pháp hoặc cơ quan tương đương mà Quốc hội đã quy định chuyển đến Chủ tịch Lâm thời của Thượng Nghị viện và Chủ tịch Hạ Nghị viện văn bản tuyên bố về việc Tổng thống có đủ năng lực thực thi quyền lực và trách nhiệm của mình. Nếu không phải trong kỳ họp, trong vòng 48 tiếng đồng hồ Quốc hội sẽ phải họp để giải quyết vấn đề đó. Nếu Quốc hội trong vòng 21 ngày sau khi nhận được văn bản tuyên bố nói trên hoặc nếu vào thời điểm đó không phải là kỳ họp thì trong vòng 21 ngày, Quốc hội phải họp để với hai phần ba số phiếu của cả hai Viện quyết định về việc Tổng thống không thể thực thi các quyền và trách nhiệm của mình, và Phó Tổng thống sẽ tiếp tục thực thi công việc đó với tư cách là quyền Tổng thống, trong trường hợp ngược lại, Tổng thống sẽ tiếp tục thực thi quyền lực và trách nhiệm của mình.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 26
QUYỀN BẦU CỬ CHO NHỮNG NGƯỜI ĐỦ 18 TUỔI
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 23 Tháng Ba 1971 rồi được thông qua vào ngày 01 Tháng Bảy 1971.
Khoản 1
Quyền bầu cử của công dân Mỹ từ 18 tuổi trở lên sẽ không bị tước bỏ hoặc hạn chế bởi Liên bang hoặc bất cứ bang nào với lý do tuổi tác.
Khoản 2
Quốc hội có quyền thực hiện điều luật này bằng luật lệ thích hợp.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này nghiêm cấm các bang từ chối quyền bầu cử của các công dân do tuổi của họ nếu họ đã đủ 18 tuổi trở lên.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 27
LƯƠNG CỦA THÀNH VIÊN QUỐC HỘI
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất vào ngày 25 Tháng Chín 1789 rồi được thông qua vào ngày 07 Tháng Năm 1992.
Trước cuộc bầu cử Hạ Nghị sỹ, không một điều luật nào nhằm thay đổi các khoản trợ cấp cho công việc của Thượng Nghị sỹ và Hạ Nghị sỹ sẽ có hiệu lực.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được đề xuất lần đầu tiên vào ngày 25 Tháng Chín 1789 bởi James Madison rồi được thông qua vào cuối Tháng Chín cùng năm đó bởi Nghị viện Mỹ, nhưng sau 200 năm nó vẫn chưa được phê chuẩn bởi 38 bang theo điều kiện cần thiết. Chỉ trích của dư luận về vấn đề lương cho thành viên Quốc hội tăng lên khiến bang Michigan phê chuẩn Điều luật Bổ sung Sửa đổi này vào ngày 07 Tháng Năm 1992, là bang phê chuẩn thứ 38. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này bảo đảm rằng nếu các Thượng Nghị sỹ hoặc các Hạ Nghị sỹ bỏ phiếu yêu cầu tăng lương thì chỉ có thành viên của các Quốc hội sau đó (có thể bao gồm cả các thành viên cũ lẫn những thành viên mới được bầu) mới được hưởng lợi từ việc tăng lương này.
(Trích dẫn từ “Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Mỹ, Tháng Bảy 2004. Bản dịch của Sứ quán Mỹ tại Việt nam”).

II. GIẢI QUYẾT TRIỆT ĐỂ CÁC MÂU THUẪN ĐỐI KHÁNG TRONG PHIÊN BẢN THỨ HAI.

Thay đổi Đại Cử tri thông qua các điều luật bổ sung sửa đổi làm thay đổi quyền bầu cử, Thượng Nghị viện, tình trạng nô lệ cho người da màu, v. v., qua đó làm cho Đại Cử tri phải thay đổi triệt để: trước kia Đại Cử tri chỉ bao hàm các nhà giàu da trắng nhưng dần dần về sau Đại Cử tri phải bao hàm mọi cá nhân, làm cho Hiến pháp Mỹ bị mất hết cả tính chất chuyên chế lẫn tính chất quý tộc để trở thành một hiến pháp có đầy đủ giá trị dân chủ 18).
Điều luật I, khoản 2, mục 1; cũng như Điều luật II, khoản 1, mục 2, trao quyền bầu cử cho Đại Cử tri đã bị lạm dụng nghiêm trọng với sự phân biệt đối xử về nhiều mặt, như chủng tộc, giới tính, giai cấp, tuổi tác, v. v., dẫn đến sự bất công xã hội giữa các thành phần khác nhau trong xã hội Mỹ. Đại Cử tri vốn là một khái niệm hết sức mù mờ về mặt chính trị dù được diễn dịch như thế nào cũng được. Chính vì được diễn dịch như thế nào cũng được nên khái niệm đó cho phép một số ít người có thế lực to lớn mà điển hình nhất thuộc về các nhà giàu da trắng vốn chỉ chiếm một số ít trong xã hội Mỹ lạm dụng triệt để vào việc bảo tồn ngấm ngầm chính thể nửa vời hoặc chính thể quý tộc mặc dù Hiến pháp Mỹ ngay từ đầu chỉ nhằm xác lập chính thể dân chủ cho xã hội Mỹ. Cái mâu thuẫn đối kháng như vậy trong phiên bản thứ hai chỉ được giải quyết dần dần qua nhiều năm. Phải đến năm 1971, cái mâu thuẫn đó mới được giải quyết triệt để bởi các Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 13, 15, 17, 19, 24 và 26, để chính thể quý tộc chuyển biến thành chính thể dân chủ. Đại Cử tri lúc đầu chỉ bao hàm các Ông Lớn (The Great Men) nhưng về sau do các điều luật bổ sung sửa đổi nói trên nên phải bao hàm mọi cá nhân!
Điều luật I, khoản 3, mục 1 quy định rằng: “Thượng Nghị viện Mỹ sẽ gồm có hai Thượng Nghị sỹ của mỗi bang [được bầu ra bởi cơ quan lập pháp ở đó] với nhiệm kỳ 6 năm và mỗi Thượng Nghị sỹ sẽ có một phiếu biểu quyết”, hoặc mục 2 quy định thêm rằng: “Ngay sau khi Thượng Nghị viện được bầu ra và nhóm họp lần đầu, các Thượng Nghị sỹ sẽ được phân chia sao cho đồng đều thành ba cấp. Thượng Nghị sỹ cấp 1 sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ hai của nhiệm kỳ, Thượng Nghị sỹ cấp 2 sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ tư, Thượng Nghị sỹ cấp 3 sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ 6, sao cho sau mỗi hai năm có thể bầu lại một phần ba Thượng Nghị sỹ. [Và khi có chỗ trống do từ chức hoặc nguyên nhân nào khác trong thời gian ngừng họp của cơ quan lập pháp ở bất cứ bang nào, thì chính quyền ở đó có thể tạm thời bổ nhiệm cho đến kỳ họp tiếp đó của cơ quan lập pháp và khi đó sẽ bổ sung vào chỗ trống]”, tức là những người làm Thượng Nghị sỹ chỉ được bầu chọn bởi cơ quan lập pháptừng tiểu bang đã góp phần bảo vệ ngấm ngầm chính thể nửa vời hoặc chính thể quý tộc mặc dù Hiến pháp Mỹ chỉ nhằm xác lập chính thể dân chủ. Quan điểm quý tộc cho rằng Hạ Nghị viện chỉ làm đại diện cho dân chúng, còn Thượng Nghị viện phải làm đại diện cho chính quyền, tức là đem đối lập chính quyền với dân chúng, cũng như đem đối lập Thượng Nghị viện với Hạ nghị viện. Nhưng quan điểm dân chủ lại cho rằng cả Hạ Nghị viện lẫn Thượng Nghị viện đều phải làm đại diện cho dân chúng, rằng sự phân chia Nghị viện thành hai thiết chế khác nhau như vậy chỉ bắt nguồn từ quyền lực lập pháp vốn bao hàm cả quyền lực hành pháp lẫn quyền lực tư pháp phải có hai chức năng đối lập nhau: chức năng quy định đối lập với chức năng ngăn cản, được trao cho hai thiết chế tương ứng hợp thành Nghị viện, tức là Hạ Nghị viện và Thượng Nghị viện. Cái mâu thuẫn đối kháng giữa hai quan điểm đó đã được giải quyết triệt để bởi Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 17 quy định rằng: “1) Thượng Nghị viện của Mỹ sẽ gồm có hai Thượng Nghị sỹ của mỗi bang được bầu ra bởi dân chúng ở đó với nhiệm kỳ 6 năm và mỗi Thượng Nghị sỹ sẽ có một lá phiếu biểu quyết. Ðại Cử tri ở mỗi bang phải có đủ phẩm chất cần thiết như phẩm chất của Đại Cử tri ở bang có cơ quan lập pháp đông đảo nhất. 2) Khi có chỗ trống trong số đại diện của tiểu bang trong Thượng Nghị viện, cơ quan hành pháp của bang đó sẽ ban hành lệnh bầu cử để bổ sung vào chỗ trống, với điều kiện là cơ quan lập pháp của bang đó trao quyền tạm thời cho cơ quan hành pháp cho đến khi nhân dân bầu chọn được người bổ sung vào những chỗ trống theo luật lệ sẵn có. 3) Ðiều khoản này sẽ không được giải thích làm ảnh hưởng đến việc bầu cử hoặc nhiệm kỳ của Thượng Nghị sỹ được bầu ra, cho đến khi nó có hiệu lực như một bộ phận của Hiến pháp”, tức là những người làm Thượng Nghị sỹ phải được bầu chọn trực tiếp bởi dân chúng.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 13 được đề xuất vào ngày 13 Tháng Giêng 1865 rồi được thông qua vào ngày 06 Tháng Chạp 1865 bãi bỏ chế độ nô lệ tại Mỹ hoặc xóa bỏ quyền lực chuyên chế của người này đối với người khác trong xã hội Mỹ.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 15 được đề xuất vào ngày 26 Tháng Hai 1869 rồi được thông qua vào ngày 03 Tháng Hai 1870 ngăn cấm việc cản trở người da đen tham gia bầu cử, tức là điều luật này đã xóa bỏ sự phân biệt về chủng tộc hoặc góp phần giảm bớt tính chất nửa vời hoặc tính chất quý tộc cho Hiến pháp Mỹ.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 17 được đề xuất vào ngày 13 Tháng Năm 1912 rồi được thông qua vào ngày 08 Tháng Tư 1913 quy định những người làm Thượng Nghị sỹ phải được bầu chọn trực tiếp bởi dân chúng ở từng tiểu bang, tức là điều lụât này góp phần xóa bỏ tính chất nửa vời hoặc tính chất quý tộc cho Hiến pháp Mỹ đồng thời gia tăng tính chất dân chủ cho Hiến pháp đó.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 19 được đề xuất vào ngày 04 Tháng Sáu 1919 rồi được thông qua vào ngày 18 Tháng Tám 1920 ngăn cấm việc cản trở nữ giới tham gia bầu cử, tức là điều luật này đã xóa bỏ sự phân biệt về giới tính hoặc góp phần xóa bỏ thêm tính chất nửa vời hoặc tính chất quý tộc cho Hiến pháp Mỹ.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 24 được đề xuất vào ngày 27 Tháng Tám 1962 rồi được thông qua vào ngày 23 Tháng Giêng 1964 ngăn cấm việc cản trở người nghèo tham gia bầu cử, tức là điều luật này đã xóa bỏ hoàn toàn sự phân biệt về giai cấp hoặc kinh tế, cũng tức là góp phần quan trọng nhất vào việc xóa bỏ tính chất nửa vời hoặc tính chất quý tộc cho Hiến pháp Mỹ.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 26 được đề xuất vào ngày 23 Tháng Ba 1971 rồi được thông qua vào ngày 01 Tháng Bảy 1971 ngăn cấm việc cản trở công dân tham gia bầu cử với lý do tuổi tác, tức là điều luật này đã xóa bỏ sự phân biệt về tuổi tác hoặc đã xóa bỏ hoàn toàn tính chất quý tộc đồng thời góp phần hoàn thiện tính chất dân chủ cho Hiến pháp Mỹ.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 27 được để xuất vào ngày 25 Tháng Chín 1789 rồi được thông qua vào cuối Tháng Chín cùng năm đó bởi Nghị viện Mỹ nhưng phải hơn 200 năm sau mới được phê chuẩn vào ngày 07 Tháng Năm 1992 bởi 38 bang cần thiết theo Hiến pháp Mỹ quy định bằng Điều luật V. Bang Michigan là bang thứ 38 phê chuẩn Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 27 nhằm ngăn cản cơ quan lập pháp lạm dụng quyền lực nhà nước vào gia tăng thu nhập cho mình, làm cho cơ quan này phải thỏa thuận với dân chúng mỗi khi muốn gia tăng thu nhập cho mình mà không thể tùy tiện làm việc đó. Việc gia tăng thu nhập cho quan chức chính quyền có vẻ đơn giản hoặc không có ý nghĩa gì về mặt chính trị nhưng thực chất lại có ý nghĩa quan trọng về mặt đó, nếu không có điều luật này thì cơ quan lập pháp có thể tùy tiện bòn rút công quỹ cho riêng mình hoặc tất cả các nhà cầm quyền theo một “cách thức hợp pháp” làm cho nền dân chủ bị xâm hại. Vậy điều luật này có tác dụng ngăn chặn đối với các âm mưu tài chính có thể làm bại hoại nền dân chủ, tức là điều luật này đã củng cố chế độ dân chủ cho nước Mỹ.
Tất cả các điều luật bổ sung sửa đổi được thông qua từ năm 1795 đến năm 1992 đều góp phần quyết định vào việc hoàn thiện nguyên tắc đa nguyên bình đẳng vốn có vai trò quan trọng nhất trong chính thể dân chủ.
Như vậy phiên bản thứ ba hình thành qua một quá trình lâu dài suốt từ năm 1787 đến năm 1992 đã cho thấy rằng dân chủ hình thành rất khó khăn. Cuộc Cách mạng 1776 nhân danh dân chủ nhưng chỉ được thực hiện bằng bạo lực đã không thiết lập được chính thể dân chủ mà chỉ có thể thiết lập được chính thể nửa vời hoặc chính thể quý tộc cho nước Mỹ. Chính thể đó chỉ có nhà nước nửa vời vốn chỉ có thể phải quản lý xã hội bằng cả bạo lực lẫn pháp luật theo đúng cái nguồn gốc đích thực đã phát sinh nhà nước đó, tức là chính cuộc Cách mạng 1776 vốn dĩ phải được chỉ dẫn bằng ý chí hoặc tinh thần dân chủ nhưng chỉ được thực hiện bằng bạo lực. Phải tiếp tục đấu tranh kéo dài bằng ý chí hoặc tinh thần dân chủ qua nhiều năm nữa suốt từ năm 1789 đến năm 1992, nước Mỹ mới thiết lập được đầy đủ chính thể dân chủ cho mình với ý nghĩa đích thực cho khái niệm đó. Chính thể nửa vời hoặc chính thể quý tộc tồn tại ở nước Mỹ từ năm 1789 đến năm 1971 mới tiêu vong. Trong khoảng thời gian đó, xã hội Mỹ có những mâu thuẫn kỳ quặc không thể tưởng tượng nổi đối với hầu hết mọi người trên khắp thế giới: tinh thần dân chủ gia tăng mạnh mẽ tương phản với tình trạng bạo lực gia tăng trầm trọng. Đó có lẽ cũng là một trong nhiều nguyên nhân quan trọng làm cho nước Mỹ bị thất bại đau đớn ở Việt nam cùng với một số nơi khác trên khắp thế giới. Thật ra, nước Mỹ từ năm 1789 đến năm 1971 chưa thật sự dân chủ hoặc chưa có dân chủ đích thực. Nếu không nắm được các nguyên tắc chính trị đồng thời không hình dung được ba loại chính thể khác nhau: chuyên chế, quý tộcdân chủ, cũng như không hiểu được từng chính thế nhất định trong ba chính thể đó (sẽ được trình bày ở phần thứ ba), thì sẽ không thể nào hiểu được tại sao nước Mỹ lại trải qua một giai đoạn bi hùng như thế. Chính trong giai đoạn đó, nước Mỹ đã hạ gục chủ nghĩa fascist (the fascism) nhưng lại thất bại trước chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, nước Mỹ từ năm 1971 đến nay lại hoàn toàn khác hẳn. Nhờ dân chủ hóa triệt để toàn bộ xã hội mà nước Mỹ đã trở nên hùng mạnh hơn bao giờ hết để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong công cuộc dân chủ hóa thế giới. Chính nước Mỹ đã góp phần quyết định làm cho thế giới tự do chiến thắng chủ nghĩa cộng sản ở Âu châu vào thập niên 1990. Nước Mỹ ngày nay xứng đáng được làm người tiên phong trong công cuộc dân chủ hóa thế giới để tự do sẽ đến với mọi người trên khắp thế giới. Nước Mỹ ngày nay đã thăng tiến được tinh thần dân chủ cho cuộc Cách mạng 1776 đồng thời đã loại bỏ được yếu tố tiêu cực cho cuộc cách mạng đó.
Một người da đen như Barack Hussein Obama đắc cử Tổng thống Mỹ vào năm 2008 đã chứng tỏ rằng tinh thần dân chủ đã chiến thắng hoàn toàn ở nước Mỹ, rằng sự bình đẳng chính trị đã trở thành nền tảng chắc chắn cho đời sống chính trị ở nước Mỹ, rằng tự do đã trở thành giá trị phổ quát cho mọi thành phần xã hội ở nước Mỹ. Sự kiện đó không chỉ quan trọng đặc biệt đối với nước Mỹ mà còn quan trọng đặc biệt đối với cả thế giới, nó khơi lên một niềm tin chắc chắn rằng rồi mai đây tinh thần dân chủ sẽ lan tràn khắp thế giới, rằng nhân loại sẽ rũ bỏ hết độc tài, rằng công cuộc dân chủ hoá thế giới sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn. Quan trọng hơn hết, sự kiện đó đã góp phần quan trọng vào việc khắc phục tâm lý tự ty cho các dân tộc yếu hèn nhất trên thế giới để các dân tộc đó có tâm lý tự tôn mà tin tưởng đúng đắn rằng mình cũng có thể vươn lên giành lấy tự do.
Ngày nay, Hiến pháp Mỹ chỉ còn một mâu thuẫn đối kháng giữa nội dung minh bạch với hình thức mù mờ. Về nội dung, Hiến pháp Mỹ đã có đầy đủ ít nhất ba thiết chế cơ bản hợp thành chính thể dân chủ như đã được trình bày chi tiếtphần thứ nhất, chương III. Ba thiết chế đó là: 1/ Quy chế phân lập tam quyền là quy chế chính trị phân chia chính quyền thành ba cơ quan khác nhau hoạt động độc lập với nhau để thực hiện ba thứ quyền lực tương ứng: cơ quan lập pháp thực hiện quyền lực lập pháp, cơ quan hành pháp thực hiện quyền lực hành phápcơ quan tư pháp thực hiện quyền lực tư pháp, quy chế này đòi hỏi ba cơ quan khác nhau phải chế ước lẫn nhau để không cơ quan nào mạnh hơn hoặc yếu hơn cơ quan nào nhằm bảo đảm quyền lực nhà nước luôn luôn thuộc về toàn thể nhân dân. 2/ Nguyên tắc đa nguyên bình đẳng là nguyên tắc chính trị làm chủ chính quyền đòi hỏi mỗi cá nhân nhất định phải chấp nhận nhiều quan điểm khác nhau tương ứng với nhiều lợi ích khác nhau thuộc về nhiều loại người khác nhau cùng tồn tại bình đẳng theo pháp luật, nguyên tắc này thể hiện trực tiếp qua một hệ thống chính trị bao gồm nhiều đảng phái khác nhau cùng tồn tại bình đẳng trước pháp luật để nhân dân làm chủ chính quyền. 3/ Chế độ bầu cử tự do là chế độ chính trị bảo tồn chính quyền bằng bầu cử tự do cho mọi cá nhân đều được tham gia cả việc ứng cử lẫn việc bầu chọn, trong đó việc ứng cử phải tuân thủ quy chế phân lập tam quyền, tức là chỉ được ứng cử vào một trong ba cơ quan khác nhau hợp thành chính quyền để nếu đắc cử thì chỉ nắm được một thứ quyền lực nhất định trong ba thứ quyền lực khác nhau: lập pháp, hành pháptư pháp, nhưng việc bầu chọn lại phải tuân thủ nguyên tắc đa nguyên bình đẳng, tức là mọi cá nhân đều phải được bầu chọn người xứng đáng nhất làm đại diện cho mình để tham gia chính quyền. Ngoài ra, Hiến pháp Mỹ cũng đã quy định rõ ràng cả quyền lẫn nghĩa vụ cho cả nhân dân lẫn chính quyền. Nhưng về hình thức, Hiến pháp Mỹ lại quy định mập mờ các thủ tục bầu cử hết sức rắc rối làm cho người ta rất bối rối khi tiếp cận văn kiện này. Chính cái mâu thuẫn đối kháng giữa nội dung minh bạch với hình thức mù mờ (biểu hiện qua các thủ tục bầu cử) sẽ làm cho Hiến pháp Mỹ chắc chắn phải thay đổi nữa trong tương lai, ít nhất cũng sẽ có sự thay đổi liên quan đến các thủ tục bầu cử, để văn kiện này có thể được tiếp cận dễ dàng bởi hầu hết mọi người trên khắp thế giới!
Amen.

III. NHẬN XÉT KHÁI QUÁT.

A. ĐẠO LUẬT TỐI CAO CỦA ĐẤT NƯỚC.

Hiến pháp bao gồm một lời nói đầu, bảy điều luật gốc, và 27 điều luật bổ sung sửa đổi. Nó thiết lập nên một hệ thống liên bang thông qua việc phân chia quyền lực giữa chính phủ quốc gia với chính quyền bang. Nó cũng lập ra một chính phủ quốc gia cân bằng thông qua việc phân chia quyền lực giữa ba ngành độc lập – hành pháp, lập pháp và tư pháp. Ngành hành pháp, tức là Tổng thống, thực thi luật pháp quốc gia; ngành lập pháp, tức là Quốc hội, đề ra luật quốc gia; và ngành tư pháp, tức là Toà án Tối cao và các tòa án liên bang khác, áp dụng và vận dụng luật khi phán quyết các tranh chấp về pháp lý tại các tòa án liên bang.
Các quyền lực liên bang được nêu trong Hiến pháp bao gồm quyền thu thuế, tuyên bố chiến tranh và điều tiết thương mại giữa các bang và với nước ngoài. Ngoài những quyền đại diện hoặc quyền hạn xác định này (những quyền được nêu trong Hiến pháp), chính phủ quốc gia còn có các quyền ngụ ý (những quyền được hàm ý một cách hợp lý từ các quyền đại diện). Những quyền lực gián tiếp này giúp chính phủ đối phó với những yêu cầu thay đổi của quốc gia. Ví dụ, Quốc hội không có quyền được phân bổ cụ thể nào về in tiền giấy. Nhưng quyền đó được ngụ ý trong các quyền đại diện về vay mượn và đúc tiền.
Trong một số trường hợp, chính quyền quốc gia và chính quyền bang có những quyền trùng lặp nhau – tức là chính quyền cả hai cấp đều có thể hành động. Luật của chính quyền quốc gia sẽ có hiệu lực tối cao trong trường hợp có xung đột. Những quyền mà Hiến pháp không trao cho chính quyền quốc gia hoặc cấm đối với các bang được gọi là quyền dành riêng và thuộc về người dân hoặc các bang. Quyền của bang bao gồm quyền làm luật về ly dị, kết hôn, và các trường công. Quyền dành cho người dân bao gồm quyền sở hữu tài sản và được xét xử bởi một Bồi thẩm Đoàn.
Toà án Tối cao có quyền lực cuối cùng trong vận dụng Hiến pháp. Nó có thể bỏ qua bất kỳ luật nào – của liên bang, bang hoặc địa phương – khi đa số thẩm phán cho rằng luật đó xung đột với bất kỳ nội dung nào của Hiến pháp.
(Trích dẫn từ “Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Mỹ, Tháng Bảy 2004. Bản dịch của Sứ quán Mỹ tại Việt nam”).

B. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP.

James Madison tuyên bố rằng: khi xây dựng một hệ thống mà chúng ta mong muốn sẽ tồn tại trong một thời gian dài, chúng ta không nên bỏ qua những thay đổi trong khoảng thời gian đó”. Hiến pháp được xây dựng để phục vụ lợi ích của người dân – dù giàu hay nghèo, người miền Bắc hay miền Nam, nông dân, công nhân và doanh nhân. Trong suốt nhiều năm, Hiến pháp đã được vận dụng để đáp ứng những nhu cầu thay đổi của Hợp chúng Quốc Mỹ.
Các đại biểu dự Đại hội Lập hiến tin tưởng mạnh mẽ vào sự lãnh đạo của đa số, nhưng họ muốn bảo vệ các nhóm thiểu số chống lại bất kỳ sự bất công nào của đa số. Họ đã đạt được mục đích này thông qua việc phân chia và cân bằng quyền lực của chính phủ quốc gia. Những mục tiêu cơ bản khác của Hiến pháp còn có sự tôn trọng quyền của cá nhân và các bang, nhân dân cầm quyền, sự tách rời giữa nhà thờ với nhà nước, và vị thế tối cao của chính phủ quốc gia.
Hiến pháp đã được sửa đổi 27 lần, trong đó có Tuyên ngôn Về Nhân quyền. Các điều luật bổ sung sửa đổi có thể được đề xuất bởi hai phần ba thành viên trong mỗi viện hoặc một đại hội toàn quốc được triệu tập bởi Quốc hội theo yêu cầu của các cơ quan lập pháp ở hai phần ba số bang. Một điều luật bổ sung sửa đổi trở thành bộ phận của Hiến pháp sau khi được phê chuẩn hoặc bởi cơ quan lập pháp của ba phần tư số bang hoặc bởi các đại hội ở ba phần tư số bang. Quốc hội quyết định nên sử dụng hình thức phê chuẩn nào và thời gian các bang phải xem xét mỗi điều luật bổ sung sửa đổi. Trong nhiều trường hợp, Quốc hội chọn thời hạn bảy năm để xem xét một điều luật bổ sung sửa đổi.
Các đại biểu dự Đại hội Lập hiến biết rằng họ không thể soạn thảo luật cho mọi khả năng tình huống. Do đó, họ trao cho Quốc hội quyền thông qua tất cả các luật “cần thiết và hợp lý” để thực hiện các quyền lực Hiến pháp trao cho Tổng thống, Quốc hội, và các Tòa án Liên bang. Quốc hội đã thông qua luật thành lập những tổ chức hành chính, như Cục Hàng không Liên bang và Cục Bưu điện. Quốc hội cũng đã thông qua luật điều tiết thương mại liên bang, qua đó kiểm soát nhiều khía cạnh của nền kinh tế Mỹ.

PHÁN QUYẾT CỦA TÒA ÁN. Thẩm phán liên bang và bang áp dụng Hiến pháp trong nhiều vụ án. Toà án Tối cao có quyền lực cuối cùng trong việc diễn đạt ý nghĩa của Hiến pháp trong bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Tòa án có quyền xem xét lại về pháp lý – tức là họ có thể tuyên bố một bộ luật nào đó bất hợp hiến. Toà án Tối cao có quyền này nhờ phán quyết của Chánh án John Marshall trong vụ Marbury kiện James Madison năm 1803. Kể từ đó, tòa án đã phán quyết hơn 100 bộ luật liên bang và hàng trăm bộ luật bang là các bộ luật bất hợp hiến.

HÀNH ĐỘNG CỦA TỔNG THỐNG. Những Tổng thống mạnh đã sử dụng quyền lực của mình để mở rộng những ngôn từ đơn giản trong Điều luật II của Hiến pháp thành nguồn quyền lực mạnh mẽ của Tổng thống. Những Tổng thống mạnh như vậy có George Washington, Thomas Jefferson, Andrew Jackson, Abraham Lincoln, Theodore Roosevelt, Woodrow Wilson, Franklin D. Roosevelt, và George W. Bush. Ví dụ, G. Washington đã biến Tổng thống trở thành nhân vật hàng đầu trong lĩnh vực đối ngoại. A. Lincoln đã sử dụng những quyền trong điều luật này để giải phóng nô lệ nổi loạn ở các bang miền Nam trong cuộc Nội chiến 1861 1865.

TẬP QUÁN đã làm cho Hiến pháp trở nên linh hoạt và đã tăng thêm quyền của chính phủ quốc gia. Ví dụ, nội các của Tổng thống đã phát triển từ những nội dung trong Điều luật II cho phép người đứng đầu “yêu cầu đóng góp ý kiến bằng văn bản của cán bộ phụ trách từng bộ phận điều hành, về bất kỳ chủ đề nào liên quan đến nhiệm vụ của từng bộ phận đó”.

HÀNH ĐỘNG CỦA BANG VÀ ĐẢNG PHÁI. Hiến pháp quy định về một phương thức chung để bầu cử Tổng thống. Hiến pháp không đề cập tới các đảng phái chính trị. Nhưng luật của các bang và hoạt động của các đảng phái chính trị đã làm thay đổi hệ thống bầu cử trong Hiến pháp thành những chiến dịch vận động và những cuộc bầu cử thú vị diễn ra ngày nay.
Hiến pháp đã tiếp tục phát triển đáp ứng những yêu cầu của một xã hội ngày càng phát triển thông qua tất cả những phương thức trên. Nhưng tinh thần và nội dung của Hiến pháp vẫn nhất quán. Con người mỗi thế hệ đã vận dụng các điều khoản của Hiến pháp để giải quyết các vấn đề của mình theo những cách có vẻ hợp lý đối với họ.
Chính khách người Anh: William E. Gladstone, đã mô tả Hiến pháp là “tác phẩm tuyệt vời nhất đã từng được sản sinh ra vào một thời điểm nhất định bởi trí óc và mục đích của con người”. Trong một thế giới đổi thay và tranh đấu, nhân dân Mỹ không có tài sản nào quý giá hơn văn kiện vĩ đại này.
(Trích dẫn từ “Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Mỹ, Tháng Bảy 2004. Bản dịch của Sứ quán Mỹ tại Việt nam”).

C. GIÁ TRỊ CỦA HIẾN PHÁP.

Hiến pháp Mỹ ra đời từ năm 1787 đã mang đến cho thế giới một ví dụ đầu tiên về một thể chế cộng hòa liên bang rộng lớn được thành lập trên nguyên tắc đại diện. Mặc dù đây không phải là mô hình đầu tiên được thành lập trên nguyên tắc dân chủ, nhưng Hiến pháp này đã xây dựng nền tảng cho một chính quyền cộng hòa lớn nhất trên thế giới. Bất chấp cuộc nội chiến vĩ đại, bất chấp hai cuộc chiến tranh thế giới, Hiến pháp Mỹ vẫn đứng vững qua thử thách của thời gian và các biến động. Như Tổng thống Abraham Lincoln, người giải phóng chế độ nô lệ ở Mỹ, đã nói: “Những người cha của chúng ta đã mang đến lục địa này một quốc gia mới, công nhận sự tự do và cống hiến cho một mục tiêu cao cả rằng tất cả mọi người được sinh ra đều bình đẳng. Sự thành công của Hội nghị ở Philadelphia chính là việc thiết lập một Hiến pháp để “hình thành một liên minh hoàn hảo hơn, thiết lập sự công bằng, đảm bảo một sự an toàn chung, thúc đẩy sự thịnh vượng chung và bảo đảm tự do cho chính chúng ta và cho sự thịnh vượng của chúng ta”. Năm 1788, Benjamin Franklin nói với một ký giả Pháp rằng mô hình chính quyền mới cũng giống như trò chơi súc sắc, quá nhiều người tham dự với các ý kiến, sở thích và lợi ích rất đa dạng sẽ không thể mang lại kết quả mà không gây tranh cãi. Sau đó, Benjamin Franklin đã viết thư cho những người bạn ở Âu châu: “Tôi gửi tới các bạn bản dự thảo Hiến pháp liên bang mới cho các vùng đất của nước Mỹ Nếu chúng tôi thành công, tôi không hiểu tại sao ở Âu châu, các bạn không thành lập một liên minh bao gồm tất cả các quốc gia và các vương quốc khác nhau …”. Hơn 200 năm sau, một Liên minh Âu châu được hình thành với 15 quốc gia và rồi đây sẽ là một liên bang của 25 quốc gia như ý tưởng của Benjamin Franklin và cũng là mơ ước đã thành hiện thực của rất nhiều người dân Âu châu không phải bởi máubạo lực, mà bằng niềm tin, trí tuệsự đồng lòng của hết thảy mọi người. James Madison từng viết cho Thomas Jefferson rằng sự gắn kết những mối quan tâm trái ngược nhau này thật sự là “một nhiệm vụ khó khăn hơn cả việc thuyết phục những người không hề liên quan gì để họ thực hiện nó”. Khi các đại biểu rời Philadelphia vào lúc kết thúc Hội nghị Lập hiến, nếu có thì cũng chỉ rất ít người tin tưởng vào sự tốt đẹp và sự tồn tại vĩnh hằng của Hiến pháp mà họ vừa soạn thảo. Họ cũng không biết rằng rồi đây, họ sẽ là những nhân vật chính tham gia tích cực vào việc xây dựng một chính quyền mới. Vào cuối đời, James Madison, người cuối cùng trong số 55 người tham gia hội nghị này còn sống, đã viết nguệch ngoạc trong một bức thư mà chưa bao giờ được gửi đi. Trong đó, ông tuyên bố rằng không có chính quyền nào hoàn hảo và “đây chính là mô hình ít khiếm khuyết nhất và do vậy sẽ là chính quyền tốt nhất”. Nhiều sử gia Mỹ gọi thành công đã đạt được ở Hội nghị Lập hiến là “Điều kỳ diệu ở Philadelphia” và ngày nay, Hiến pháp Mỹ cùng với Tuyên ngôn Độc lập được lưu giữ trang nghiêm và cẩn thận tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Mỹ như những tài sản quý báu nhất của nhân dân Mỹ.
(Trích dẫn từ “Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào?” được biên soạn bởi Nguyễn Cảnh Bình. Nhà xuất bản Tri thức, Hà nội 2009, từ trang 53 đến trang 55).

J. B. Hàvăn Huytoàn
(Viêt vào Tháng Mười 2007)

18) Các điều luật bổ sung sửa đổi được thông qua bởi Nghị viện Mỹ trong khoảng thời gian từ năm 1795 đến năm 1992 đã xác lập chắc chắn tính chất dân chủ cho Hiến pháp Mỹ.

KHẢO LUẬN KHOA HỌC VỀ HIẾN PHÁP HOA KỲ (III)


CHƯƠNG V:
PHIÊN BẢN THỨ HAI (PHIÊN BẢN ĐẦU TIÊN KÈM THEO TUYÊN NGÔN VỀ NHÂN QUYỀN VỚI MƯỜI ĐIỀU LUẬT BỔ SUNG SỬA ĐỔI ĐƯỢC THÔNG QUA VÀO NGÀY 15 THÁNG CHẠP 1791).

I. PHIÊN BẢN ĐẦU TIÊN KÈM THEO TUYÊN NGÔN VỀ NHÂN QUYỀN VỚI MƯỜI ĐIỀU LUẬT BỔ SUNG SỬA ĐỔI TỪ NĂM 1789 ĐẾN NĂM 1791.

A. TUYÊN NGÔN V NHÂN QUYỀN.

Những người theo Chủ nghĩa Liên bang có lẽ chẳng bao giờ có được sự phê chuẩn ở một số bang quan trọng nếu như họ không cam kết bổ sung Tuyên ngôn Về Nhân quyền vào Hiến pháp. Hầu hết hiến pháp các bang được thông qua trong Thời kỳ Cách mạng đều có một tuyên bố rõ ràng về quyền của tất cả người dân. Hầu hết người Mỹ tin rằng không hiến pháp nào có thể được coi là hoàn chỉnh nếu không có một tuyên bố như thế. George Mason của bang Virginia chịu trách nhiệm soạn thảo Tuyên ngôn Về Nhân quyền đầu tiên và nổi tiếng nhất của Mỹ, với tên gọi là Tuyên ngôn Về các Quyền Công dân cho bang Virginia năm 1776. Ông và Patrick Henry có thể đã ngăn cản việc phê chuẩn Hiến pháp ở Virginia nếu như những người theo Chủ nghĩa Liên bang không đồng ý với những yêu cầu sửa đổi của họ.
James Madison đã lãnh đạo Quốc hội mới đề xuất các Điều luật Bổ sung Sửa đổi. Ông đề xuất 15 Điều luật Bổ sung Sửa đổi, và Quốc hội đã chấp nhận 12 trong số đó để chuyển cho cơ quan lập pháp các bang phê chuẩn theo quy trình sửa đổi được đề ra trong Điều luật V của Hiến pháp. Đến ngày 15 Tháng Chạp 1791, các cơ quan lập pháp cần thiết ở ba phần tư số bang đã phê chuẩn 10/12 Điều luật Bổ sung Sửa đổi. Mười Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được gọi là Tuyên ngôn Về Nhân quyền. Một trong hai sửa đổi bị bác bỏ là sửa đổi về quy mô của Hạ Nghị viện. Sửa đổi này đòi thay đổi số đại diện từ không quá một đại diện cho 30.000 dân sang không quá một đại diện cho 50.000 dân. Sửa đổi bị bác bỏ còn lại quy định Quốc hội không thể thay đổi lương của các Nghị sỹ cho đến sau khi tổ chức bầu cử các đại diện. Sửa đổi này được phê chuẩn sau đó 202 năm và trở thành Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 27.
Những người chống lại Chủ nghĩa Liên bang chấp nhận thất bại khi thấy Hiến pháp được thông qua, và sau đó họ chủ trương giành quyền lực theo những quy định của Hiến pháp. Những hành động của họ tạo nên một đặc thù chưa bao giờ thay đổi trong chính trị Mỹ. Người Mỹ đôi khi cảm thấy bất mãn với chính sách và hành động của những người cầm quyền. Nhưng hầu như không có người Mỹ nào lên án hệ thống hiến pháp hoặc cảm thấy rằng một Đại hội Lập hiến thứ Hai có lẽ sẽ tạo nên một hiến pháp tốt hơn.
(Trích dẫn từ “Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Mỹ, Tháng Bảy 2004. Bản dịch của Sứ quán Mỹ tại Việt nam”).

B. TUYÊN NGÔN V NHÂN QUYỀN VỚI MƯỜI ĐIỀU LUẬT BỔ SUNG SỬA ĐỔI.

Tuyên ngôn Về Nhân quyền với mười điều luật bổ sung sửa đổi được đề xuất vào ngày 25 Tháng Chín 1789 rồi được phê chuẩn vào ngày 15 Tháng Chạp 1791. Ban đầu, các Điều luật Bổ sung Sửa đổi chỉ hạn chế Chính phủ Liên bang. Nhưng Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 14 tuyên bố rằng không bang nào có thể tước đoạt cuộc sống, quyền tự do, hoặc tài sản của bất kỳ ai mà không thông qua “quy trình pháp lý phù hợp”. Toà án Tối cao đã diễn đạt những từ này có nghĩa là hầu hết Tuyên ngôn Về Nhân quyền được áp dụng để giới hạn quyền của các bang cũng như của các chính quyền địa phương.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 1
TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ BÁO CHÍ; QUYỀN HỘI HỌP VÀ  KIẾN NGHỊ
Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình.
CHÚ THÍCH:
Nhiều quốc gia chỉ có một tôn giáo và một nhà thờ chính thống (chính thức) và hỗ trợ bằng ngân quỹ của chính phủ. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này nghiêm cấm Quốc hội thành lập hoặc bằng bất cứ cách thức nào khác hỗ trợ cho một nhà thờ chính thống như vậy. Quy định này được giải thích là cấm chính phủ tán thành hoặc hỗ trợ cho các học thuyết tôn giáo. Ngoài ra, Quốc hội có thể không thông qua các đạo luật hạn chế việc thờ cúng, ngôn luận hoặc báo chí, hoặc ngăn cản nhân dân hội họp một cách hòa bình. Quốc hội cũng không được ngăn cản nhân dân yêu cầu chính phủ bồi thường do những đối xử bất công. Toà án Tối cao giải thích Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 14 áp dụng Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ nhất đối với các bang cũng như đối với chính phủ liên bang.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 2
QUYỀN MANG VŨ KHÍ
Xét thấy lực lượng dự bị có tổ chức nghiêm chỉnh là rất cần thiết cho nền an ninh của một quốc gia tự do, quyền của dân chúng được giữ và sử dụng vũ khí sẽ không bị vi phạm.
CHÚ THÍCH:
Sửa đổi này được giải thích theo hai cách. Một số người tin rằng nó cho phép các công dân bình thường quyền sở hữu các loại vũ khí. Những người khác cho rằng nó chỉ cho phép các bang quyền được duy trì quân đội riêng của họ.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 3
NƠI Ở CỦA BINH LÍNH
Không một quân nhân nào trong thời bình được đóng quân trong bất cứ nhà dân nào nếu không được sự đồng ý của chủ nhà, và ngay trong thời chiến cũng chỉ theo quy định của luật pháp.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này phát sinh trực tiếp từ một vụ kiện cũ chống lại người Anh khi bắt buộc nhân dân phải nhận binh lính vào ở trong nhà của họ.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 4
LỆNH TRUY NÃ VÀ BẮT GIỮ
Quyền của con người được bảo đảm về cá nhân, nhà cửa, giấy tờ và tài sản khỏi mọi sự khám xét và bắt giam, quyền này sẽ không được vi phạm. Không một lệnh, trát nào được cấp nếu không có lý do xác đáng căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận, đặc biệt cần miêu tả chính xác địa điểm khám xét, người và đồ vật bắt giữ.
CHÚ THÍCH:
Biện pháp này không ngăn cấm các nhà chức trách pháp lý truy nã, thu giữ hàng hóa hoặc bắt giữ người. Nó chỉ yêu cầu đơn giản rằng trong hầu hết các trường hợp các nhà chức trách phải có lệnh truy nã của tòa án khi chứng minh được yêu cầu cần thiết phải có lệnh này. Toà án Tối cao quy định rằng các bằng chứng có được do vi phạm Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 4 sẽ không được coi là bằng chứng trong phiên tòa xét xử tội phạm.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 5
QUYỀN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
Không một ai bị buộc phải chịu trách nhiệm về một tội nghiêm trọng hoặc một tội xấu xa khác nếu không có sự tường trình và cáo trạng của Bồi thẩm Đoàn, trừ những trường hợp xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc trong lực lượng dự bị, khi đang thi hành công vụ trong thời chiến hoặc trong tình trạng xã hội gặp hiểm nguy. Không một ai sẽ bị kết án hai lần về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng và thân thể; không một ai bị ép buộc phải làm chứng chống lại bản thân mình trong một vụ án hình sự và bị tước đoạt sinh mạng, tự do hoặc tài sản, nếu không qua một quá trình xét xử theo đúng luật; không một tài sản tư hữu nào bị trưng dụng vào việc công mà không được bồi thường thích đáng.
CHÚ THÍCH:
Một tội phạm tử hình là một người bị trừng phạt bằng cái chết. Một tội phạm bị tước quyền công dân là một người có thể bị trừng phạt bằng cái chết hoặc tống giam. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này bảo đảm rằng không ai phải hầu tòa với tư cách là tội phạm liên bang như vậy trừ khi một Bồi thẩm Đoàn đã kết tội (buộc tội) ông ta hoặc bà ta. Bồi thẩm Đoàn là một nhóm người đặc biệt được lựa chọn để quyết định xem có đủ bằng chứng chống lại một người đang bị kiện hay không. Một người không thể bị đe dọa hai lần (xét xử hai lần) cho cùng một tội bởi cùng một chính phủ. Tuy nhiên họ có thể bị xét xử lần thứ hai nếu Bồi thẩm Đoàn không thể nhất trí về lời tuyên án, nếu vụ án bị coi là sai vì một số lý do, hoặc nếu họ yêu cầu một phiên tòa xét xử mới. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này cũng bảo đảm rằng một người không thể bị buộc phải làm chứng chống lại chính mình.
Điều khoản về quy trình tố tụng đúng, tuyên bố rằng không một người nào bị tước đi cuộc sống, tự do hoặc tài sản mà không có “một tiến trình tố tụng đúng” là một trong những điều khoản quan trọng nhất của Hiến pháp. Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 14 giữ nguyên các cụm từ này nhằm hạn chế quyền hạn của các bang. Cụm từ này phản ánh ý tưởng cho rằng cuộc sống, tự do hoặc tài sản của một người không phải phụ thuộc hoàn toàn vào nhiệm ý của các quan chức chính phủ. Ý tưởng này có nguồn gốc từ Magna Carta, quy định rằng quốc vương Anh không thể bắt giam hoặc làm hại một người “trừ khi do phán quyết theo luật pháp của các Thượng Nghị sỹ hoặc theo luật của đất nước”.
Toà án Tối cao đã áp dụng điều khoản về quy trình tố tụng đúng – đây là một khoản trong Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 14 hạn chế quyền hạn của các bang – trong nhiều tình huống khác nhau. Cho đến giữa thế kỷ XIX, tòa án đã sử dụng điều khoản về quy trình tố tụng đúng để chống lại các điều luật ngăn cản nhân dân sử dụng tài sản của họ theo ý muốn. Ngày nay, tòa án sử dụng điều khoản về quy trình tố tụng đúng để chống lại các điều luật can thiệp vào quyền tự do cá nhân.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này cũng nghiêm cấm chính phủ lấy tài sản của cá nhân kể cả vì mục đích công mà không có khoản đền bù xứng đáng. Quyền lấy tài sản cá nhân sử dụng cho mục đích công của chính phủ được gọi là quyền sung công tài sản. Các chính phủ sử dụng nó nhằm đòi đất tư để xây dựng quốc lộ, trường học và các cơ sở hạ tầng công cộng khác, tuy nhiên họ phải trả cho chủ sở hữu đất một khoản đền bù công bằng.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 6
QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG
Trong mọi trường hợp truy tố hình sự, bị cáo có quyền được xét xử một cách nhanh chóng và công khai bởi một Bồi thẩm Đoàn công bằng của bang hoặc khu vực nơi tội trạng xảy ra, nơi đã được pháp luật chỉ định trước; bị cáo phải được thông báo về tính chất và lý do buộc tội, được đối chất với các nhân chứng chống lại mình, được quyền triệu tập những nhân chứng để biện minh và được sự giúp đỡ của luật sư bào chữa.
CHÚ THÍCH:
Một người bị buộc tội phải được xét xử công khai và thích hợp bởi một Bồi thẩm Đoàn vô tư không thành kiến. Yêu cầu có một phiên tòa công khai và nhanh chóng nảy sinh từ một thực tế là một vài vụ án chính trị ở Anh đã bị trì hoãn trong nhiều năm và sau đó được tổ chức xét xử bí mật. Những người bị buộc tội phải được thông báo về lời buộc tội chống lại họ và phải được phép gặp trực tiếp các nhân chứng chống lại họ. Nếu không thì những người vô tội có thể bị trừng phạt nếu tòa án cho phép sử dụng lời khai của các nhân chứng vô danh làm bằng chứng. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này bảo đảm rằng các cá nhân bị xét xử có thể gặp mặt và kiểm tra chéo những người buộc tội họ. Cuối cùng, những người bị buộc tội phải có một luật sư bảo vệ cho họ nếu họ mong muốn như vậy. Nếu một bị đơn hình sự không thể thuê luật sư thì Toà án Tối cao quy định phải chỉ định một luật sư đại diện cho người bị buộc tội.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 7
QUYỀN TRONG CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
Trong những vụ kiện tụng theo thông luật, nếu giá trị tranh chấp quá 20 đôla, thì quyền được xét xử bởi Bồi thẩm Đoàn sẽ được tôn trọng và không một vụ việc nào đã được xét xử bởi Bồi thẩm Đoàn lại phải được xem xét lại lần nữa ở bất cứ tòa án nào của Mỹ, mà phải căn cứ theo các quy tắc của thông luật.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 6 yêu cầu các vụ án hình sự phải được xử án có hội thẩm. Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 7 yêu cầu tương tự cho các vụ án dân sự nếu chi phí xử án lớn hơn 20 đô–la Mỹ. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này chỉ áp dụng cho các tòa án liên bang. Tuy nhiên, hầu hết hiến pháp của các bang đều yêu cầu xét xử có hội thẩm cho các vụ kiện dân sự cũng như hình sự.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 8
TIỀN BẢO LÃNH, TIỀN PHẠT VÀ HÌNH PHẠT
Không đòi hỏi những khoản tiền bảo lãnh quá cao, không áp đặt những khoản tiền phạt quá mức và không áp dụng những hình phạt dã man và khác thường.
CHÚ THÍCH:
Tiền bảo lãnh, tiền phạt và hình phạt phải công bằng và nhân đạo. Trong vụ Furman kiện Georgia vào năm 1972, Toà án Tối cao đã quy định rằng án tử hình, hình phạt sau đó đã thực hiện, đã vi phạm Điều luật Bổ sung Sửa đổi này. Tòa án cho rằng án phạt tử hình là hình phạt tàn nhẫn và bất thường do nó không được áp dụng công bằng và thống nhất. Sau quyết định đó, nhiều bang đã thông qua điều luật mới về hình phạt tử hình được xây dựng nhằm phù hợp với sự phản đối của Toà án Tối cao. Tòa án quy định rằng án tử hình có thể được thực hiện trong các trường hợp tử hình nếu áp dụng một số tiêu chuẩn nhất định để tránh áp dụng án tử hình một cách tuỳ tiện và thất thường.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 9
QUYỀN CỦA NHÂN DÂN
Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hoặc hạ thấp những quyền khác của người dân.
CHÚ THÍCH:
Một số người lo sợ rằng việc liệt kê các quyền trong Tuyên ngôn Về Nhân quyền sẽ được giải thích rằng các quyền khác không được liệt kê sẽ không được bảo vệ. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được thông qua nhằm ngăn cản các giải thích sai lầm như vậy.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 10
QUYỀN CỦA CÁC BANG VÀ CỦA NHÂN DÂN
Những quyền lực không được Hiến pháp trao cho Liên bang và không bị ngăn cấm đối với các bang, thì thuộc về các bang cụ thể hoặc nhân dân.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được thông qua nhằm cam đoan rằng chính phủ quốc gia sẽ không nuốt chửng các bang. Nó xác nhận rằng các bang hoặc nhân dân có tất cả các quyền lợi mà chính phủ quốc gia không có. Ví dụ, các bang có quyền quản lý các vấn đề như kết hôn và ly dị.
(Trích dẫn từ “Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Mỹ, Tháng Bảy 2004. Bản dịch của Sứ quán Mỹ tại Việt nam”).

II. GIẢI QUYẾT MỘT SỐ MÂU THUẪN ĐỐI KHÁNG TRONG PHIÊN BẢN ĐẦU TIÊN.

Tuyên ngôn Về Nhân quyền đã xác lập được các quyền chính trị cho mọi cá nhân để mọi cá nhân đều có thể làm chủ chính quyền. Trong các quyền đó phải kể đến các quyền cơ bản, như tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do kiến nghị, và quyền mang vũ khí, để nhân dân có được các phương tiện cần thiết làm đối trọng với chính quyền vốn có quyền lực nhà nước rất mạnh mẽ trong tay, nếu không có các quyền đó thì nhân dân có thể bị nghiền nát vào bất cứ lúc nào bởi một chính quyền mạnh mẽ như vậy 17). Dựa vào các quyền đó, người Mỹ đã diễn dịch các quyền đó thành nhiều quyền khác nhau, trong đó có quyền quan trọng nhất là quyền thiết lập hoặc bảo tồn các đảng phái chính trị làm nền tảng chắc chắn nhất cho chế độ dân chủ.
Do hình thành từ một bối cảnh đặc biệt nên Hiến pháp Mỹ nhất thiết phải có Tuyên ngôn Về Nhân quyền làm cơ sở pháp lý cho nguyên tắc đa nguyên bình đẳng mới bảo đảm cho hiến pháp thật sự có giá trị dân chủ. Nói như vậy không có nghĩa là khẳng định rằng một hiến pháp thật sự có giá trị dân chủ cần phải có Tuyên ngôn Về Nhân quyền. Trái lại, một hiến pháp thật sự có giá trị dân chủ phải quy định rõ ràng ngay từ đầu cả quyền lẫn nghĩa vụ cho mọi cá nhân rồi trên cơ sở đó sẽ quy định cả quyền lẫn nghĩa vụ cho chính quyền. Nếu cứ đòi hỏi phải có Tuyên ngôn Về Nhân quyền thì chẳng qua chỉ học đòi hoặc dập khuôn nước Mỹ mà thôi. Thế giới ngày nay có nhiều hiến pháp thật sự dân chủ nhưng không cần Tuyên ngôn Về Nhân quyền. Chẳng qua nước Mỹ đi tiên phong chưa có kinh nghiệm khoa học về lập hiến mới phải đi vòng vèo như vậy qua Tuyên ngôn Về Nhân quyền.

III. CÁC MÂU THUẪN ĐỐI KHÁNG TRONG PHIÊN BẢN THỨ HAI.

     Tuyên ngôn Về Nhân quyền đã loại bỏ hết các yếu tố chuyên chế hoặc tính chất độc đoán trong chính quyền nhưng vẫn còn giữ nguyên các yếu tố nửa vời hoặc tính chất quý tộc cho chính quyền thể hiện trần trụi qua Đại Cử tri, quyền bầu cử, Thượng Nghị việntình trạng nô lệ cho người da màu như đã được trình bày ở chương IV, mục III, tiểu mục B, tiết 2 với cả ba đề mục (a, bc), qua đó mà vẫn bảo tồn ngấm ngầm quyền lực chuyên chế cho giai cấp tư sản đối với tất cả các giai cấp khác trong xã hội Mỹ. Nói cho đúng hơn, Tuyên ngôn Về Nhân quyền đã ngăn chặn được quyền lực chuyên chế cho chính quyền đối với đa số người dân nhưng vẫn chưa xóa bỏ được quyền lực chuyên chế cho các nhà giàu da trắng đối với tất cả các thành phần khác trong xã hội Mỹ. Đó là nguyên nhân sâu xa nhất đã làm phát sinh nhiều cuộc đấu tranh chính trị vừa phức tạp vừa dữ dội trong suốt thế kỷ XIX mà điển hình nhất thuộc về cuộc Nội chiến từ năm 1861 đến năm 1865.



J. B. Hàvăn Huytoàn
(Viêt vào Tháng Bảy 2007)


17) Tuyên ngôn Về Nhân quyền đã xác lập được nguyên tắc đa nguyên bình đẳng làm nền tảng chính trị cho chính thể dân chủ vốn được lấy làm mục đích chân chính cho Hiến pháp Mỹ.