Bill Hayton
Phan Văn Song dịch
Hoàng Việt hiệu đính
Chương 1 (tiếp theo)
Những xác tàu và những điều sai:
Từ tiền sử đến 1500
(WRECKS AND WRONGS : Prehistory to 1500)
Hải sâm, tiếng Indonesia là trepang, đã được xuất khẩu từ Đông Nam Á đến Trung Quốc vừa như một nón ăn ngon vừa như một loại thuốc ít nhất 2000 năm qua. Vì vậy, rất phù hợp khi một thợ lặn tìm trepang ngã nhào theo nghĩa đen lên một phát hiện làm thay đổi hoàn toàn hiểu biết của chúng ta về lịch sử giao thương ở Biển Đông. Vào tháng 8 năm 1998, trong khi theo đuổi các sinh vật trườn trên đáy biển gần 2 km ngoài khơi bờ biển phía Bắc đảo Belitung của Indonesia, một thợ lặn tìm thấy một gò đất kì lạ. Vỡ lẽ ra đó một chiếc thuyền buồm (dhow) Arab chất đầy hơn 55.000 món gốm Trung Quốc – một lô hàng mà cuối cùng được bán với giá $ 32 triệu, mặc dù cả ông lẫn nước của ông không thấy được phần lớn những thứ đó. Hình vẽ trên gốm tiết lộ rằng con tàu đã chìm năm 826 CE vào giữa triều đại nhà Đường, làm cho điều này thành bằng chứng cụ thể đầu tiên của giao thương đường biển trực tiếp giữa thế giới Arab và Trung Quốc.
Bằng chứng là thứ mà tất cả các nhà sử học tìm kiếm và, trái ngược với Trung Quốc với nhiều thế kỷ tài liệu ghi chép, Đông Nam Á thiếu nó. Tài liệu còn sót lại ít ỏi, các khu định cư ven biển đã bị quét sạch và khí hậu nhiệt đới kết hợp với côn trùng phàm ăn đã làm phân huỷ hầu hết các thứ còn lại. Các thành phố lớn bị mất dấu có những thứ chạm khắc có ích nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng trong các ghi chép lịch sử. Cơ hội tốt nhất của việc san lấp các lỗ hổng nằm trong việc phát hiện các hiện vật thực tế. Các chi tiết nhỏ nhất, từ thành phần phân tử của các vỏ sò đến các kĩ thuật được sử dụng khi đóng tàu thuyền, có thể mở khóa tiết lộ về nơi và cách con người di chuyển, về thứ họ ăn, về loại xã hội họ sống và về cách họ quan hệ với những người khác. Kết quả là các nhà khảo cổ hiện đại rất khó tính về việc ghi nhận lại tất cả mọi thứ trong các cuộc khai quật của họ: cách bố trí không gian sống của một con tàu có thể gợi ý về văn hóa và hệ thống thứ bậc của người trên tàu và sự sắp xếp hàng hóa có thể tiết lộ thứ tự của các cảng ghé qua. Mỗi mảnh bằng chứng đều có thể hữu ích. Hơn nữa, đồng nghiệp sẽ chỉ coi các diễn giải là hợp lệ nếu các phát hiện được ghi nhận một cách chính xác và để mở cho xem xét và diễn giải lại. Những điều này ít nhất, chứ không phải lần đầu tiên, đã không xảy ra ở xác tàu Belitung. Có các ưu tiên khác cấp bách hơn.
Sau khi các thợ lặn trepang trích lấy một ít bát và bán lại trên thị trường, lời đồn lan ra và một công ty địa phương, Sulung Segara Jaya, lấy được một giấy phép từ Ủy ban quốc gia cứu hộ tàu đắm của Indonesia cho khai quật xác tàu . Nó được công ty Seabed Explorations, thuộc sở hữu của Tilman Walterfang, một kĩ sư xây dựng Đức chuyển thành nhà thám hiểm dưới nước, nhanh chóng tham gia. Hai công ty này đã làm việc nhanh chóng. Theo kinh nghiệm cay đắng họ biết rằng hiện trường sẽ nhanh chóng bị những người khác cướp bóc nếu họ không làm nhanh. Tháng 8 năm 1998 Indonesia đang trong cuộc khủng hoảng. Tổng thống Suharto bị hạ bệ, hơn một ngàn người đã bị giết trong cuộc bạo loạn, ly khai tăng lên và người nước ngoài trốn chạy ra khỏi đất nước cùng với tài sản của họ. Walterfang vẫn không nao núng: của cải tương lai của ông vẫn còn nằm ở đáy biển. Các đội tiếp tục làm việc, di dời càng nhiều hàng hóa càng tốt trong tháng 9 và tháng 10 trước khi gió mùa làm ngừng công việc của họ. Như họ lo sợ, những kẻ săn tìm kho báu địa phương gần như ngay lập tức nhảy vào. Walterfang kí hợp đồng với một công ty riêng biệt, Maritime Explorations, thuộc sở hữu của một cựu kĩ sư, Michael Flecker, để khai quật phần còn lại của địa điểm trong năm mới và làm một phân tích khoa học hơn về những gì còn sót lại. Flecker đã khai quật hàng chục xác tàu trong khu vực và cũng có bằng tiến sĩ khảo cổ học biển.
Bây giờ chúng ta biết rằng đồ gốm trên con tàu đắm ở Belitung được sản xuất hàng loạt ở ít nhất 5 địa điểm riêng biệt trên khắp Trung Quốc, rồi vận chuyển quanh bờ biển Trung Quốc đến Quảng Châu, ở đó chúng đã được chuyển lên một tàu có dáng phảng phất những chiếc vẫn còn được sử dụng ở biển Oman, được làm từ gỗ được trồng ở Trung Phi và Ấn Độ. Nhân viên tàu có thể là một tập hợp nhiều giống dân Arab, Ba Tư và Malay và khách hàng cuối cùng cho các hàng hóa này là tầng lớp thượng lưu và trung lưu của Abbasid Caliphate, ở trung tâm Baghdad. Tàu chạy đi từ Quảng Châu lúc có gió mùa Tây Nam, có thể dừng lại trên đường để bổ sung dự trữ thực phẩm và nước trước khi bị đắm trên một rạn san hô trong phạm vi ảnh hưởng của Srivijaya. Vậy thì hàng hóa vận chuyển trên tàu đúng lẽ thuộc về ai? Theo quan điểm của Walterfang thì câu trả lời rất đơn giản: ông ta- và bất cứ ai đã chuẩn bị để mua chúng từ ông ta. Khi gốm bị lấy đi để bảo tồn và rửa sạch và phần còn lại của tàu được kiểm tra để tìm manh mối về nguồn gốc của nó, việc cãi vả bắt đầu.
Cuối cùng chỉ có Singapore đủ quan tâm tới kho báu này để chi trả món tiền mà Walterfang tìm kiếm. Động lực đằng sau việc mua lại hàng hóa là Pamelia Lee, người lúc đó đứng đầu Hội đồng Du lịch Singapore và là em dâu của Thủ tướng nhiều năm tại vị của Singapore, Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew). ‘Tôi nghĩ đã tới lúc để Singapore tìm kiếm những điều tốt hơn trong cuộc sống’, bà nhớ lại. ‘Giống như mọi quốc gia khác trở nên giàu có bạn phải nhìn tới việc xây dựng gốc rễ của mình’.[1] Lee hi vọng rằng lô hàng hóa đó sẽ đủ để trả lại số tiền mua bằng cách thu hút du khách đến khu nghỉ mát lớn lúc đó được lên kế hoạch cho đảo Sentosa ở Singapore. Vào tháng 4 năm 2005, Tổng công ty Sentosa nhà nước, một bộ phận của Bộ Giao thương và Công nghiệp Singapore, công bố một thỏa thuận mua kho chứa vật quý này từ công ty của Walterfang với giá $ 32 triệu. Một nửa số chi được đóng góp bằng các bất động sản của một trong những người giàu nhất Đông Nam Á: trùm ngân hàng và khách sạn Tan Sri Khoo. Thỏa thuận này được mô tả như là một phần cốt lõi của kế hoạch Sentosa nhằm tạo ra một bảo tàng biển mới lắp đầy với hiện vật được trục vớt từ những con tàu đắm.
Đầu năm 2011, trong khi bảo tàng biển đang xây dựng, một số ‘Kho báu nhà Đường’ đã được trưng bày tại Bảo tàng ArtScience trên bờ biển Singapore. Có kế hoạch sẽ chuyển cuộc triển lãm cho Viện Smithsonian ở Washington DC năm sau. Nhưng rồi một liên minh các nhà khảo cổ Mỹ đã can thiệp. Họ phẫn nộ vì một công ty tư nhân lại được cho phép để khai quật một địa điểm quý hiếm như vậy. Một số người đã cáo buộc Viện khuyến khích việc hôi của. Điều đó đã biến thành một cuộc tranh cãi giữa những người lý tưởng và những kẻ hoài nghi – giữa những người tin rằng cách thực hành khảo cổ học tốt nhất nên được tôn trọng trong mọi trường hợp và những người cảm thấy rằng những vấn đề thực tế về hôi của và khai thác tài chính đòi hỏi các giải pháp thực tế. Tháng 4 năm 2011, Smithsonian đã chịu thua và hủy bỏ triển lãm. Walterfang cáo buộc những người phê phán mình là kẻ háo danh đang chơi trò chính trị khác.[2] Từ đó các mối quan hệ không được cải thiện nhiều.
Thậm chí tệ hơn, Bảo tàng thực nghiệm biển (Maritime Experiential Museum) trên đảo Sentosa cũng lạnh nhạt với ‘Kho báu nhà Đường’. Ở đó có nhiều hiện vật từ các xác tàu khác nhưng không có lấy một vật nào từ xác tàu ở Belitung. Tại thời điểm viết sách, chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ trong số hàng hóa này được trưng bày công cộng, một ít trường hợp bên trong khách sạn Goodwood Park ở Singapore, trước đây thuộc sở hữu của ông Khoo. Có vẻ như Singapore ít quan tâm đến một trong những khám phá khảo cổ đáng chú ý nhất trên thế giới. Pamelia Lee thất vọng vì người dân của đảo quốc này, theo nhiều cách là tương đương với Phù Nam hoặc Srivijaya, đã không hiểu ý nghĩa của kho báu. ‘Theo tôi thì trong những năm tới, khi họ có được thứ tốt nhất trong tất cả các tiện ích, họ sẽ tìm kiếm một thứ hữu hình nào đó khác hơn’, bà thở dài.[3] Nhưng có lẽ có một thông điệp sâu sắc hơn ở đây. Có vẻ như không những người Singapore không có cảm giác sở hữu’ số hàng hóa đó, họ cũng không có ý thức sở hữu đối với biển, mặc dù thực tế là toàn bộ đất nước của họ tồn tại dưa trên giao thương đường biển. Singapore là một trạm trung chuyển, được tư bản hoá trên các luồng hàng Đông-Tây đi qua bến cảng của nó, nhưng điều đó không biến thành một cảm giác về quyền thụ hưởng đối với tài sản đó.
Gác ý nghĩa hiện đại sang một bên, điều mà xác tàu ở Belitung chứng minh cho các nhà khảo cổ là vào giữa thời nhà Đường (ba thế kỷ từ 618 tới 907) giao thương ở Biển Đông đã là một ngành công nghiệp xuất khẩu tích hợp cao. Doanh nghiệp ở nhiều vùng của Trung Quốc thiết kế sản phẩm cho các thị trường cụ thể (trang trí các biểu tượng Phật giáo hoặc chữ viết Koran theo yêu cầu) và sản xuất chúng hàng loạt. Sau đó đại lý địa phương vận chuyển hàng hoá trên đất liền, trên sông và dọc theo bờ biển đến cảng trung chuyển, ở đó thương nhân nước ngoài sẽ đảm nhận việc vận chuyển đường dài. Có một sự phân chia lao động rõ ràng giữa sản xuất trong nước và ngoại thương.
Triều đình nhà Đường dùng các biện pháp đặc biệt để khuyến khích mối quan hệ này. Ban đầu triều đình ra lệnh phải có các quy định đề ra sẵn cho người nước ngoài đến Quảng Châu và đặt ra một chức quan chính thức để giám sát việc giao thương. Thương nhân Malay (có lẽ cũng là người Nusantao) đi đến Quảng Châu với số lượng lớn cùng với người Arab, Ba Tư, Armenia và Ấn Độ. Họ mang theo các sản phẩm tốt nhất từ quốc gia của họ: ngọc trai, thảm và khoáng chất từ Ba Tư (bao gồm cả cobalt xanh được dùng trong men gốm), nhũ hương, mộc dược, và chà là từ Arab, đồ trang sức và đồ thủy tinh từ Ấn Độ và các loại gia vị và nước hoa từ khu vực Đông Nam Á. Họ trao đổi chúng để lấy đồ gốm, lụa và đồ kim loại của Trung Quốc. Con đường tơ lụa trên biển, xa lộ Abbasid-Đường từ Quảng Châu đến Baghdad, qua ngã Srivijaya và Sri Lanka, tạo ra sự giàu có to lớn cho những ai có thể kiểm soát nó.
Dưới thời nhà Đường, giao thương là đặc quyền của triều đình và chỉ có các quan được bổ nhiệm mới có thể xử lý hàng nhập khẩu: hoạn quan, người có đủ mọi động cơ để đòi hối lộ và bóc lột thương nhân ở những chỗ họ dễ sơ hở nhất. Tham nhũng trở nên ngày càng tệ hơn cho đến tháng 10 năm 758, đã có một cuộc bạo động. Thương nhân Ba Tư và Arab bỏ rơi Quảng Châu và giao thương với nơi khác. Các nhà cai trị đồng bằng sông Hồng ở khu vực bây giờ là Việt Nam (trên danh nghĩa là dưới quyền thống trị của nhà Đường nhưng phần lớn là tự trị) đã chớp lấy cơ hội. Cảng của họ, tại Long Biên, đã trở thành đầu mối giao thương trong một vài thập kỷ. Tuy nhiên, Quảng Châu ắt đã lấy lại vị trí của nó vào lúc tàu Belitung rời bến khoảng năm 826. Nhưng 40 năm sau đó, năm 878, quân nổi dậy chống Đường chiếm đóng Quảng Châu. Một tài liệu Arab nói rằng họ lựa ra và tàn sát hàng ngàn người Arab, Ba Tư, Do Thái và tín đồ Kitô cư trú ở đó. Tuy nhiên, các thương nhân nước ngoài còn sống sót dường như vẫn còn trụ lại được trên bờ biển.
Cuộc nổi dậy mang hơi hướm của những gì sắp đến. Năm 906 nhà Đường sụp đổ, vương quốc cũ của họ bị chia năm xẻ bảy và bờ biển lại trở thành độc lập. Việc phân nhánh này thay đổi toàn bộ khu vực. Trên bờ biển phía Tây Nam, khu vực xung quanh Quảng Châu tách ra để thành lập vương quốc Nam Hán và sau đó các nhà lãnh đạo của đồng bằng sông Hồng cũng tách ra thành lập Đại Việt. Đại Việt phát triển thành đối thủ và cuối cùng chinh phục các vùng đất của Champa (và hơn một ngàn năm tiếp theo phát triển thành Việt Nam).
Trên bờ biển phía Đông Nam, chỗ tỉnh Phúc Kiến hiện nay, vương quốc Mân Nam (Minnan) xuất hiện. Tách rời phía Bắc, Mân Nam gắn với biển. Trong suốt thế kỷ X, nó đã trở thành một nước giao thuơng biển hoàn toàn. Cảng Tuyền Châu [Quanzhou] nổi lên từ bóng tối để trở thành nơi tập trung của các năng lượng kinh doanh và điểm chọn để đến cho các thương nhân từ Trung Đông. Sau hơn một ngàn năm giao thương với người nước ngoài, những người mà ngày nay chúng ta gọi là ‘người Trung Quốc’ lần đầu tiên mới giong buồm đi khắp các đại dương trên chính tàu thuyền của mình.[4] Đó là khởi đầu của tập tục đi biển đã mang người Phúc Kiến và đặc biệt là các thành viên người Mân hay nhóm dân Phúc Kiến đi khắp Biển Đông và xa hơn nữa.
Khoảng năm 970, sau 60 năm độc lập, phía Nam lại chịu dưới sự kiểm soát của nhà Tống, với kinh đô ở Khai Phong [Kaifeng]. Ban đầu, nhà Tống coi biển theo cách các vua chúa nội địa xưa nay: như là một nguồn đe dọa. Đó là một nơi mà những ‘phần tử xấu’ như kẻ buôn lậu hoặc đối thủ chính trị có thể ẩn nấp và nơi mà ý tưởng nước ngoài có thể lan truyền. Năm 985 tất cả thương nhân Trung Quốc đều bị cấm đi nước ngoài. Nhà Tống theo vết các triều đại trước đó áp đặt độc quyền của triều đình về thương mại. Các giao dịch tư nhân đều bị cấm, ép buộc thương nhân nước ngoài phải nhập khẩu hàng hóa của họ thông qua các kênh chính thức để cho triều đình qua đó có thể áp đặt các loại thuế lên tàu thuyền, thuế hải quan lên hàng nhập khẩu và cũng sung vào quỹ một tỷ lệ hàng hóa và lợi nhuận khi bán lại cho người tiêu dùng trong nước.
Nhưng trong vòng vài năm nhà Tống khởi xướng một chính sách quay vòng trở lại đáng chú ý. Năm 987 triều đình cử bốn phái bộ ra nước ngoài để khuyến khích các nước ngoài giao thương. Nhưng điều đó chưa đủ. Áp lực đòi triều đình nới lỏng sự kiểm soát ngày càng tăng thêm: từ các thương nhân ven biển vốn muốn được lợi nhuận; từ người tiêu dùng vốn muốn có hàng hoá nước ngoài; và từ công quỹ vốn cần thu nhập để gồng gánh bộ máy quan liêu. Năm 989 vận chuyển tư nhân Trung Quốc đã được cho phép dùng tàu thuyền giao thương với nước ngoài. Cuối cùng, sau nhiều thế kỷ ở đầu nhận của giao thương, vào cuối thế kỷ X dân đi biển Trung Quốc đã được chính thức cho phép thực hiện các chuyến đi buôn riêng của họ. Cũng có các ưu đãi về thuế. Tỷ lệ hàng hóa trong nước bị triều đình tự động trưng thu đã được cắt giảm chỉ bằng một nửa và tiếp tục giảm sau đó. Người đóng tàu thuyền đã học được cách đóng tàu đi biển. Họ dung nạp các phát minh từ giao thương đường thuỷ nội địa Trung Quốc, chẳng hạn như các khoang kín nước và bánh lái sau tàu, nhưng họ cũng sao chép các yếu tố của tàu Malay đã đến bờ biển của họ trong nhiều thế kỷ. Ngay cả tên mà họ dùng chỉ các tàu này– po [舶: bạc] – có nguồn gốc Malay.
Trong nhiều năm sau năm 1069, Vương An Thạch, một quan triều đình nhà Tống, đi tiên phong trong cải cách nhằm tăng thu nhập của triều đình bằng việc kích thích thương mại. Trong một thử nghiệm rất sớm với kinh tế tự do, thuế nhập khẩu được giảm và việc quản lí giao thương được phân cấp cho các cảng. Đó là một thành công: trong vòng 20 năm, giá trị trong giao thương đã tăng gấp đôi. Một cải cách khác đã có hậu quả sâu rộng. Triều đình bãi bỏ lệnh cấm xuất khẩu tiền đồng. Loại tiền tệ này lan toả nhanh chóng trên mạng lưới giao thương ở Biển Đông và tiền đúc nhà Tống đã trở thành một phương tiện trao đổi tới tận Sumatra và Java.
Khoảng năm 1090 tàu Trung Quốc đã được cho phép chạy ra nước ngoài từ bất kỳ cảng nào, khuếch trương thu nhập từ giao thương rộng rãi hơn nữa. Động thái này cũng cho phép các thương nhân Phúc Kiến lấn vào công việc kinh doanh trước đây do người nước ngoài độc quyền. Và cũng giống như người nước ngoài, họ cũng buộc phải theo gió mùa và phải đợi ở các cảng nước ngoài cho tới khi gió đổi hướng. Trong lúc tạm trú họ bắt đầu cắm rễ xuống tại chỗ: lập ra các đền thờ nữ thần đi biển Ma Tổ (妈祖/Mazu) và manh nha ra các phố Tàu (Chinatown). Tuy nhiên hạn chế vẫn còn. Tàu thuyền Trung Quốc chỉ được phép vắng mặt ở cảng trong 9 tháng, một chu kì gió mùa. Họ chỉ có thể đi xa lắm là tới Sumatra trước khi phải quay về. Giao thương phía Tây vào Ấn Độ Dương vẫn dành riêng cho tàu Arab, Ấn Độ và Srivijayan. Tuy nhiên, bất chấp điều đó những thương nhân Trung Quốc mạo hiểm hơn đã bắt đầu xông đến Ấn Độ và Vịnh Ba Tư.
Nhưng tại quê nhà, triều đình nhà Tống phải chịu sức ép ngày càng tăng. Năm 1126, mất quyền kiểm soát vùng đất phía Bắc vào tay quân xâm lược Nữ Chân (Jurchen) từ Mãn Châu, họ dời đô tới Hàng Châu trên bờ biển phía Đông. Lúc cuộc khủng hoảng nảy ra họ cấm tàu thuyền Trung Quốc đi ra nước ngoài và dừng việc nhập khẩu gần như tất cả các hàng hoá sang trọng (với ngoại lệ đáng chú ý là ngà voi cần cho việc làm khóa đai cho vua quan). Nhưng cuộc khủng hoảng này chỉ kéo dài nhiều nhất là sáu năm tới khi nhà Tống bắt đầu cho tự do hóa giao thương lần nữa. Trong vòng 14 năm, chính sách giao thương đã hầu như quay trở lại vị trí trước khủng hoảng. Đòi hỏi phải giao thương là áp đảo. Vào khoảng thập niên 1160 cộng đồng người nước ngoài ở Tuyền Châu đã trở nên lớn đến mức cần tới một nghĩa trang riêng. Phần lớn các thương nhân này là người theo đạo Hồi, đạo Hồi đã bắt rễ ở Champa cũng khoảng thời gian này, và họ đã có những quan hệ tốt đẹp với cả người đạo Hồi ở Trung Đông lẫn cư dân đạo Hồi ngày càng tăng của Trung Quốc.
Nhà Tống kéo dài thêm một thế kỷ nữa. Nhìn một cách tổng thể, giai đoạn từ lúc nhà Đường sụp đổ năm 906 cho đến khi nhà Tống sụp đổ năm 1279 có vẻ như là một ‘thời hoàng kim’ đầu tiên của giao thương quanh Biển Đông. Những thay đổi ở Trung Quốc và Ấn Độ và sự phát triển của giao thương Hồi giáo đã mở ra những tăng trưởng lớn trong giao thương và tạo ra của cải.[5] Đất nước hùng mạnh nhất trong khối Champa là Vijaya, trở nên phồn thịnh vào thời điểm này. Trái lại, Srivijaya lại suy sụp sau khi bị vương quốc Chola ở Nam Ấn Độ xâm lược năm 1025. Điều này cho phép nhiều cảng khác xuất hiện dọc theo bờ biển Sumatra, Java, Bali, Borneo và đất liền Đông Nam Á. Các đảo ở Philippines (được biết với tên là Butuan [Bồ Đoan] và Ma-yi [Ma Dật] trong tài liệu tiếng Trung) cũng bắt đầu được ghi nhận là các thực thể giao thương. Việc phát hiện một kho báu vàng tuyệt vời ở thành phố Suriga của Philippines trên chóp đảo Mindanao vào năm 1981, cho thấy một nhóm người quyền thế giàu có Hindu-hoá đã ở đó vào thời gian này.
Nhiều hàng mới đã được trao đổi, ngày càng đưa nhiều người và vùng lãnh thổ vào hệ thống giao thương khu vực, và cuối cùng là toàn cầu. Nhưng vào cuối thế kỷ XIII, bùng nổ dường như đã chuyển thành bại hoại. Năm 1275, Jambi, cảng chính của Srivijaya bị cướp biển Java phá hủy. Vào lúc đó quân Mông Cổ từ phía Bắc cũng đã tiến vào lãnh thổ nhà Tống. Việc người Mông Cổ cuối cùng chinh phục Phúc Kiến và Quảng Châu năm 1279 dường như đã gây ra một sự suy giảm chung trong giao thương khu vực và kéo dài cho đến khi họ bị mất quyền lực gần một thế kỷ sau đó. Thay vào đó, Biển Đông đã trở thành một đấu trường xung đột khi ‘triều đại nhà Nguyên’ của Mông Cổ tìm kiếm ảnh hưởng. Đặc biệt, Hốt Tất Liệt (Kublai Khan), vua nhà Nguyên đã 14 lần phái chiến thuyền ra nước ngoài tiến hành các cuộc tấn công phá hoại Champa và Java. Tuy nhiên, nếu không có nguồn của cải từ giao thương đường biển, triều đại nhà Nguyên không thể tạo ra thặng dư cần thiết để duy trì quyền lực của mình. Đến năm 1368, họ bị vứt vào sọt rác của lịch sử.
Họ đã bị thay thế bởi nhà Minh, triều đại gần như ngay lập tức đã cố gắng xóa bỏ giao thương nước ngoài của tư nhân và một lần nữa đưa nó nằm hoàn toàn dưới sự kiểm soát của triều đình. Quan hệ giao thương chính thức trở lại hình thức ‘triều cống’ chứ không phải là thị trường mở và Quảng Châu đã được chỉ định là cảng ‘hợp pháp’ cho tàu thuyền từ Đông Nam Á đến. Nhưng sau gần bốn thế kỷ giao thương tư nhân do thương nhân Trung Quốc thực hiện và với một cơ sở hạ tầng các đại lý cùng mạng lưới gia đình có sẵn quanh khu vực, giao thương không chính thức chưa bao giờ bị triệt tiêu, đặc biệt là trong các doanh nghiệp của tỉnh Phúc Kiến. Cuối cùng buôn lậu đã trở thành chi phối, đặc biệt là khi cộng đồng người Hoa ở nước ngoài bắt đầu sử dụng giao thương ‘cống nạp’ làm vỏ bọc. Cuối cùng nhà Minh quay lưng với biển và tập trung vào các vấn đề nội địa, nhưng chỉ sau việc khẳng định ngoạn mục nhất của quyền lực nhà nước Trung Quốc trên biển: 30 năm các ‘chuyến đi thái giám’.
**********
Geoff Wade là một nhà sử học Australia, một chuyên gia điềm đạm về triều đại nhà Minh và Minh sử lục (sử biên niên nhà Minh). Nhưng nếu muốn làm ông phật ý, chỉ cần hỏi về Gavin Menzies và cuốn sách của ông ta 1421: the Year China Discovered the World (1421: năm Trung Quốc khám phá thế giới), mô tả các thứ được cho là khám phá của đô đốc thái giám Trung Quốc Trịnh Hoà (Zheng He). Wade bởn cợt. Ông nói ‘cuốn sách của Menzies là khá đáng chú ý về mặt là chẳng có một trong những điều được khẳng định trong quyển sách là có chút xác thực nào. Các đô đốc thái giám mà ông ta khẳng định là đã đi vòng quanh thế giới lại chẳng hề đi qua Châu Phi, không có tài liệu Trung Quốc hoặc tài liệu nào khác hậu thuẫn cho các chuyến đi được nêu, chẳng xác tàu thuyền của Trung Quốc tìm được nằm ngoài Châu Á, và cũng không có các điểm định cư hay kiến trúc nào của nhà Minh ngoài phạm vi Châu Á. Một kiểu thêu dệt (fiction) với quy mô này lại có thể được công bố và được chào hàng như một sách đứng đắn (non-fiction) là một lời buộc tội tệ hại cho ông Menzies, nhưng thậm chí tệ hại nhiều hơn như vậy cho nhà xuất bản.’[6] Wade có thể tức giận nhiều hơn so với hầu hết chúng ta nhưng đây là quan điểm chung của các nhà sử học về các khẳng định của Menzies. Menzies có thể đã sáng tác ra phần lớn những điều trình bày nhưng chắc chắn rằng Trịnh Hoà là một nhân vật lịch sử hấp dẫn: một người đạo Hồi ở Vân Nam, bị bắt trong cuộc xâm lược của nhà Minh rồi bị hoạn, nhưng sau này lại giúp hoàng đế thứ ba nhà Minh thắng lợi trong cuộc tranh giành ngôi vua. Hiện nay Trịnh Hoà được biết đến rộng rãi đến nỗi khó có thể tin rằng đã có lúc ông từng là một khuôn mặt mờ nhạt. Điều đó thay đổi vào tháng 10 năm 1984, khi nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình sử dụng viên đô đốc này để biện minh cho chính sách ‘mở cửa’ tham gia với phương Tây trong một bài phát biểu trước Ủy ban Cố vấn Trung ương Đảng Cộng sản. Trong những năm tiếp đó, Trịnh Hoà đã trở thành khuôn mặt xuất hiện trên các quảng cáo cho chính sách trỗi dậy hòa bình của Bắc Kinh, một mẫu mực cho sự tham gia của Trung Quốc với thế giới. Năm 2004, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ kỷ niệm lớn đánh dấu 600 năm chuyến đi đầu tiên của đô đốc này, Thứ trưởng Thông tin Xu Zuyuan (Từ Tổ Viễn), tóm tắt những quan điểm chính thức của về thành tựu của ông. Từ Tổ Viễn tuyên bố ‘như vậy những chuyến đi đó là những hoạt động ngoại giao thân thiện. Trong tiến trình chung của bảy chuyến đi đến Tây Dương, Trịnh Hoà đã không chiếm dù chỉ một mảnh đất, lập một pháo đài hoặc tóm thu của cải của các nước khác. Trong hoạt động giao dịch và thương mại, ông đã thực hành việc cho đi nhiều hơn ông nhận lại, và do đó ông được dân chúng nhiều nước khác nhau trên tuyến đường chào đón và ca ngợi.’[7]
Tuy nhiên, Geoff Wade cho rằng cách trình bày này về Trịnh Hoà cũng gây ngộ nhận gần như phiên bản của Gavin Menzies. Nghiên cứu của Wade về Minh sử lục phát hiện có 25 chuyến đi do các thái giám khác nhau chỉ huy trong những năm từ 1403 cho đến đầu thập niên 1430, trong số đó Trịnh Hoà chỉ chỉ huy 5 chuyến. Đại đa số các chuyến đi đều đến Đông Nam Á nhưng Trịnh Hoà trở nên nổi tiếng vì tàu của ông đã đi xa hơn tới quanh Ấn Độ Dương. Wade cho rằng các chuyến đi đó không phải là thực hiện nhiệm vụ hòa bình mà rõ ràng là phô trương sức mạnh. Mỗi chuyến đi – có từ 50 tới 250 tàu – mang theo 20.000 quân được trang bị với các loại vũ khí tiên tiến nhất lúc đó. Mục đích rõ ràng là để gây kinh khiếp. Trong chuyến đi đầu tiên, được lệnh đi năm 1405, Trịnh Hoà dừng lại ở Palembang thuộc đảo Sumatra, ở đó ông truy bắt Trần Tổ Nghĩa (Chen Zu-yi), một người chạy trốn triều đình nhà Minh. Được biết có 5.000 người bị chết trong giao tranh. Cũng trong chuyến đi đó hạm đội của Trịnh Hòa đã đánh một đội quân ở Java, mà Wade tin rằng có thể thuộc về Majapahit, đối thủ tranh giành uy thế với Trung Quốc ở Biển Đông vào thời điểm đó. Trong một chuyến đi khác, vào năm 1411, Trịnh Hoà xâm chiếm một thành phố của Sri Lanka, tiêu diệt quân đội thành phố này, bắt vua mang về Trung Quốc và đưa lên một vua bù nhìn. Năm 1415, ông đã can thiệp vào một cuộc nội chiến ở Sumatra và cũng có ý kiến cho rằng quân lính của ông đã có hành vi tàn ác trên bán đảo Arab.[8]
Wade cho rằng sự kiện là rất nhiều vua chúa và sứ thần đã được chuyển đến Trung Quốc trên tàu của Trịnh Hoà cho thấy họ phải bị cưỡng ép đi và việc cưỡng ép này đã cho nhà Minh quyền đi lại tới các cảng và các tuyến đường biển. Năm 1405 đô đốc Trịnh Hoà thành lập một đồn trú đóng ở Malacca (tiếng Malay là Melaka), một thành phố chỉ mới thành lập ba năm trước, đồn này cho phép quân Minh kiểm soát eo biển chỗ nó được đặt. Đổi lại ông ta phong vương cho vua Malacca. Mục đích chung của những chuyến đi này rõ ràng gồm hai mặt: kiểm soát các tuyến đường giao thương và tạo cho hoàng đế mới giành được ngôi ở bản quốc tính chính đáng qua việc các vua chúa nước ngoài tỏ lòng thần phục ông ta. Điều này khác xa với hình ảnh chính thức về ‘sứ giả nổi bật của hoà bình và hữu nghị’ do Bắc Kinh đề cao. Cuối cùng, cách ngoại giao pháo hạm này chỉ kéo dài 30 năm. Các quan lại triều đình ghen tị kiềm chế bớt quyền lực của viên hoạn quan này. Ưu tiên chính sách lại quay vào bên trong: bản đồ Trịnh Hoà bị đốt và tàu thuyền của ông bị để hư dần hư mòn. Trung Quốc không có tàu hải quân khác có khả năng đi tới các đảo của Biển Đông mãi đến khi họ được Hoa Kỳ biếu cho 500 năm sau đó.
Nhưng Đảng Cộng sản Trung Quốc biết huyền thoại mạnh hơn lịch sử và nhà ngoại giao tốt bụng Trịnh Hoà vẫn dong buồm ra đi bất cứ khi nào hợp tác hàng hải cần được thảo luận ở Đông Nam Á hoặc một thỏa thuận đầu tư tổ chức ở Đông Phi. Nói chung ‘lịch sử chính thống’ vẫn đóng một vai trò quan trọng ở Trung Hoa Cộng sản, như chỉ cần một chuyến viếng ngắn ngủi đến Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc tại Quảng trường Thiên An Môn sẽ chứng thực điều đó. Nó củng cố cho quyền cai trị của Đảng và hạ thấp đối thủ. Một khi mà một câu chuyện lịch sử đặc biệt trở thành giáo điều của Đảng, thách thức nó sẽ là một hành động bất phục tùng ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp cá nhân. Ủng hộ nó với bằng chứng sẽ được tưởng thưởng.
Năm 1986, Cục Quản lý Di sản văn hóa quốc gia Trung Quốc đã lập ra Trung tâm Di sản khảo cổ học dưới nước (UWARC) do Bảo tàng Quốc gia quản lý. Quyết định này được thúc đẩy một phần bởi một nỗi sợ hãi rằng Trung Quốc đang mất quyền sở hữu các xác tàu đắm ở xa vào tay các nhà trục vớt giàu tiền của nước ngoài. Nhưng Cục cũng có một mục đích khác. Chuyến công tác đầu tiên trên sóng nước của UWARC là tới Quần đảo Hoàng Sa do Trung Quốc chiếm đóng nhưng Việt-Nam tuyên bố chủ quyền. Tháng 3 năm 1999, giám đốc trung tâm, Zhang Wei, thông báo rằng các thợ lặn của ông đã thu hồi được 1.500 di vật có niên đại từ năm 907, ‘chứng tỏ rằng người Trung Quốc là cư dân sớm nhất’ của quần đảo Hoàng Sa. Các nhà khảo cổ ít phe phái cười to. Năm 907 triều đại nhà Đường mới vừa sụp đổ vì vậy nói xác tàu đó có thể là một trong số các tàu đầu tiên nhất từ đất nước mới độc lập Mân Nam chạy đi là điều có thể hiểu được. Tuy nhiên, có rất nhiều khả năng đó là tàu của Malaysia hay Arab. Đồ gốm Trung Quốc được buôn bán trên toàn khu vực, và cả bên ngoài. Lấy sự hiện diện của đồ gốm trên bất kì bãi ngầm nào làm bằng chứng cho sở hữu lịch sử của Trung Quốc thì không hơn gì lấy sự hiện diện của hàng ngàn vỏ sò cowry trong một ngôi mộ thời đại đồ đồng ở thị trấn An Dương (安阳/Anyang) của Trung Quốc làm bằng chứng rằng tỉnh Hà Nam đúng ýra phải thuộc về Philippines.
Zhang, giám đốc đầu của Trung tâm, không được bổ nhiệm làm một nhà phân tích độc lập về bằng chứng lịch sử. Khi trình UWARC cho Uỷ ban Quốc tế về Di tích và Di chỉ vào năm 2005, Zhang giải thích rằng tổ chức này đang chuẩn bị ‘một hoặc hai cuộc trục vớt xác những tàu đắm ở Quần đảo Nam Sa’ và rằng: ‘Các kết quả từ cuộc trục vớt có thể chứng minh rằng Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi các đảo của Biển Đông’[9]. Có một quan hệ cộng sinh giữa chính sách đối ngoại của Trung Quốc và Trung tâm. UWARC có một ngân sách mà các nhà khảo cổ khác trong khu vực chỉ có thể mơ tới.[10] Chỉ riêng ‘cơ sở nghiên cứu’ của nó ở thành phố Thanh Đảo thôi cũng tiêu tốn $ 24 triệu và UWARC còn có các trung tâm khác ở Hồ Bắc, Hải Nam và Phúc Kiến cộng với một tàu nghiên cứu mới.[11] Cuộc trục vớt xác tàu đắm ‘Nam Hải Một’ ở cửa Sông Châu được tài trợ với khoản tiền là $ 150 triệu. Và UWARC trả lại sự ưu đãi này bằng việc phục vụ trung thành với nhà nước: những phát hiện củng cố cho lịch sử chính thống và do đó cho các kể lể về chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc ở Biển Đông.
Khắp trên biển này, các nhà khảo cổ dưới nước khác thấy khó khăn hơn để nghiên cứu một chuyện kể khác. Tháng 4 năm 2012, một đoàn công tác hỗn hợp Pháp-Philippines do Bảo tàng Quốc gia ở Manila tổ chức điều tra một xác tàu đắm trên bãi cạn Scarborough, 220 km về phía Tây Luzon, đảo chính của Philippines.
Đóng trên tàu phục vụ MV Sarangani, họ đã tuân thủ cách thực hành tốt nhất: điều tra địa điểm tại chỗ, phi thương mại và với ý định công bố các phát hiện của họ cho những người khác xem xét lại. Nhưng sau đó một tàu hải giám Trung Quốc đến và ra lệnh cho họ phải rời đi – với lý do xác tàu đắm này thuộc về Trung Quốc. Chỉ có các nhà khảo cổ Trung Quốc mới được phép điều tra địa điểm đó để họ lại có thể tìm thấy ‘bằng chứng’ về chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc.
Dù có những khó khăn này, các nhà khảo cổ như Victor Paz, Peter Bellwood, Wilhelm Solheim, Pierre-Yves Manguin và tất cả các đồng nghiệp của họ đã gom góp được đủ bằng chứng để kể một câu chuyện rất khác về Biển Đông: đó là một nơi nhiều thứ tiếng trao đổi và giao thương, ở đó các câu hỏi về chủ quyền là hoàn toàn khác với cách mà chúng được đặt ra hiện nay. Cho đến đầu thế kỷ thứ XVI, một loạt cácmandala Ấn hoá thống trị biển vùng Đông Nam Á. Không có một sự kế tục rõ rệt từ trung tâm quyền lực này tới cho một trung tâm kế. Việc hưng thịnh cũng như suy tàn của chúng đều diễn ra từ từ, và trong thời gian dài có những lúc chúng cùng tồn tại một cách hòa bình, thường thì không. Phù Nam, ở đồng bằng sông Cửu Long, nắm giữ ảnh hưởng từ thế kỷ I đến thế kỷ IV; Champa, nơi bây giờ là miền Trung Việt Nam, từ thế kỷ VI đến XVI; Sriwijaya, trên đảo Sumatra, từ thế kỷ VII đến XII; Angkor, ở hạ nguồn Mekong, từ đầu thế kỷ thứ IX đến thập niên 1430; Majapahit, trên đảo Java, từ thế kỷ XII đến XVI; và Malacca, trên bán đảo Malay, từ đầu thế kỷ XV cho đến khi người Bồ Đào Nha đến vào đầu thế kỷ XVI. Có những lúc thế lực cai trị trên bờ phía Bắc Biển Đông, khu vực mà ngày nay chúng ta gọi là Trung Quốc, can thiệp vào công việc của các chính thể khác nhưng hiếm hoi và chỉ trong một thời gian có hạn. Không có bất kì đất nước hoặc dân tộc nào ‘sở hữu’ Biển Đông dù theo bất cứ ý nghĩa nào. Được biết tháng 9 năm 1975, Đặng Tiểu Bình đã nói với Lê Duẩn rằng các đảo của Biển Đông ‘từ xa xưa đã thuộc về Trung Quốc.’[12] Cụm từ này xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên trong ba ấn phẩm Trung Quốc vào tháng 11 năm 1975.[13] Lời lẽ này đã được lặp đi lặp lại vô số lần từ đó nhưng, như chúng ta sẽ thấy, việc xem xét lại các bằng chứng cho chúng ta biết ý thức sở hữu này không phải có từ xa xưa mà chỉ rất gần đây.
(Còn tiếp)
B.H.
Dịch giả gửi BVN
[1] Phỏng vấn cá nhân, Singapore 1/6/2012.
[2] Kate Taylor, ‘Treasures Pose Ethics Issue for Smithsonian’, New York Times 24 Apr 2011.
[3] Phỏng vấn cá nhân, Singapore 1/6/2012.
[4] The origins of the word ‘China’ seem to come from Southeast Asia. See Chapter 3 of Anthony Reid,Imperial Alchemy: Nationalism and Politacal Identity of Southeast Asia,( Cambridge, 2011) and Geoff Wade, ‘The Polity of Yelang and the Origins of the name ‘China’, Sino-Platonic Papers, no. 18 (May 2009). Có thể đọc tại http://www.sino-platonic.org.
[5] Geoff Wade, ‘An Early Age of Commerce in Southeast Asia, 900-1300CE’, Journal of Southeas Asian Studies, vol. 40 (2009), 221-65.
[6] Trao đổi qua email, 12/12/2013.
[7] Quoted in Geoff Wade, ‘The Zheng He Voyage: A Reassessment’, ARI Working Paper, no. 31 (October 2004). Có thể xem tại http://www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps04_031.pdf.
[8] Ibid.
[9] Zhang Wei, ‘The Problem Encounter [sic] in the Protection of UCH (underwater cultural heritages)’, paper delivered at the 15th ICOMOS General Assembly and Scientifice Symposium in Xi’an, China 17-21 October 2005. Có thể xem tại http://www.international.icomos.org/xian2005/papers/4-45.pdf.
[10] Jeff Adams, ‘The Role of Underwater Archaeology in Framing and Facilitating the Chinese National Strategic Agenda’, in Tami Blumenfield and Helaine Silverman (eds), Cutural Heritage Politics in China (New York, 2013), 261-82.
[11] ‘China starts Building Bases for Reseaching Underwater Relics’, Xinhua 17March 2012.
[12] ‘On China’s Sovereignty Over Xisha and Nansha Islands’, Beijing Review, 24 August 1979, 24.
[13] Chi-Kin Lo, China’s Policy Towards Territorial Disputes: The Case of South China Sea Islands (London, 1989), 94.
http://www.boxitvn.net/bai/36677
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét