Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Tư duy về Dân trí


Khai dân trí hay Chấn hưng dân trí?

Mới đây trang mạng Bauxite đã lặng lẽ thay “logo” của mình, thay vì bức hình tướng Giáp là hình Chí sĩ Phan Châu Trinh. Đó (với tôi) là tín hiệu đáng mừng về dân trí, vì tôi vào trang đó thường xuyên và điều phản cảm đầu tiên duy nhất lâu nay với tôi chính là cái “logo” cũ của họ. Đó là sự tiến bộ rõ ràng trong quan điểm của những trí thức chủ trang báo mạng, thể hiện mức độ dân trí ở tầm cao mới. Hơn nữa, Bauxite VN còn mở chuyên mục “Chấn hưng dân trí” (tự coi là tổng hợp của cả ba phần trong con đường dân trí của Phan Châu Trinh) và bắt đầu đăng tải các bài viết/phỏng vấn của nhiều trí thức có tên tuổi về đề tài này.

Từ nay, có thể tạm hiểu, khẩu hiệu chính thức của Bauxite VN sẽ là theo tinh thần Duy Tân do các Cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp và Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng từ hơn thế kỷ trước (1904-1908): “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. 

Nhưng nên hiểu thế nào về tên chuyên mục “Chấn hưng dân trí” của BVN và về tuyên ngôn - con đường dân trí trên của Cụ Phan Châu Trinh? Chúng có là một như BVN “tổng hợp”? 

Thế nào là “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”? Và tại sao Cụ Phan bắt đầu từ “Khai dân trí”?
Tại sao nay hậu sinh lại chủ trương bắt đầu từ “Chấn hưng dân trí”, chứ không phải “Khai dân trí” rồi mới có “Chấn (hưng) dân khí”? Có phải hậu sinh của cụ Phan hơn trăm năm sau đã vượt Cụ và “đi tắt đón đầu” với chủ trương “Chấn hưng dân trí”? Tại sao ghép động tác “chấn hưng” vốn cụ Phan dành cho khái niệm “dân khí” ở vế giữa vào đối tượng/khái niệm “dân trí” ở vế trước, và bỏ hẳn vế sau là “hậu dân sinh”?

Đó là những câu hỏi tư duy về dân trí mà tôi mạo muộn đặt ra muốn tìm câu trả lời trong bài viết này.

Con đường Dân trí của cụ Phan Châu Trinh

Dân trí là khái niệm cơ bản đầu tiên, từ thời Cụ Phan nêu ra, ai cũng dùng và nói đến thường xuyên không cần định nghĩa, nhưng các trí thức hiện nay vẫn còn rất mù mờ và chưa nhất trí với nhau về nó. Nhiều người đơn giản cho dân trí là tri thức (trung bình) của xã hội và nhiều người phản đối (như bài “Bàn về dân trí” của Huỳnh Thục Vy, và tôi cơ bản đồng ý với Thục Vy). Nhiều người nhấn mạnh dân trí là đạo đức xã hội hay đạo đức người lao động (như bài viết của Vũ Cao Đàm trên BVN), và rất nhiều người không định nghĩa dân trí là gì nhưng coi dân trí là điều kiện cần và đủ để xã hội có dân chủ - điển hình là các trí thức cộng sản (như ông Nguyễn Trung trong bài mở đầu chuyên mục “Chấn hưng dân trí” của BVN: Hãy bắt đầu từ suy nghĩ), để rồi qui trách nhiệm về dân trí thấp hoàn toàn do dân (một đại biểu Cuốc hội CS khóa 12 mà tôi không nhớ tên) hay do cả dân và quan như nhau 50/50 (ông Nguyễn Trung, trong bài “Chấn hưng dân trí...” trên)...

Hãy xem lại Cụ Phan - người Việt Nam đầu tiên có và truyền bá tư tưởng dân chủ, đã gián tiếp định nghĩa dân trí là gì thông qua việc xác định con đường Khai dân trí của Cụ từ hơn một thế kỷ trước.

Cụ Phan Châu Trinh giải thích “khai dân trí” là giáo dục theo cách học mới (là bỏ Nho học và theo Tây học - cũng chính là thoát Trung) cho toàn dân về ý thức công dân, về tinh thần tự do của từng người dân, là xây dựng các cá nhân công dân có tinh thần độc lập tự chủ, và là phổ biến quảng bá (để dân học hỏi và áp dụng) văn minh phương Tây với tam quyền (pháp quyền, nhân quyền và dân quyền) và với tư tưởng Tự do-Bình đẳng-Bác ái. Như vậy, “khai” là giáo dục phổ quát, là khai mở, khai thông cái học mới, là giải thoát, là tạo điều kiện thúc đẩy... dân trí. Còn dân trí ở đây không phải các vấn đề đạo đức hay kiến thức cụ thể, mà là tinh thần và tư tưởng của mỗi người về quyền con người, về trách nhiệm công dân và quyền công dân, về tổ chức xã hội của các công dân tự do-bình đẳng-bác ái... dựa trên hệ thống tam quyền: pháp quyền-nhân quyền-dân quyền.

Cụ Phan nói rõ cách khai dân trí là công khai, ôn hòa (bất bạo động), là hợp tác rộng khắp trong mọi giai tầng xã hội. Và Cụ gọi đó là chủ thuyết hay chủ nghĩa dân trị, đối lập với quân trị. Với nội dung trên thì chủ thuyết dân trí của Cụ Phan Châu Trinh chính là tư tưởng và mục đích của một xã hội dân chủ hiện nay, vì dân trí như Cụ Phan chủ trương khai mở và nâng cao, chính là để toàn dân được làm chủ cuộc sống và xã hội một cách tự do (theo nhân quyền) công bằng (theo pháp quyền) và bác ái (theo dân quyền). Đó chính là tinh thần dân chủ, là nội dung dân chủ.

Tác phẩm cuối cùng cụ viết và giảng tháng 11 năm 1925 tại Sài Gòn là “Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa” mà ở đó Dân trị chính là Pháp trị, là Dân chủ. 

Cụ Phan đã không nói gì, hay không nói gì nhiều, không có gì lưu truyền lại, về “Chấn dân khí” và “Hậu dân sinh” cả, trong khi Cụ nói nhiều nói rõ chi tiết và dồn toàn sinh lực cuối đời của mình vào việc “Khai dân trí”. Tại sao thế?

Có phải tại vì Cụ biết, nếu Khai được Dân trí (theo nội dung và tinh thần, phương cách dân chủ như Cụ đã vạch ra) thì Dân khí tự khắc sẽ được sinh ra và được chấn hưng, và khi Dân khí được chấn hưng thì Dân sinh tự động sẽ được hậu phát? Bởi vì, theo Qui luật Hiển hiện của Vũ trụ và Tự nhiên (The Law of Manifestation) thì: Trí sinh ra Khí, Khí sinh ra Hành động, Hành động là cầu nối mang lại Kết quả vật chất, hay: Tinh thần sinh ra Vật chất. 

Nói cách khác, Dân trí (tư tưởng, tinh thần) được khai mở, được nâng cao làm Dân khí (niềm tin, cảm xúc, tình cảm dân tộc, xã hội) phát triển mạnh mẽ, Dân khí cao sinh ra Hành động có kết quả cao làm Dân sinh (đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần... của dân tộc, xã hội) được nâng cao (hậu hĩnh). Đó là một quá trình tự nhiên và tự động theo Qui luật nhân quả và qui luật Tinh thần sinh ra Vật chất của Tự nhiên mà Con người chỉ cần khởi động và vận hành đúng điểm xuất phát: Tinh thần của Người dân chủ (trong xã hội Dân trị, dân chủ), đó là Khai Dân trí.

Vậy Dân trí là mức độ ý thức và tinh thần làm chủ cuộc sống của mình và tham gia làm chủ xã hội của công dân (bằng pháp quyền) và có tránh nhiệm tự chủ (bằn dân quyền) trên cơ sở quyền công dân của mỗi người được đảm bảo (nhân quyền).

Chính vì thế, việc nói nhiều về Chấn dân khí và Hậu dân sinh là không cần thiết vì nó là kết quả tất yếu của Khai dân trí, tất nhiên, sau khi đã tập trung đủ toàn lực vào việc Khai dân trí đó. 

Nếu đồng ý như thế, thì chúng ta thấy khẩu hiệu “Chấn hưng dân trí” là sự chắp vá không logic của những khái niệm khác nhau do những người không hiểu đúng và hết tinh thần, nội dung khẩu hiệu “Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh” của Cụ Phan Châu Trinh, mà lại hay thích “sáng tạo cộng sản” “đi tắt đón đầu” hay “tổng hợp cả ba”!

Như thế cũng có nghĩa dân trí không thể chấn hưng, mà chỉ có thể khai mở, bằng giáo dục mới (giáo dục tinh thần văn minh dân chủ). Còn dân khí thì không thể khai và chỉ có thể được chấn hưng, nhưng đó là quá trình chấn hưng tự động, sau khi và trong khi dân trí được khai mở. Và nếu muốn dân khí được chấn hưng khác đi và cao hơn nữa thì cần phải khai thông dân trí khác đi và ở mức độ sâu rộng hơn nữa, chứ không phải làm các động tác “chấn hưng” cụ thể vào dân khí – điều Phan Châu Trinh không hề nói đến.

Như vậy, muốn nâng cao dân trí thì phải bắt đầu từ đâu? Chỉ có thể từ việc Khai dân trí, không thể từ việc “chấn hưng dân trí”, hay thậm chí từ Chấn dân khí và từHậu dân sinh.

Ai có thể và có trách nhiệm Khai dân trí?

Như định nghĩa Khai dân trí của Cụ Phan, thì Khai dân trí có thể gói gọn là giáo dục tư tưởng và tinh thần dân chủ cho công dân. Mà việc đó từ ngày đảng CSVN cai trị, tức 70 hay 40 năm nay, thì chỉ có họ độc quyền làm việc giáo dục tư tưởngđó. Và tư tưởng, tinh thần duy nhất mà họ ra sức “giáo dục” bằng họng súng và lừa bịp là tư tưởng cộng sản và tinh thần bán nước theo đạo đức Hồ Tàu! Họ đè ép đưa tư tưởng cộng sản và đạo đức Hồ tàu vào chương trình giáo dục bắt buộc ở mọi cấp trường học và mọi đoàn thể, cơ quan trong xã hội, từ nhà trẻ vỡ lòng đến sinh hoạt của các cụ phụ lão… Còn những nội dung của giáo dục kiến thức phổ quát, đạo đức xã hội và văn hóa dân tộc thì họ chỉ làm qua loa, giả dối. Việc giáo dục dân trí với nội dung cụ Phan đề xướng từ đầu thế kỷ trước thì họ cấm tiệt. Đó chính là lý do mà dân trí nước Việt từ 1945 và 1975 đến nay chỉ có cắm đầu đi xuống thảm hại, vì tư tưởng cộng sản và tinh thần bán nước là hố đen dân trí, khiến dân trí Việt Nam đang rơi thẳng đến nguy cơ xóa nhòa hình ảnh dân tộc Việt trong bùn đen nô lệ Tàu!

Thế mà những kẻ như Nguyễn Trung còn dám nói dân trí thấp là một nửa do dân một nửa do quan (cộng sản), tưởng là quan CS “tự nhận một phần trách nhiệm”, nhưng vẫn là cố tình đánh lận con đen!

Để kết thúc bài này về tư duy về dân trí, tôi xin nói rõ quan điểm của tôi về dân trí Việt hôm nay, đó là, dân trí Việt Nam hiện nay thấp hơn năm 1945 và 1975 dù hiện nay CSVN đã “đào tạo” ra trên 23,000 “tiến sĩ” các loại và đã phong hàm cho trên 9,000 “giáo sư” các giống… Có nghĩa là, ở VN, mức độ dân trí luôn chắc chắn đi xuống theo tỷ lệ nghịch với số giáo sư tiến sĩ của cộng sản đi lên như bắp nổ. Nhưng trách nhiệm cho tình trạng dân trí thấp của VN không chỉ là do 9,000 và 23,000 “hạt bắp nổ” đó, mà do những kẻ rang bắp phải chịu hoàn toàn, đó là đảng CSVN. Tại sao tôi nói vậy? Bởi vì 90 triệu người Việt hôm nay có ít ý thức về quyền công dân của mình hơn 30 triệu dân Việt có ý thức về dân chủ nhiều. Và vì 90 triệu dân hôm nay sợ các đảng viên CSVN gấp nhiều lần 30 triệu người Việt năm xưa sợ đội quân xâm lược thực dân và đô hộ của Pháp. Chính đội quân Pháp ấy đã đạy Cụ Phan về tự do, Bình đẳng và bắc ái, về pháp quyền, nhân quyền, dân quyền... những cái mà đảng CSVN hiện đã và đang cướp đi của 90 triệu dân Việt hôm nay.

Vì thế tôi nói, con đường Khai dân trí như Cụ Phan Châu Trinh khởi xướng từ hơn 108 năm trước để có Dân chủ cho Việt Nam, vẫn đang bị đóng kín hoàn toàn (và còn tàn bạo hơn nhiều cách Pháp đã ngăn trở khi Cụ Phan còn sống), trừ trên mạng. Và chỉ có một cơ hội duy nhất để Con đường Dân trí đó lại mở ra cho dân tộc, đó là chỉ sau khi đảng CSVN và thể chế của nó sụp đổ hoàn toàn trên đất nước này. Tôi không nhìn thấy con đường nào khác - vì làm sao nâng cao dân trí khi giáo dục dân trí đã và đang bị cấm và đánh tráo thành ngu dân bằng lừa bịp và súng đạn hoàn toàn?

Nhưng tôi cũng nhìn thấy rằng ngày Con đường đó hiện ra còn không xa nữa, rất gần! Niềm tin đó chính là bậc thang để tôi bước chân lên con đường Dân chủ mà Cụ Phan đã vạch ra: Khai dân trí...

Niềm tin vào Dân chủ và Con đường Khai dân trí của Cụ Phan là lý do tôi là tôi trên những trang mạng Dân chủ này hôm nay - một Phan Châu Thành nguyện theo tư tưởng dân chủ của Cụ Phan Châu Trinh chỉ ra từ 108 năm trước. Tất nhiên tôi không hề đơn độc. Tôi có rất nhiều và ngày càng nhiều bạn đồng hành, đồng chí hướng!


http://danlambaovn.blogspot.com/2014/11/tu-duy-ve-dan-tri.html

Cơ quan tuyên truyền bị tâm thần nặng

Tuyên giáo CSVN mắc bệnh tâm thần nặng

Phạm Trần (Danlambao) - Quân đội Nhân dân của đảng Cộng sản kỷ niệm 70 năm thành lập (22/12/1944 - 22/12/2014) là chuyện bình thường, nhưng Ban Tuyên giáo Trung ương do Ủy viên Bộ Chính trị Đinh Thế Huynh đứng đầu đãngụy tạo thành tích cho là cờ Đỏ Sao Vàng để tuyên truyền và che giấu tội ác của quân đội CSVN đã gây cho nhân dân miền Nam trong 20 năm chiến tranh.

Tất cả những việc này đã thể hiện trong “Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam” ngày 07/11/2014 nhằm mục đích đề cao vai trò bảo vệ đảng, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân của Quân đội qua các thời kỳ lịch sử, nhưng lại không dám nói đến những thành tích chống Tàu cộng trong hai cuộc chiến biên giới 1979-1989, cuộc chiến ở Trường Sa tháng 3/1988 và làm ngơ chủ quyền biển đảo.

Chuyện lá cờ ngày 30-4-1975 

Trước hết, khi nói về biến cố ngày 30/04/1975 tại Dinh Độc Lập ở Sài Gòn, Đề cương viết: “5 giờ sáng ngày 30/4/1975, quân ta mở đợt tiến công cuối cùng. Vào lúc 10 giờ 45 phút, phân đội xe tăng thọc sâu của Quân đoàn 2 tiến vào dinh Độc Lập. Quân ta bắt toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ Tổ quốc tung bay trước tòa nhà chính của dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút.”

Nhưng “Cờ Tổ quốc” nào? 


Riêng chuyện nhỏ bé này thôi cũng đủ để vạch ra tính ngụy tạo lịch sử của Chính phủ Cộng sản miền Bắc mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với cái gọi là “quân đội giải phóng” ở miền Nam Việt Nam sau Hiệp định đình chiến Geneve 1954 chia đôi đất nước. 

Theo Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thời Tổng thống Ngô Đình Diệm thì có khoảng 35000 quân đội chính quy của Cộng sản vẫn ở lại miền Nam sau Hiệp định Geneve, nhưng không có tài liệu nào xác minh số quân thật sự của miền Bắc đã rời miền Nam. 

Theo bài viết của Lê Liên (Phòng GDCC, Bảo tàng Lịch sử quốc gia) ngày 31/10/2014 nhân kỷ niệm “60 năm ngày tập kết ra Bắc - Cuộc chuyển quân lịch sử” (1954-2014) thì: 

“Trong điều khoản của Hiệp định Genève đã quy định lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời để lực lượng hai bên tập kết, quân đội nhân dân Việt Nam tập kết ra phía Bắc, quân đội liên hiệp Pháp ở phía Nam. Giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, không có giá trị ranh giới hay lãnh thổ.

Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã có quyết định mang tầm chiến lược là đưa một số lượng không nhỏ con em cán bộ, chiến sĩ, đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc để tiếp tục học tập, nhằm đào tạo lực lượng cán bộ cho sự nghiệp cách mạng lâu dài của Đảng. Đợt chuyển quân tập kết ra Bắc này đã bắt đầu từ ngày 06/10/1954 và kết thúc 29/10/1954. Đây không chỉ là đợt chuyển quân thông thường mà còn là đợt chuyển quân mang trong đó những chủ trương, chính sách về quản lý, đãi ngộ, sử dụng và bồi dưỡng - đào tạo một đội ngũ cán bộ, chiến sĩ vừa góp phần cho công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam sau này.”

Nhưng thành phần nào đã ra Bắc và người nào ở lại miền Nam? 

Lê Liên tiết lộ: 

“Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, chỉ tập kết lực lượng quân sự, vì vậy để hợp lý hóa,cán bộ, học sinh và con em gia đình cách mạng đều phải mang quân trang, quân phục khi xuống tàu ra Bắc. Hiệp định cũng đã quy định rõ ba khu tập kết: 

- Khu tập kết 80 ngày ở Hàm Tân (Bình Thuận), Xuyên Mộc Bà Rịa-Vũng Tàu). 

- Khu tập kết 100 ngày ở Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười (tỉnh Long Châu Sa) nay là tỉnh Đồng Tháp). 

- Khu tập kết 200 ngày ở Chắc Băng, Cà Mau.

Tổng kết về việc thực hiện nhiệm vụ đón tiếp trao trả tù binh và cán bộ, chiến sĩ, đồng bào, học sinh miền Nam ra tập kết, Thanh Hóa đã đón nhận 1.869 thương, bệnh binh, 47.346 cán bộ, 5.922 học sinh và 1.443 gia đình cán bộ tập kết ra Bắc. Không kể số quân đội do Bộ Tư lệnh nhận, Thanh Hóa đã tiếp nhận ở Sầm Sơn 16.191 đồng bào và cán bộ bị giặc bắt và tù đày. Trong số này có 15.066 người thuộc miền Bắc vĩ tuyến và 1.125 người thuộc miền Nam vĩ tuyến.” 

Như vậy rõ ràng số quân đội Cộng sản ở miền Nam đã không được thống kê đã thể hiện âm mưu đánh phá miền Nam sau này của Chính phủ Hồ Chí Minh. 

Tài liệu tuyên truyền của Ban Tuyên giáo ghi trong Đề Cương (đã dẫn ở trên) xác nhận: 

“Ở miền Nam, tháng 6/1954, Mỹ dựng chính phủ Ngô Đình Diệm và ráo riết thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo, gây ra những tổn thất nặng nề cho cách mạng miền Nam. Trước tình hình đó, tháng 1/1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) mở rộng đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam và vạch rõ con đường cơ bản của cách mạng miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng. 

Ngày 28/8/1959 nhân dân nhiều xã trong huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) nổi dậy giành chính quyền. Ngày 17/1/1960, nhân dân các huyện Mỏ Cày, Minh Tân, Thạnh Phú tỉnh Bến Tre nhất loạt nổi dậy, phá thế kìm kẹp, tạo nên phong trào “Đồng khởi” lan rộng ra nhiều tỉnh ở Nam Bộ, Khu 5. Từ phong trào “Đồng khởi”, lực lượng vũ trang và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp của ta từng bước hình thành. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ngày 15/2/1961, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, bộ phận trực tiếp của Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam.”

Vậy mà trong các cuộc đàm phán với Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tại Hội nghị Paris từ 1968 đến 1973, phía Bắc Việt (Chính phủ VNDCCH) vẫn chối bai bải không có quân đội miền Bắc xâm lăng miền Nam và đòi cho bằng được quân Mỹ và quân đội đồng minh phải rút hết toàn bộ lực lượng ra khỏi miền Nam Việt Nam. 

Sau khi Hiệp định “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được 4 bên ký kết tại Paris ngày 27/01/1973 (Mỹ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc) và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Mặt trận Giải phóng miền Nam, Việt Cộng) thì khoảng 300, 000 quân miền Bắc và Cộng sản miền Nam (du kích miền Nam) vẫn đóng quân ở miền Nam.

Ngụy tạo danh nghĩa

Nhưng trong suốt 20 năm chiến tranh xâm lăng VNCH thì lá cờ Đỏ Sao Vàng của miền Bắc không hề được trưng ra ở miền Nam. Quân lính Cộng sản chỉ mang lá cờ được “chế ra” gọi là của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (MTDTGPMN ra đời ngày 20/12/1960 và đã bị đảng CSVN giải thể ngày 31/1/1977 để nhập vào Mặt trận Tổ quốc do đảng CSVN lãnh đạo). 

Cờ của MTGP hình chữ nhật, chia đôi với phần trên mầu đỏ và phần dưới mầu xanh, ở giữa là ngôi sao 5 cánh mầu vàng. 

Khi quân Cộng sản tấn công vào Sài Gòn thì trên nhiều xe tăng và xe chở lính đều có cắm cờ được gọi nôm na là “cờ Việt Cộng”, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng lá cờ Đỏ Sao Vàng của miền Bắc.

Vì vậy không làm gì có chuyện “Cờ Tổ quốc tung bay trước tòa nhà chính của dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút.”

Hãy đọc Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Bùi Quang Thận (1948-2012) là người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam đầu tiên cắm lá cờ chiến thắng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trên nóc dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975.”

Trong số ra ngày Thứ Hai, 25/06/2012 báo Dân trí đưa tin: 

“Ngày 24/6/2012, Đại tá Bùi Quang Thận, người cắm cờ trên Dinh Độc Lập vào ngày 30/4/1975 lịch sử, đã đột ngột qua đời tại quê nhà xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình...

...Trưa ngày 30/4/1975, ông chỉ huy xe tăng T54 mang số 843 đi đầu đội hình tiến vào Dinh Độc Lập. Khi xe tăng 843 bị kẹt lại tại cổng phụ và xe tăng 390 húc đổ cổng chính, Bùi Quang Thận nhảy xuống, mang cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cắm trên nóc Dinh Độc Lập. 

“Khi lên đến nơi, tôi hạ cờ ngụy xuống. Nhưng do cờ được buộc chắc chắn nên phải cắn bằng răng, sau đó treo cờ giải phóng vào. Kéo cờ mình lên, tôi lại hạ xuống, đưa tay xem đồng hồ. Tôi thận trọng ghi: 11h30 ngày 30/4 và ký tên Thận lên góc lá cờ Tổ quốc. Song, kéo cờ lên lại. Tôi quay đầu bước đi, rồi lại quay lại nhặt lá cờ của ngụy với ý định làm vật kỷ niệm trong cuộc đời chiến đấu”. 

Theo lời kể này thì chính ông Thận cũng lầm tưởng lá cờ MTGPMN là “lá cờ Tổ quốc” vì nó đã được Chính ủy của đơn vị dậy lính như thế. Cũng như nếu có bị bắt thì cứ khai ngang là bộ đội quân “giải phóng”!

Tiếc thay cho “lá cờ Tổ quốc” trá hình của ông Thận và hàng ngũ người miền Nam trong đoàn quân du kích tay sai và Chính phủ bù nhìn Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời ngày 8/06/1969 (lãnh đạo then chốt: Nguyễn Hữu Thọ (Chủ tịch Mặt trận) - Huỳnh Tấn Phát (Thủ tướng) - Nguyễn Thị Bình (Bộ trưởng Ngoại giao), Trần Nam Trung (Bộ trường Quốc phòng), cùng với lá cờ hình chữ nhật “đỏ, xanh và ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa” đã bị “chôn sống tức tưởi” không kèn không trống khi Việt Nam chính thức chỉ còn một lá cờ “Đỏ Sao Vàng” duy nhất từ ngày Quốc hội bỏ phiếu thống ngày 02/07/1976.

Như vậy rõ ràng Ban Tuyên giáo Trung ương đã bịa ra chuyện “Cờ Tổ quốc tung bay trước tòa nhà chính của dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút”, khi trong thực tế bộ đội Cộng sản miền Bắc đã núp dưới lá cờ Việt Cộng để đánh phá và giết hại hàng triệu đồng bào miền Nam từ 1959 đến 30/4/1975. 

Có lẽ cũng muốn tránh mang tiếng viết sai sự kiện lịch sử xâm lăng miền Nam không chối cãi được nên Nhà Thơ nổi tiếng Trần Đăng Khoa của Đài Tiếng nói Việt Nam mới nhập nhằng viết “Chuyện đời thường - Người cắm cờ trên Dinh Độc Lập” ngày 01 Tháng Năm 2013: 

“Có lẽ trong chúng ta, ai cũng biết anh Đại Đội trưởng xe tăng Bùi Quang Thận, người đã cắm lá cờ trận mạc trên nóc Dinh Độc Lập buổi trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng xung quanh việc cắm cờ này, còn có khối điều thú vị mà không phải ai cũng có thể biết hết. Chính Bùi Quang Thận cũng không thể ngờ được mình đã làm nên kỳ tích lịch sử chỉ bằng có... hai bàn tay không...

...Trước mặt anh, lố nhố những xe tăng, xe bọc thép tuyến phòng ngự cuối cùng của địch bảo vệ Dinh với bao nhiêu súng ống đạn dược tối tân, còn anh, chỉ có hai tay trắng và chiếc xe tăng lổng nhổng vỏ đạn. Bùi Quang Thận giật phắt lá cờ trận mạc cắm trên xe tăng, quay lại bảo lái xe Lữ Văn Hóa, pháo thủ Thái Bá Minh:

- Các cậu ở lại, mình vào Dinh nhé. Nếu không thấy mình quay ra, cũng không thấy lá cờ này nhô lên, thì tức là mình đã chết ở trong Dinh rồi! 

Thế rồi, với hai bàn tay trắng, chỉ có lá cờ trận mạc ố xuộm khói đạn làm vũ khí, Bùi Quang Thận xông thẳng vào sào huyệt cuối cùng của kẻ thù.

Lên tầng thượng, hắn dẫn tôi đến cột cờ. Hóa ra cờ mình bé quá. Nó là cờ hiệu cắm trên nóc xe tăng. Trong không gian, ở trên đỉnh cái Dinh lồng lộng này, nó chỉ như cái mắt muỗi. Còn cờ địch to lắm, rộng đến mấy chục mét chứ chẳng ít, lại chằng buộc rất kỳ công bằng các nút dây thép, chừng hai mươi phân một nút. Tôi gỡ mãi mới được hai nút. Nhìn xuống dưới sân Dinh, xe tăng và quân ta bắt đầu tiến vào. Thế là tôi xé luôn lá cờ ấy, thay lá cờ của ta rồi kéo lên. Lúc bấy giờ là 11giờ 30 phút.”

Nhà Thơ nổi tiếng là “thần đồng” khi còn thơ ấu Trần Đăng Khoa mà cũng biết mánh mung không dám viết “lá cờ Tổ quốc” thì cũng đáng ghi thêm một nét ẩn ý với cái tên “lá cờ trận mạc” trong vụ treo cờ “của Việt Cộng miền Nam” trên dinh Độc Lập ngày 30/04/1975. 

Mậu Thân 1968 - Việt-Tàu 1979-1989 

Đến cái gọi là “thành tích” của Quân đội nhân dân (QĐND) trong cuộc tấn công đẫm máu Tết Mậu Thân 1968 ở miền Nam, Ban Tuyến giáo ba hoa: “Giữa lúc cuộc chiến tranh leo thang của đế quốc Mỹ đến đỉnh cao nhất, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) nhằm tạo bước ngoặt lớn, chuyển chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Chỉ trong một thời gian ngắn, quân và dân ta đã giành chiến thắng. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 trên toàn chiến trường miền Nam, cùng với việc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris.” 

Đúng là Hoa Kỳ đã tìm cách kết thúc cuộc chiến sau vụ Mậu Thân, nhưng lịch sử đã chứng minh Mậu Thân không phải là lý do duy nhất. Lịch sử cũng đã ghi đậm nét tội ác của quân đội CSVN đã gây ra cho nhân dân miền Nam trong nhiều vụ tàn sát người dân vô tội, trong đó bi thảm và tàn bạo nhất là cuộc hạ sát tập thể trên 5, 000 thường dân và các viên chức chính phủ, đảng phái và tôn giáo tại cố đô Huế. 


Vết đen này của QĐNDVN sẽ không bao giờ rửa được, cũng như Ban Tuyên giáo sẽ không chạy được tội tại sao chỉ biết lên án quân Khmer đỏ đã “gây ra nhiều cuộc thảm sát man rợ” khi “tập đoàn Pôn Pốt - Iêngxari phát động cuộc chiến tranh xâm lược vùng biên giới Tây Nam” trong tháng 4/1977. 

Trong khi đó thì trong toàn Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của quân đội không thấy, dù chỉ 1 chữ, lên án quân xâm lược Tàu cộng đã tàn ác giết hại hàng ngàn dân vô tội, kể cả phụ nữ, cụ già và trẻ em khi chúng tràn qua biên giới đánh vào 6 tỉnh trong 2 cuộc chiến từ 1979 đến 1989? 

Tuyên giáo viết: “Ở biên giới phía Bắc, ngày 17/2/1979, Trung Quốc đã huy động 60 vạn (600000) quân tiến công trên toàn tuyến biên giới 6 tỉnh phía Bắc nước ta. Các lực lượng vũ trang địa phương, dân quân tự vệ đã phối hợp với một bộ phận bộ đội chủ lực cùng đồng bào các dân tộc vùng biên giới anh dũng chiến đấu, bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, buộc Trung Quốc phải rút hết quân vào ngày 16 tháng 3 năm 1979.”

Viết sơ sài như thế có ngụ ý gì là thắc mắc muốn hỏi ông Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyến giáo Trung ương? 

Bởi vì Đề Cương đã không điếm xỉa gì đến tội ác “muôn đời không thể quên được” của nhân dân tại các mặt trận Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên và Quảng Ninh. 

Hãy đọc một số đoạn trích từ tài liệu của Việt Nam về cuộc chiến này: 

“Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 9 tháng 3tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối. Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Quốc còn phá hủy một cách có hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân hay cột điện, tại các thị xã thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn...” 

“...Tuy nhiên, quân Trung Quốc đã thực hiện nhiều hành động như giết chóc, đốt phá, ngay cả sau khi đã tuyên bố rút quân. Hầu hết các thị xã thị trấn mà Trung Quốc chiếm được đều bị phá hủy một cách có hệ thống. Tại thị xã Cao Bằng, quân Trung Quốc dùng thuốc nổ phá sập bất cứ công trình gì từ công sở đến bưu điện, từ bệnh viện đến trường học, từ chợ đến cầu. Tại Đồng Đăng, quân Trung Quốc lấy đi tất cả những gì có thể mang theo, từ xe đạp cho đến thanh ray tàu hỏa, những gì không mang được đều bị đập phá. Tại thị xã Cam Đường trên bờ sông Hồng, cách biên giới khoảng 10 km, ngoài việc phá hủy thị xã, quân Trung Quốc còn cho đốt cả mỏ apatit...” 

“...Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Khoảng một nửa trong số 3, 5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.” 

Và ông Đinh Thế Huynh cũng phải trả lời tại sao tài liệu tuyên truyền đã không dám viết gì về cuộc kháng cự oanh liệt của bộ đội Việt Nam chống quân Tàu Cộng xâm lược chiếm 8 đảo và đá ngầm của Việt Nam ở Trường Sa tháng 3/1988? 

Đã có ít nhất 64 lính Hải quân Việt Nam hy sinh ở đó.

Thiếu tướng Lê Mã Lương là cựu giám đốc bảo tàng Lịch sử quân sự CSVN, từng tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam, chiến tranh biên giới Việt-Tàu. 

Ông tiết lộ tại cuộc hội thảo của Minh Triết Biển Đông hôm 14/6/2014: “Trước khi xảy ra trận Hải chiến Trường Sa năm 1988, quân đội Việt Nam đã phải phải nhận lệnh ‘không được nổ súng’ trong trường hợp Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma hay bất kỳ một đảo nào ở Trường Sa.”

Ông nói: “Chính vì thế khi Trung Quốc tấn công vào đảo Gạc Ma, nó chỉ có hơn 40 lính với mấy cái xuồng bằng hợp kim nhôm đổ bộ vào. Trong khi bộ đội ta, trong đấy có một người sau này được truy tặng anh hùng là thiếu úy Trần Văn Phương chỉ có mỗi tay không và giữ chặt lá cờ trên đảo Gạc Ma. Không có súng. 

Và rồi lính Trung Quốc bắn, nó đâm. Nó đâm hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh nhiều nhát trọng thương. Anh em cứ quần lộn với lính Trung Quốc như vậy.” 

Ông Lương không nói tên, nhưng Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh đã chỉ đích danh Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh thời kỳ này là thủ phạm đã ra lệnh “không được nổ súng” chống lại quân Trung Cộng. 

Nhưng trên Lê Đức Anh còn có Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười, hai người sau này đã dự Hội nghị bí mật đem bất lợi về cho Việt Nam ở Thành Đô (Trung Cộng) năm 1990. 

Vậy chẳng lẽ Ban Tuyên giáo khi ra công tô son điểm phấn cho ngày kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội Nhân dân cũng đồng thời tạo dịp để xuyên tạc lịch sử về“lá cờ Tổ quốc” treo trên nóc dinh Độc lập ngày 30/04/1975 và chạy tội cho nước láng giềng Trung Cộng? 

(11/014) 


http://danlambaovn.blogspot.com/2014/11/tuyen-giao-csvn-mac-benh-tam-than-nang.html

Hàng vạn người dân kịch chiến với hàng ngàn cảnh sát ở Hải nam, Tàu quốc


Hàng vạn người dân thôn làng tỉnh Hải Nam cùng với hơn 1000 cảnh sát xảy ra cuộc chiến kịch liệt, hơn 10 chiếc xe cảnh sát bị phá hủy.


Hàng vạn người dân thôn làng tỉnh Hải Nam cùng với hơn 1000 cảnh sát xảy ra cuộc chiến kịch liệt, hơn 10 chiếc xe cảnh sát bị phá hủy.
[Phóng viên Cố Hiểu Hoa đưa tin] Ngày 18 tháng 11, hơn vạn người dân thị trấn Tam Giang thành phố Hải Khẩu tỉnh Hải Nam Trung Quốc, đình công, bãi khóa, kháng nghị phản đối chính quyền tại thị trấn xây dựng bệnh viện Phong cùi, bệnh viện AIDS, nhà hỏa táng hợp nhất làm một thể với khu vườn giải trí.
Chính quyền đương cục điều động hơn ngàn cảnh sát, cảnh sát đặc nhiệm, cảnh sát phòng chống bạo lực, cảnh sát vũ trang biên phòng, và các nhân viên quản lý nội thành tiến hành trấn áp. Cả hai bên nổ ra cuộc xung đột kịch liệt, bên phía cảnh sát triển khai chiến đấu với khí ga, cùng lúc còn sử dụng đạn cao su bắn trúng đầu 1 người đàn ông, người đàn ông này vẫn chưa biết sống chết ra sao. Dân làng lật đổ đập vỡ hơn 10 chiếc xe cảnh sát, xe công vụ. Hàng chục dân làng bị thương.
Phóng viên hết thời hạn gửi báo cáo, tiếp tục có hàng ngàn dân làng tập trung kháng nghị phản đối chính quyền thị trấn đương địa, có tin nói rằng chính quyền đương cục tiếp tục điều động một lượng lớn cảnh sát, đồng thời thông báo phát lệnh bắt giữ người dân làng tham gia đập phá xe.
Từ ngày 14 tháng 11 trở đi, hàng trăm người dân thôn làng địa phương đến công trình thôn Nam Đầu ngăn chặn thi công, bị hàng trăm bảo an khu vực đánh chặn, nhiều người bị đánh trọng thương phải nhập viện. Đến ngày 14 sự kiện leo thang, hơn vạn dân chúng toàn thị trấn tiến hành đình công, bãi khóa, học sinh bãi khóa, hiệu triệu kêu gọi dân chúng, trưa ngày 18 tập hợp tại khu chợ thị trấn, đến công trường tiếp tục kháng nghị phản đối tập thể , chính quyền đương cục điều động càng nhiều lực lượng cảnh sát tiến hành trấn áp.
Ngày 18 tháng 11, hơn vạn người dân thôn làng thị trấn Tam Giang tỉnh Hải Nam thành phố Hải Khẩu cùng với hơn ngàn cảnh sát, cảnh sát đặc nhiệm, cảnh sát phòng chống bạo lực, cảnh sát vũ trang biên phòng, và các nhân viên quản lý nội thành nổ ra cuộc xung đột kịch liệt (hình ảnh trên mạng)
Buổi sáng 6h ngày 18, hơn ngàn nhân viên quản lý cùng với cảnh sát tiến vào quảng trường chợ của thị trấn bắt đầu bắt người, có 4, 5 người dân làng bị bắt đi.
Bà Hàn, người dân thôn, nói với phóng viên Đại Kỷ Nguyên: “ chúng tôi tập hợp tại quảng trường chợ của thị trấn, họ (cảnh sát, nhân viên quản lý) buổi sáng 6h hơn đã đến bắt người, bao vây chúng tôi lại”, còn động thủ đánh người, “người già, trẻ em, phụ nữ đều bị đánh.”
Vào lúc 9h sáng, tại công trường tập trung hơn ngàn dân chúng, người dân tức giận phá hủy lá chắn tại công trường, một lượng lớn cảnh sát phòng chống bạo lực, cảnh sát vũ trang biên phòng nhanh chóng đến hiện trường, tay nắm chặt khiên đứng thành bức tường người, cùng với người dân đứng song song đối lập, dân chúng tâm tình kích động, tay nắm lấy đá, gậy xông lên phía trước,  bên phía cảnh sát tức thì ném lựu đạn hơi cay về phía người dân.
Một người dân làng tại hiện trường – ông Thẩm cho biết: “Một người bạn tốt của tôi trong lúc xung đột, anh là người đầu tiên xông lên phía trước, cảnh sát vũ trang lấy súng ra, trong chớp mắt đầu của anh ấy bị đạn cao su bắn trúng, ngã xuống đất bất động, chỉ nhìn thấy đầu lắc lư ở đó, người dân làng đứng bên cạnh đã đem anh ấy đi giải cứu.” Được biết, người đàn ông này trước mắt đang nằm tại bệnh viện hôn mê bất tỉnh, sống chết vẫn chưa biết, bệnh viện sẽ tiến hành phẫu thuật trị liệu.
Tại hiện trường xung đột cũng có lượng lớn xe cảnh sát cùng với xe công vụ bị dân chúng lật ngược phá hủy.
Buổi chiều. hơn vạn người dân thôn làng bắt đầu bao vây cơ quan chính quyền thị trấn, từng tốp từng tốp cảnh sát nhanh chóng đến cơ quan chính quyền thị trấn, Ông Thẩm nói: “ Trên đường đến chính quyền thị trấn đều có người, người dân thôn ném đá vào cảnh sát, cảnh sát dùng khiên để bảo vệ, sau đó lại có rất nhiều xe tới, người dân thôn đã lật đổ xe, cuối cùng người đến càng lúc càng nhiều. Tại thị trấn Tam Giang gần đó, học sinh trung học cũng không lên lớp xuống đường phá xe. Cảnh sát lấy roi điện, xông lên đánh người dân thôn làng. ”
Bà Hàn cho biết, khi đó hiện trường có 7, 8 chiếc xe cảnh sát, bên phía cảnh sát còn thuê hơn 30 chiếc xe khách, tuy nhiên đã  bị cơn phẫn nộ của thôn làng đập nát. Bà Hàn cho biết : ” Tại cơ quan chính quyền thị trấn buổi trưa và buổi chiều đều có xung đột, sự kiện không dập tắt được mà vẫn còn tiếp tục, hiện tại mạng internet của chúng tôi đều bị phong tỏa , truyền phát hơn 500 tin thì bắt đầu bắt người.”
Bà Hàn tiết lộ, ngày 18 có hơn 20 dân làng bị bắt, những người bị thương bao gồm nam nữ, già trẻ, lớn nhỏ, thiếu niên dân thôn làng tổng cộng ước tính có gần trăm người, nằm viện hơn mười mấy người, tuy nhiên những con số này vẫn chưa thực sự chính xác.
Ông Thẩm cho biết, bệnh viện thị trấn Tam Giang gần tòa nhà chính quyền thị trấn, đã đầy các bệnh nhân, người dân làng bị thương phải xếp hàng để vào bệnh viện.
Người dân địa phương tiết lộ, chính quyền đương cục đang điều động ngày càng nhiều lực lượng cảnh sát tiếp tục tiến hành trấn áp, cùng lúc còn bắt đầu bắt giữ người trên phạm vi lớn.
Theo báo cáo của truyền thông đại lục đưa tin, chính quyền địa phương cần xây dựng dự án khuôn viên giải trí bao gồm trung tâm trị liệu phòng chống bệnh da liễu của tỉnh .v.v.. là 3 bệnh viện với chức nghiệp phòng chống bệnh. Quan chức địa phương dự đoán về môi trường, có thể đạt được khả năng xử lý ô nhiễm, tuy nhiên cách nói này nhận lấy sự chất vấn của người dân thôn làng. Dân làng nói, dự án này bao gồm trị liệu bệnh phong cùi, bệnh viện AIDS cho đến nhà hỏa táng, chất thải có thể sẽ được đổ xuống sông gây ô nhiễm làm ảnh hưởng đến sự sống còn của người dân vốn phụ thuộc vào biển cả, hơn nữa bệnh phong cùi còn là bệnh truyền nhiễm .
    Cố Hiểu Hoa, Dajiyuan (Đại Kỷ Nguyên)
    http://www.ijavn.org/2014/11/hang-van-nguoi-dan-va-hang-ngan-canh.html