Bill Hayton
Phan Văn Song dịch
Hoàng Việt hiệu đính
Chương 5 (tiếp theo)
Được miếng và tay không: Dầu khí ở Biển Đông
(Something and Nothing: Oil and Gas in the South China Sea)
Trung tâm công nghiệp hydrocarbon của Việt Nam là thành phố Vũng Tàu trên bờ Biển Đông Nam của nước này. Từng là một khu nghỉ mát thực dân Pháp, sự cao sang của nó đã chịu thua sự thô ráp công nghiệp. Một phía của bán đảo dài là sân chơi cho các kỹ sư Nga với bụng chắc khoẻ và quần bơi nhỏ xíu. Phía khác, đối mặt với các cửa sông, bị lấn áp bởi các thùng chứa, bãi hàn. Giữa chúng là một dải các khu tháp không nổi bật và khách sạn có tên lạc quan là Grand Hotel mà vào ngày 4 tháng 6 năm 2007, BP Việt Nam chính thức chào đón tổng giám đốc mới Gretchen H. Watkins tại đó. Watkins đã bắt đầu trong vai trò kỹ sư cho Amoco và, sau khi công ty này được BP tóm thu, đã chuyển qua nhiều vị trí công tác ở London, Hà Lan và Canada. Trẻ và đầy tham vọng, bây giờ cô ấy đã có cơ hội để chứng tỏ bản thân mình ở chốn biên giới hoang sơ. Điều mà cô không biết là cấp trên tột cùng của cô, Giám đốc điều hành Tony Hayward của BP, đã giết chết cơ hội của cô. Cô dành một năm học bằng kinh nghiệm cay đắng về những nguy hiểm của việc cố tác nghiệp trong vùng biển mà cô có thể nhìn thấy từ cửa sổ Grand Hotel.
BP đã có mặt tại Việt Nam từ năm 1989 nhưng phải mất một thập kỷ để trở thành một trong số ít các công ty quốc tế làm ra tiền ở đó. Năm 2002 giàn khoan Lan Tây của họ tại Lô 6.1 cách bờ 362 km, bắt đầu bơm khí đốt xuống các đường ống dưới nước dài nhất thế giới đến một trạm phát điện trên cửa sông nhìn thấy từ Grand Hotel. Năm 2006 khí đốt của BP đã tạo ra trên 1/3 sản lượng điện của Việt Nam và sẽ nhiều hơn thế vì công ty có được quyền đối với hai lô thăm dò khác. BP nắm các lô này trong nhiều năm, chờ đợi để thấy thuyết phục rằng nền kinh tế của Việt Nam có thể tạo ra đủ nhu cầu đáng để mở rộng việc sản xuất điện, và do đó khí đốt. Vào đầu năm 2007, với việc nước này mới vừa trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới và các nhà đầu tư tên tuổi lớn đổ xô vào, BP cũng sẵn sàng ra sức. Ngày 6 tháng 3, BP công bố kế hoạch phát triển hai mỏ khí đốt mới ở Lô 5.2 và hoặc sẽ nối chúng với đường ống đang có hoặc xây dựng đường ống khác. Một nhà máy điện thứ hai sẽ được xây dựng trên bờ để biến khí thành nhiều điện hơn cho nước này và nhiều tiền hơn cho BP. Lịch thực hiện được để mơ hồ nhưng đối tác PetroVietnam của BP gợi ý khí đốt có thể đi vào hoạt động vào năm 2011.
Vào khoảng thời gian đó, đại sứ Trung Quốc ở Australia, Madame Fu Ying (Bà Phó Oánh), đã có kế hoạch riêng, chuẩn bị chuyển đến một vị trí mới ở London. Phó Oánh là một cố nhân của BP. Năm 2000, khi BP công bố kế hoạch phát triển Lô 6.1, bà đang là Tổng Giám Đốc Vụ Châu Á tại Bộ Ngoại Giao Trung Quốc. Theo một nhân vật cao cấp trong BP, bà đã đưa ra nhiều phản kháng rất mạnh mẽ với ban quản trị của BP ở Bắc Kinh và Đông Nam Á yêu cầu công ty dừng dự án vì nó đã xâm phạm yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc. Vào thời điểm đó, Giám Đốc Điều Hành BP là John Browne, một nhà quản lý kỳ cựu của nhiều trận chiến nơi biên giới. Ông chỉ đơn giản nhún vai với các phản đối của Phó Oánh và dự án tiếp tục. Nhưng ngày 1 tháng 5 năm 2007, Browne từ chức ở BP sau khi một vụ tai tiếng và Tony Hayward thay vào vị trí đó.
Phó Oánh đến London vào ngày 10 tháng 4, cũng là ngày mà Bắc Kinh công khai thù địch trong một cuộc chiến mới với BP. Trả lời một câu hỏi cò mồi từ một phóng viên truyền hình nhà nước Trung Quốc về các dự án khí mới, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Quốc Qin Gang (Tần Cương) tuyên bố, “hành động mới của Việt Nam [là] bất hợp pháp và không hợp lệ … không có lợi cho sự ổn định của khu vực Biển Đông”. Điều lạ là lô mà Bắc Kinh bây giờ lôi vào để phản đối với lô 5.2 thực tế lại gần với bờ biển Việt Nam hơn Lô 6.1 mà BP đang hoạt động. Không thành vấn đề: đó là một cơ hội cho Madame Fu có mà trả thù. Một trong những điều đầu tiên mà bà ta làm sau khi dọn xong hành lý ở London là yêu cầu có một cuộc họp với Giám Đốc Điều Hành mới toanh Tony Hayward. Công ty đã nắm bắt những gì đang đến nên đã triệu các nhà quản lý chóp bu tại Việt Nam về London để chuẩn bị cho các cuộc thảo luận. Họ đưa ra lý do mạnh mẽ để BP tiếp tục dự án rồi để vấn đề cho Hayward và nhóm của ông [giải quyết].
Đến năm 2007, BP là một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Trung Quốc. Danh mục đầu tư $42 tỷ của BP bao gồm nhiều cổ phần trong các nhà máy hóa dầu, sản xuất khí ngoài khơi, 800 trạm xăng, 30 % cổ phần ở các trạm khí tự nhiên hoá lỏng đầu tiên của nước này và một số doanh nghiệp khác. Madame Fu biết rất rõ điều này và ngày 18 tháng 5 năm 2007, bà đã dùng nó trong cuộc họp tại trụ sở BP. Bà đưa ra các phản đối của mình đối với các hoạt động của BP trong vùng biển tranh chấp và sau đó, theo một người trong cuộc, đã đưa ra hai cảnh báo cụ thể: thứ nhất, nếu công ty cứ tiến tới ở Lô 5.2 thì chính phủ Trung Quốc sẽ xem xét lại tất cả các hợp đồng mà họ đã trao cho BP; và, thứ hai, Trung Quốc không thể đảm bảo sự an toàn của bất cứ nhân viên BP làm việc trong các khu vực tranh chấp. Đó dường như là một lời đe dọa thẳng thừng đối với cả vận mạng thương mại của công ty lẫn mạng sống của người lao động tham gia thăm dò và sản xuất. Thiếu kinh nghiệm đối phó với các chế độ thô bạo như những người tiền nhiệm, Hayward lùi bước. Ông đã thực hiện một thỏa thuận với Phó Oánh: BP sẽ tiếp tục hoạt động Lô 6.1 nhưng sẽ tạm ngừng hoạt động tại Lô 5.2. Phó Oánh đã trả được thù.
Đó là đống bề bộn mà Gretchen Watkins thừa hưởng khi cô đến Vũng Tàu hai tuần sau đó. BP đã ký hợp đồng với PetroVietnam (đại diện cho chính phủ Việt Nam) và Công ty ConocoPhillips của Mỹ cam kết khảo sát và thăm dò ở Lô 5.2. Theo nguồn tin ngoại giao Mỹ do Wikileaks công bố, có vẻ BP đã không nói cho đối tác Mỹ biết về cam kết của Hayward với Phó Oánh mãi cho đến ngày 8 tháng 6, khi công ty hủy bỏ kế hoạch công việc của mình cho năm 2007. Cả ConocoPhillips lẫn PetroVietnam đều không muốn để vuột BP. Watkins thấy mình bất lực giữa một cơn bão địa chính trị và pháp lí. Ngày 13 tháng 6, tin tức rò rỉ rằng BP đã phải đình lại việc khảo sát địa chấn theo kế hoạch và hai ngày sau tại Hà Nội đại sứ Hoa Kỳ Michael Marine được đối tác Anh và ConocoPhillips đến viếng. Theo báo cáo của ông về hai cuộc họp (do Wikileaks công bố), ConocoPhillips than phiền rằng PetroVietnam đã đòi hỏi họ phải thực hiện hợp đồng công việc dù BP đã tạm ngưng. Đại sứ Anh, Robert Gordon, nói với ông rằng Anh đã phái một quan chức cấp cao của Bộ Ngoại Giao đến hội đàm với Chính Phủ Việt Nam.
Với việc BP nhượng bộ trước sức ép của Trung Quốc, ConocoPhillips không có nhiều lựa chọn ngoài việc phải làm theo. Công ty này có lợi ích kinh doanh nhỏ hơn ở Trung Quốc nhưng vẫn đáng kể, gồm mỏ Tây Giang phía Nam Hong Kong và phát triển mỏ Peng Lai (Bành Lai) ở Vịnh Bột Hải. Ngửi mùi chiến thắng, Bắc Kinh mở rộng chiến dịch. Cũng trong tháng đó, Bộ Ngoại Giao phàn nàn với chính phủ Nhật Bản về các hoạt động của tổ hợp gồm Idemitsu, Nippon Oil và Teikoku Oil, họ đang lập kế hoạch công tác khảo sát địa chấn ở hai Lô 5.1b và 5.1c (cạnh các lô của BP). Theo báo cáo của đại sứ Mỹ tại Tokyo do Wikileaks công bố, chính phủ Nhật Bản đã quyết định không đưa đẩy vấn đề này với Bắc Kinh và trong tháng 7, tập đoàn Nhật Bản đình chỉ kế hoạch của mình. Đầu tháng 8 năm 2007, giám đốc điều hành Chevron đã được toà đại sứ Trung Quốc ở Washington DC triệu tập đến và yêu cầu ngừng việc thăm dò của công ty ở Lô 122 của Việt Nam. Thông điệp được lặp lại một cách mạnh mẽ hơn tại một cuộc họp khác ở Bắc Kinh vào tuần sau. Yêu cầu này có vẻ thái quá. Lô 122 nằm ngay ngoài khơi bờ biển Việt Nam và chắc chắn trên thềm lục địa VN. Tuy nhiên, Chevron đã ký một hợp đồng rất lớn thuê nhượng khí ở Tứ Xuyên với PetroChina và có nhiều thứ để mất. Chevron đã đình chỉ hoạt động tại Lô 122 trước cuối tháng. Ngày 8 tháng 9, toà lãnh sự Trung Quốc tại Houston gửi cho một công ty dầu khí khác, Pogo, một lá thư bảo họ ngừng công việc tại Lô 124, cách lô 122 50 km về phía Nam.
Năm 2007, TQ ép Chevron ngưng thăm dò Lô 122 và Pogo ngưng công việc ở Lô 124 sát bờ biển VN
Madame Fu rõ ràng rất hài lòng với BP vì vào 31 tháng 8 năm 2007, bà đã thực hiện một chuyến đi đặc biệt tới tận nơi sản xuất dầu trên đất liền Wytch Farm của công ty ở miền Nam nước Anh, ở đó bà gợi ý rằng “hai bên có thể thực hiện trao đổi và hợp tác nhiều hơn nữa”. Bất thường đối với chuyến viếng thăm ở Dorset, người tiếp bà là John Hughes, phụ trách châu Á Thái Bình Dương của BP. Ông đã đặc biệt đề cập đến hi vọng của BP “thực hiện hợp tác chiến lược với các công ty dầu khí lớn của Trung Quốc”. Nhưng Bắc Kinh đã chưa tới hồi kết với BP. Bước tiếp theo là cố gắng sử dụng công ty để thúc ép chính phủ Việt Nam nhượng bộ chủ quyền. Theo một nhân vật cao cấp BP trong cuộc, chính phủ Trung Quốc đề nghị công ty tạo điều kiện để có các cuộc thảo luận giữa CNOOC và PetroVietnam về việc cùng phát triển ở Lô 5.2 và Lô 5.3 kế cận. Động cơ của CNOOC vừa lợi nhuận vừa chính trị: Chủ Tịch Công Ty Fu Chengyu (Phó Thành Ngoc) có tham vọng cao. Trụ sở chính của CNOOC tại Bắc Kinh đối diện trực tiếp với Bộ Ngoại Giao, Bộ chủ quản của Fu Ying, qua ngã tư đường Chaoyangmen (Chiêu Dương Môn). Trong hai năm 2007 và 2008, trục Fu-Fu (Phó Oánh- Phó Thành Ngọc) dường như là hai mặt của cùng một chính sách.
Đây thực sự là lần thứ hai mà CNOOC buộc BP làm trò mai mối: đã có một nỗ lực trước đó vào năm 2003. Sau đó, BP giới thiệu CNOOC cho PetroVietnam rồi quay đi. PetroVietnam đã lịch sự vui vẻ bàn luận một số chủ đề chung trong vài tháng cho đến cuối cùng họ nói thẳng rằng họ vui vẻ đón nhận CNOOC làm đối tác thương mại nhưng không thể nào trở thành đồng quản trị của các lô dầu khí của Việt Nam. Khi CNOOC quay lại cuộc đấu trong năm 2007, ông Fu đã có cái gì cụ thể hơn trong đầu: cổ phần trong hai lô 5.2 và 5.3. Cũng giống như các thỏa thuận mà Randall Thompson đã đề xuất thay mặt cho Crestone 15 năm trước, đó phải là một sắp đặt có hiệu quả – dưới vỏ bọc của việc “cùng phát triển” – hàm ý công nhận quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong vùng tranh chấp. Và lần này BP sẽ không được phép khoanh tay đứng ngoài các cuộc thảo luận. Thực tế, BP được sử dụng như một cánh tay trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
Ban Quản Trị cấp cao của BP ở London dưới quyền Tony Hayward dường như mù mờ về lịch sử và địa chính trị của tình hình mà bây giờ họ thấy mình rơi vào. Công ty tiếp tục hoạt động trên cơ sở rằng điều này có thể chỉ là một cuộc làm ăn mạo hiểm khác, rằng CNOOC có thể bị mua chuộc với một thỏa thuận thương mại và rằng tranh chấp chủ quyền có thể để cho các chính phủ xử lí. Công ty dường như không nhận ra rằng đó chính là tranh chấp chủ quyền. Trong hơn một năm Gretchen Watkins và các giám đốc điều hành khác bay qua lại giữa Hà Nội và Bắc Kinh chuyển các thông điệp giữa hai công ty dầu khí nhà nước. BP đề xuất phát triển các dự án trong các khu vực mới, các dự án có lợi ích đối ứng cho cả hai bên, và tự thuyết phục rằng một thỏa thuận có khả năng xảy ra. BP thậm chí đổi chức danh của Watkins thànhTổng Giám Đốc Thăm Dò và Sản Xuất BP Việt Nam và Trung Quốc. Không ngạc nhiên là chẳng có tiến bộ nào. Việt Nam không lung lay về chủ quyền còn CNOOC chẳng quan tâm đến thỏa thuận thương mại. Nhưng phải mất vài tháng để Hayward và nhóm của ông cuối cùng mới hiểu được. Họ quan tâm nhiều hơn nữa tới mỏ tiềm năng rất lớn mở ra ở Vịnh Mexico. Đối với họ, Đông Nam Á là một màn diễn phụ.
Watkins và ban quản trị khu vực của BP đã cố tìm lối thoát. Họ biết họ không thể đáp ứng nghĩa vụ hợp đồng để hoàn thành khảo sát địa chấn vào cuối năm 2008. Thay vào đó, vào đầu năm đó, BP và ConocoPhillips lặng lẽ chuyển quyền tác nghiệp hai Lô 5.2 và 5.3 cho PetroVietnam. Họ tiếp tục sở hữu quyền đối với hai lô này nhưng việc xếp đặt này có nghĩa là họ có thể tránh việc phái tàu của họ vào vùng biển tranh chấp. Ngày 13 tháng 5 năm 2008, Watkins thông báo cho đại sứ Mỹ Michael Michalak mới được bổ nhiệm tới Hà Nội về sắp xếp này, nói với ông rằng BP và ConocoPhillips không có kế hoạch báo chính phủ Trung Quốc về sự thay đổi trong vai trò tác nghiệp. Hai tuần sau đó, nhà chính trị quyền lực nhất ở Việt Nam, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đã đến Bắc Kinh hội đàm trong ba ngày. Cùng đi với ông là Chủ Tịch PetroVietnam, đã có các cuộc thảo luận riêng với Chủ tịch Fu của CNOOC. Sau đó ông Fu đã đến Hà Nội để đàm phán với PetroVietnam nhưng vẫn không có bước đột phá. Tin tức về cuộc khảo sát của PetroVietnam đã rò rỉ ra trong tháng 7 nhưng Trung Quốc dường như quá bận tâm với Olympic Bắc Kinh sắp xảy ra để có bất kỳ hành động đáp trả nào.
Mọi thứ với Watkins đã quá đủ. Sự phát triển mỏ khí đốt đã bị đình trệ và toàn bộ kỹ năng của cô không bao gồm các cuộc đàm phán địa-chính trị. Sự nghiệp của cô không đi đến đâu với BP Việt Nam vì vậy, vào tháng 7 năm 2008, cô đã đánh đổi vai cỡ trung trong một tập đoàn khổng lồ để lấy một vai lớn hơn trong tập đoàn tương đối nhỏ, là Phó Chủ Tịch Điều Hành Sản Xuất Quốc Tế cho Marathon Oil, một công ty với ít tranh chấp chủ quyền phải xử lí. Kế nhiệm cô là một người Mỹ khác, Luke Keller, cựu chủ tịch của công ty con Atlantic Richfield của BP và có nhiều năm kinh nghiệm với các chính phủ hay tranh cãi, từ Texas tới Azerbaijan. Tuy nhiên, đến thời điểm này, ban quản trị của BP đã nhận ra là trò chơi đã mãn và vào cuối tháng 11 năm 2008 họ đã bắn tin cho PetroVietnam. BP muốn rút ra. BP lặng lẽ chuyển không cổ phần của mình trong hai Lô 5.2 và 5.3 cho PetroVietnam và xoá sổ $ 200 triệu họ đã đầu tư vào chúng. Quyết định này buộc ConocoPhillips cũng làm như vậy vào tháng 12. Madame Fu đã giành thắng lợi cuối cùng.
BP có thể nào chơi khác đi không? Kinh nghiệm của một công ty dầu khí khác – lớn nhất thế giới – cho thấy họ có thể. ExxonMobil cũng nhận các đe dọa từ nhà chức trách Trung Quốc – và họ cứ phớt lờ. Trong nhiều năm, ExxonMobil không thành công bằng BP trong việc thâm nhập thị trường Trung Quốc. Vốn đầu tư lớn duy nhất của họ là 22,5 % cổ phần trong một dự án lọc dầu và hóa dầu ở Phúc Kiến. Toà Lãnh sự Hoa Kỳ ở đó lưu ý rằng dự án này đã có nhiều điều phải làm với các mối quan hệ và vốn chính trị tiềm năng mà họ trao cho chính phủ Trung Quốc hơn bất kỳ đóng góp quan trọng nào từ ExxonMobil. Ngay cả các vị trí của dự án, ngay trong vùng biển cách Đài Loan, đã được xem như là một phương tiện để đạt được đòn bẩy ngoại giao tác động lên Hoa Kỳ nếu như có bất cứ một cuộc khủng hoảng nào giữa Bắc Kinh và Taipei (Đài Bắc). Công ty cũng có các con bài khác để chơi. Trung Quốc gần như vô vọng trong việc tăng nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên và ExxonMobil đã phát triển một dự án lớn ngay trên biên giới Đông Bắc của TQ trên đảo Sakhalin của Nga. Đối tác Nga của nó, Gazprom, muốn bán khí đốt trong nước nhưng ExxonMobil muốn xuất khẩu. Bắc Kinh khó thể nào xa lánh Exxon quá nhiều. Quan trọng không kém, và hoàn toàn trái ngược với các công ty của Anh và Nhật Bản, ExxonMobil có thể dựa vào chính phủ Hoa Kỳ để tạo sức ép cho vụ việc của mình với nhà chức trách Trung Quốc.
Tháng Giêng năm 2008, người đứng đầu mới về thăm dò đến Việt Nam: Russ Berkoben. Ông làm việc với ExxonMobil 32 năm, trong đó có thời gian làm người đứng đầu thăm dò ở Trung Quốc. Ngay sau đó công ty đã ký một bản ghi nhớ với PetroVietnam để thăm dò các Lô 156 đến 159. Các lô xa nhất ngoài khơi mà Việt Nam chưa từng cho thuê nhượng. Góc Đông Nam của Lô 159 cách bờ biển Việt Nam hơn 500 km – nằm ngay trong vùng biển tranh chấp. ExxonMobil cũng đang đàm phán nghiêm túc về việc thuê nhượng các Lô 117, 118 và 119 chỉ ngay ngoài khơi bờ biển miền Trung Việt Nam. Ngày 20 tháng 7 năm 2008, Greg Torode của báo South China Morning Post ở Hong Kong đưa tin rằng các nhà ngoại giao Trung Quốc tại Washington đã cảnh cáo ExxonMobil rằng triển vọng làm ăn của họ tại đại lục Trung Quốc có nguy cơ bị mất. Người cung cấp tin cho Torode là một quan chức cấp cao của Chính Phủ Obama, vốn đã được một giám đốc điều hành của ExxonMobil báo cáo tóm tắt.
Vào cuối tháng 8 có vẻ như người Trung Quốc đã coi sự việc nghiêm trọng. Liên doanh theo kế hoạch của ExxonMobil về xây dựng một cơ sở khí tự nhiên hóa lỏng $1 tỷ tại Hong Kong đã bất ngờ bị hủy bỏ. Giám đốc điều hành công ty nói với các nhà ngoại giao Mỹ họ không nghĩ rằng lý do là từ tranh chấp Việt Nam – thỏa thuận này đã bị các nhà hoạt động môi trường địa phương phản đối mạnh – nhưng có vẻ rằng người Trung Quốc đã lợi dụng để đe dọa. Sau đó, trớ trêu là ExxonMobil lại bị Việt Nam trừng phạt bởi vì họ đang bị Trung Quốc trừng phạt. ExxonMobil đã đàm phán với PetroVietnam trong hơn một năm về 4 lô (các Lô 129-132, giữa Lô 156 và bờ biển) nhưng tháng 10 năm 2008 PetroVietnam lại trao chúng cho Gazprom của Nga. Berkoben nói với Đại sứ Michalak rằng PetroVietnam sợ rằng ExxonMobil sẽ chịu thua dưới áp lực của Bắc Kinh. Tháng 7 năm 2008, các nhà ngoại giao Nga đã nói với đối tác Mỹ rằng Trung Quốc chẳng gây sức ép nào lên các công ty Nga – và có lẽ các nhà chức trách Việt Nam cũng biết được điều đó.
ExxonMobil không phải là công ty duy nhất coi thường sự cưỡng ép của Trung Quốc. Công ty năng lượng ONGC Videsh của Ấn Độ (một đối tác với BP tại lô 6.1 và cũng là người thuê các lô 127 và 128), KNOC của Hàn Quốc và một số công ty nhỏ hơn không có nhiều lợi ích ở Trung Quốc – như Premiers của Anh và Talisman của Canada – cũng phớt lờ TQ. Bắc Kinh đã thử những cách khác để gây sức ép. Tháng 10 năm 2007, Mike Bruce, Giám Đốc Tài Chính của Pearl Energy ở Singapore, nhận được một cú gọi từ toà đại sứ Trung Quốc. Nhà ngoại giao nói với Bruce rằng công ty của ông đã tiến hành thăm dò trái phép trong vùng biển của Trung Quốc và mời ông đến đại sứ quán để thảo luận. Bruce từ chối và thay vào đó mời phía Trung Quốc đến chỗ của ông. Một vài ngày sau, một đoàn đại biểu đến đúng hẹn và báo cho nhà quản trị Pearl Energy rằng họ đã biết công ty đã có một tàu khảo sát đang ở hiện trường (tại Lô 6.94, gần như bao quanh Lô 6.1 của BP). Theo Bruce, họ doạ sẽ gây sức ép lên Chính Phủ Singapore vì Pearl được niêm yết trên thị trường chứng khoáng Singapore. Nhưng khi Bruce báo với họ rằng Pearl không còn trên danh sách ở Singapore sau khi được Aabar Energy của Abu Dhabi mua lại một năm trước đây, mặt họ thụng xuống. “Ô, thế thì khác,” người phụ nữ dẫn đầu nhóm nói và Pearl chẳng bao giờ nghe thấy họ lần nữa.
Đến đầu năm 2009, công ty duy nhất có quyền lợi ở Trung Quốc vẫn còn khai thác ngoài khơi Việt Nam là ExxonMobil. Ngày 30 tháng 6, họ đã ký một hợp đồng phân chia sản phẩm với PetroVietnam cho hai nhóm lô (các Lô 156-159 ở phía Đông Nam hoang sơ và các Lô 117, 118 và 119 ngoài khơi Đà Nẵng), khiến họ trở thành chủ sở hữu diện tích ngoài khơi lớn nhất ở Việt Nam. Một tuần trước Russ Berkoben đã đến Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội giải thích rằng buổi lễ sẽ được tổ chức im ắng để tránh làm Trung Quốc tức giận. Ông nhận là không biết chắc về phản ứng có thể có của họ nhưng nói ExxonMobil đã “sẵn sàng nếu Trung Quốc phản ứng”. Phần thưởng của Berkoben tới chỉ hơn một năm rưởi sau đó, vào tháng 10 năm 2011, khi công ty tìm được trữ lượng khí đốt tiềm năng rất lớn tại Lô 118. Công việc thăm dò vẫn tiếp tục trong các lô khác.
Với công ty ExxonMobil ngoại lệ, mọi công ty dầu bị buộc phải lựa chọn hoặc hoạt động tại Trung Quốc, hoặc trong vùng biển do một trong các nước khác tuyên bố chủ quyền. ConocoPhillips đã bỏ hai Lô 5.2 và 5.3 vào tháng 12 năm 2008 nhưng vẫn giữ cổ phần trong hai lô khác ngay cạnh bờ biển Việt Nam, cách xa mọi rắc rối với Trung Quốc. Tháng 2 năm 2012, họ rời khỏi đất nước này hoàn toàn để chú tâm vào các liên doanh nhiều lợi nhuận hơn. Chevron giữ lại 20 % cổ phần của mình tại Lô 122 nhưng đình chỉ tất cả các hoạt động ở đó cho đến khi bán xong hết vào đầu năm 2013. Điều đó có vẻ làm Bắc Kinh hài lòng vì vào năm 2010, Chevron đã được trao cổ phần ở ba giếng ở phần phía Bắc Biển Đông, ngoài khơi đảo Hải Nam. Vào lúc viết sách, giữa năm 2014, được biết Chevron đang cố gắng để giảm đi sự quan tâm còn lại của nó ở VN – hai lô ngoài khơi bờ biển phía Tây Nam, gần biên giới biển với Indonesia và Malaysia.
BP vẫn làm ăn ở Việt Nam, điều hành công việc ban đầu chuyển khí-ra-điện từ Lô 6.1. Nhưng sau đó, vào tháng 7 năm 2010, vận đỏ ở Vịnh Mexico của Tony Hayward biến thành thảm họa. Công ty này bất thình lình cần $ 30 tỷ để trả tiền bồi thường sau vụ nổ giàn khoan Deepwater Horizon và dầu tràn. Ngày 18 tháng 10 năm2010, BP bán nguồn lợi của mình ở Việt Nam và Venezuela cho TNK-BP, liên doanh Nga của họ, với giá tổng cộng $ 1,8 tỉ. Có lẽ họ cảm thấy người Nga có thể chịu được nhiệt. BP đã có một sứ mạng khác cho bàn tay bình ổn của Luke Keller. Ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ Tịch Điều Hành Tổ chức Phục Hồi Bờ Vịnh của BP- giúp làm sạch đống ngổn ngang dầu tràn. Một vài tuần trước vụ bán, ngày 21 tháng 9 năm 2010, Tony Hayward đã gặp Phó Oánh một lần nữa. Sau những thành công ở London, bà đã được bổ nhiệm làm Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc. Hayward mang theo người kế nhiệm Bob Dudley. Đó là một trong những nhiệm vụ chính thức cuối cùng của Hayward cho BP. Chín ngày sau đó, ông không còn Giám đốc điều hành nữa.
Số phận Fu Chengyu không được chức cao cũng không bị thất sủng. Mặc dù đã gây sức ép nhiều mặt, CNOOC một lần nữa đã thất bại trong việc nắm quyền truy cập vào các nguồn tài nguyên dầu tiềm năng quanh những chốn xa xôi ở Biển Đông. Không có phần thưởng chính trị nào cho người lãnh đạo đầy tham vọng của công ti. Giải khuyến khích của ông là vào tháng 4 năm 2011, được điều sang Sinopec, công ty lọc dầu lớn nhất châu Á và là một đối thủ lờ đờ của CNOOC. Tài kinh doanh của ông Fu là rõ ràng: lợi nhuận CNOOC đã tăng gấp 5 lần trong thời gian ông điều hành, Đảng Cộng sản Trung Quốc cảm thấy ông sẽ đáng giá hơn trong vai nhà chỉnh đốn công nghiệp chứ không phải trong vai người gở rối địa chính trị.
***********
Đến cuối năm 2010 chiến dịch của Bắc Kinh đã buộc BP và ConocoPhillips phải ngừng thăm dò bên trong “đường chữ U” và JMSU đã tạo một tiền lệ về lựa chọn mà Trung Quốc ưa thích hơn. Tuy nhiên, chính phủ mới ở Philippines và các chính phủ cũ tại Việt Nam, Brunei và Malaysia đã không lung lay về chủ quyền, và sự cám dỗ của lợi nhuận tiềm năng vẫn đủ mạnh để thu hút các công ty khác, ít lo lắng hơn bởi áp lực của Trung Quốc, thử đưa tay vào vùng biển tranh chấp. Bắc Kinh đã dùng cạn hết đòn bẩy thương mại, nên bây giờ việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ sẽ đòi hỏi những kỹ thuật ít tinh tế hơn.
Ngày Thứ Tư 2 tháng 3 năm 2011, tàu khảo sát địa chấn MV Veritas Voyager (do công ty địa vật lý Pháp CGG Veritas làm chủ) đã bắn súng áp suất mạnh mẽ trên khu vực Bãi Cỏ Rong (Reed Bank), khu biển cạn ngoài khơi cách Palawan khoảng 160 km. Bốn sợi cáp thuỷ âm dài 2.700 mét kéo phía sau, thu nhặt sóng âm phản xạ lại từ các lớp đá hàng ngàn mét dưới đáy biển. Ngồi trong trung tâm chỉ huy hoạt động chiến đấu ở Puerto Princesa, thủ phủ tỉnh Palawan, Trung tướng Juancho Sabban, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Miền Tây Lực Lượng Vũ Trang Philippines, đang chờ một điều gì đó xảy ra. Tàu Voyager đã khảo sát được gần hai tháng và các thông báo cảnh báo về các hoạt động của nó được đăng trên website tuần duyên. Đoàn khảo sát trên tàu đã nhìn thấy một tàu Trung Quốc vào ngày 28 tháng 2 và ngày hôm sau đã nhận được một hộ tống không mong muốn. Một tàu Hải Giám Trung Quốc (CMS) đã đến cách Voyager khoảng 100 mét và ra lệnh cho nó rời đi.
Tàu Voyager đang hợp đồng với công ty Forum Energy đăng ký ở Anh (dù do Philippines kiểm soát). Năm 2005, ngay khi cuộc khảo sát của JMSU nói ở trên sắp bắt đầu, Forum tiếp nhận một lô thăm dò từ một công ty Sterling Energy của Anh – ngay ở giữa khu vực của JMSU. Eduardo Manalac đã đảm bảo với đối tác Trung Quốc rằng việc thuê nhượng thăm dò của Forum sẽ được phép kéo dài thêm một ít nữa nhưng những người khác trong chính phủ Philippines bị lung lay do vận động của Forum. Ngày 10 tháng 2 năm 2010, hợp đồng thuê đã được nâng thành một hợp đồng dịch vụ đầy đủ, SC72. Manalac rất tức giận còn Forum thì hớn hở. Các cuộc khảo sát trước đó đã gợi ra rằng khu mỏ tiềm năng Sampaguita bên trong lô này chứa 3,4 nghìn tỷ feet khối khí đốt. Bây giờ chỉ cần định ra chính xác chỗ để khoan.
Vì Voyager tiếp tục khảo sát, mỗi ngày Chủ Tịch Ray Apostol của Forum đều tiếp xúc với Tướng Sabban. Ngày 2 tháng 3, ông gọi Sabban trong hốt hoảng. Hai tàu Hải Giám (71 và 75) đã chạy ngang mũi tàuVoyager và ra lệnh cho nó rời khỏi khu vực. “Chúng tôi đang xếp mọi thứ lại”, ông nói với viên tướng. Sabban bảo ông ta ra lệnh cho đoàn khảo sát ở lại và hai máy bay định vị không vũ trang OV10 bay lên. Khi họ đến khu vực này, hai giờ sau đó, các tàu Trung Quốc đã biến mất. Sau đó, ông triển khai tàu quét mìn BRP Rizal, đóng vào năm 1944, và BRP Rajah Humabon, đóng vào năm 1943. Hai tàu này đã cũ nhưng đủ tác dụng làm các tàu Hải Giám tránh xa Voyager thêm bảy ngày nữa, cho phép nó để hoàn thành khảo sát trước thời hạn.
Mười hai tuần sau đó, Hải Giám đã thử dùng một chiến thuật hung hăng hơn ở phía bên kia biển. Tàu khảo sát Bình Minh, thuộc công ty liên doanh giữa PetroVietnam và CGG Veritas, đang làm việc tại Lô 148, cách cảng Nha Trang của Việt Nam 120 km về phía Đông. Sáng sớm ngày 26 tháng 5 năm 2011 ba tàu Hải Giám 12, 17 và 84, xuất hiện ở chân trời và sau đó tới gần. Hai tàu đánh cá đang canh chừng tàu Bình Minh nhưng không thể bảo vệ toàn bộ sợi cáp 17 000 mét kéo sau nó. Tàu Hải Giám 84 chạy băng ngang qua sợi cáp, cố ý cắt đứt nó. May mắn cho Việt Nam, sợi cáp thuỷ âm nhiều triệu đô la được trang bị với phao cấp cứu đã đưa nó lên trên mặt nước để phục hồi. Hư hại đã được sửa chữa và tuần sau đó Bình Minh 02 trở ra biển đi kèm với 8 tàu hộ tống.
Hai tuần sau đó, một tàu địa chấn khác, lần này hợp đồng chung của PetroVietnam và công ty Talisman của Canada, đã bị chặn phá tại Lô 136-03, ở phía cực Đông Nam vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) do Việt Nam tuyên bố của mình. Lô này ở ngay phía Nam 3 lô mà ConocoPhillips đã bỏ hồi năm 2008 và bao gồm một phần lô WAB-21 của Randall Thompson. CGG Veritas cũng là chủ tàu này, chiếc Veritas Viking 2. Tuy nhiên, lần này, kẻ tấn công không phải là Hải Giám mà là Ngư Chính (FLEC) Trung Quốc. Và lần này, Trung Quốc đưa ra một nguyên cớ phức tạp để biện minh cho việc cắt cáp. Một đội nhỏ tàu cá Trung Quốc xuất hiện trong khu vực khảo sát và cứ ở lại đó bất chấp cảnh báo từ một tàu Cảnh Sát Biển Việt Nam yêu cầu rời đi. Ngày hôm sau, 9 tháng 6, lúc các tàu Ngư Chính 303 và 311 chạy phía trước tàu Viking thì tàu đánh cá số 62226 chạy băng ngang các sợi cáp phía sau. Lưới tàu đánh cá bị vướng và tàu bị kéo ngược trên biển. Sau đó, các tàu Ngư Chính vội vả đến giúp tàu đánh cá cắt các cáp truyền theo điều mà nhà chức tráchTrung Quốc tuyên bố sau này là một hành động tự bảo đảm an toàn.
Ba sự cố này trong nửa đầu năm 2011 đã kích động làn sóng chỉ trích giận dữ trên toàn khu vực Đông Nam Á và bên ngoài về việc “bắt nạt” của Trung Quốc. Bốn sự cố khác tiếp sau: Bình Minh 02 bị cắt cáp lần thứ hai vào ngày 30 tháng 11 năm 2012 tại Lô 113 (gần Quần đảo Hoàng Sa, do Gazprom thuê) và hai sự cố khác trong EEZ của Malaysia ngoài khơi đảo Borneo ngày 21 tháng 8 năm 2012 và một sự cố khác nữa ngày 19 tháng 1 năm 2013 trong đó tàu của chính phủ Trung Quốc đã ngăn chặn công việc khảo sát dầu. Một số người chộp lấy những hành động này của các cơ quan phụ trách biển của Trung Quốc như là bằng chứng về ý định thù địch của Bắc Kinh. Họ cũng cung cấp nhiều bằng chứng cho thấy rằng nhiều bộ phận của nhà nước Trung Quốc – CNOOC, Hải giám và Ngư Chính – coi đường “chữ U” là một yêu sách thực đối với 80 % Biển Đông. Tất cả các sự cố đều xảy ra ở cách xa bất kỳ thể địa lý nào theo yêu sách của Trung Quốc và do đó dường như không phù hợp với bất kỳ yêu sách nào dựa trên UNCLOS. Khi chỉ trích tăng lên, lãnh đạo Bắc Kinh dường như đã nhận ra rằng Hải Giám và Ngư Chính đã đi quá xa. Tháng 3 năm 2013, chính phủ công bố kế hoạch đưa tất cả các cơ quan phụ trách biển khác nhau (Cục Quản Lý Hải dương Quốc Gia, bao gồm Hải giám Trung Quốc, thuộc Bộ Đất Đai và Tài Nguyên; Hải Cảnh Trung Quốc, thuộc Bộ Công An; Cục An Toàn Hàng Hải, thuộc Bộ Giao Thông; Ngư Chính thuộc Bộ Nông nghiệp; và Tổng cục Hải quan) dưới sự quản lý duy nhất. Kể từ đó, ít nhất cho đến thời điểm viết sách, chưa có thêm những sự cố như vậy.
Chiến lược này thành công đến mức nào? Loại Việt Nam ra – nó đã thất bại: việc cắt cáp không ngăn được việc tiếp tục thăm dò và Talisman dự kiến sẽ khoan ở Lô 136-03 vào cuối năm 2014. Tuy nhiên, ngoài khơi Philippines chiến lược đó có hiệu quả hơn nhiều. Forum không thể bắt đầu khoan trên khu vực Bãi Cỏ Mây và trong điều kiện Philippines không có khả năng dùng sức mạnh bảo vệ yêu sách của mình với những tàu chiến cũ kĩ, Trung Quốc bây giờ, trên thực tế, đã thiết lập được một phủ quyết đối với sự phát triển ở đó. Ban quản trị Forum đã tham gia vào nhiều cuộc thảo luận dài với CNOOC, nhưng vào thời điểm viết sách, không có dấu hiệu của bước đột phá. Các nhà chính trị Philippines có một sự lựa chọn: họ sẽ xuống nước về chủ quyền để cải thiện an ninh năng lượng không? Có phải bảo vệ yêu sách lãnh thổ với hi vọng giành được phần trăm tài nguyên trong tương lai là tốt hơn, nhưng trong khi chờ đợi không có được gì cả; hoặc có phải bây giờ thỏa hiệp với hi vọng được nhanh chóng chia một phần của một cái gì đó là khôn ngoan hơn?
**********
CNOOC và các cơ quan khác của Bắc Kinh đã thực hiện những nổ lực to lớn để cố giành được quyền tiếp cận với các nguồn tài nguyên hydrocarbon xung quanh Biển Đông. Nhưng để đổi lại tất cả các nỗ lực đó họ có khả năng nhận lại cái gì? Một trong những nơi tốt nhất để đánh giá thật khách quan về tiềm năng dầu khí của Biển Đông là quán rượu Penny Black ở khu nhìn ra biển cũ ở Singapore. Đó là một nơi bia rượu ồn ào với các bàn luận thể thao là chính. Nhưng cái ồn ào ngang ngạnh lại chồng chéo với một kiến thức sâu sắc về các cấu trúc địa chất. Penny Black là nợi tu họp của một nhóm nhỏ các chuyên gia tư vấn địa chất và địa vật lí, những người đã dành nhiều thập kỷ khảo sát các vùng Biển Đông Nam Á. Hầu hết họ là người Anh trong độ tuổi bốn và năm mươi, thành viên của the Southeast Asia Petroleum Exploration Society (SEAPEX: Hội Thăm Dò Dầu Đông Nam Á), và họ có thể đã và đang làm việc cho tất cả những ai đã từng cố tìm hydrocarbon trong khu vực này. Họ đã nhìn thấy hàng chục công ty nhảy vào khu vực này và hầu hết đều khập khiễng bước ra. Họ đã giúp một số làm ra tiền và một số khác nhận ra chẳng còn gì để làm ra tiền. Sinh kế của họ phụ thuộc vào việc giữ những bí mật thương mại và với nhiều tỷ đô la đặt cược họ không thể quá cụ thể nhưng nhiều gợi ý có thể được đưa ra cùng những cái lắc đầu.
Trí tuệ tập thể là đáng ngạc nhiên. Các chuyên gia này tin rằng các khu vực tranh chấp ở Biển Đông thực sự chứa tương đối ít dầu và khí đốt. Phần lớn các nguồn tài nguyên biển đều nằm bên ngoài “đường chữ U”. Có một số mỏ tốt và mỏ tiềm năng đáng chú ý bên trong khu vực Trung Quốc yêu sách, nhưng các nhà địa học của Penny Black tin rằng khả năng này là không đáng để làm to chuyện khu vực tạo ra. Một sự hiểu biết đúng đắn sẽ đòi hỏi trình độ cử nhân địa chất nhưng lời giải thích lúc trà dư tửu hậu là các khảo sát địa chấn đang tìm kiếm ba điều: đá [mẹ] sinh dầu (souce rock for hydrocarbon), bể chứa (reservoir), nơi mà hydrocarbon có thể tích chứa ở đó và tầng chắn (seal) để đảm bảo rằng chúng không biến đi. Chỉ có một vài nơi trong quần đảo Trường Sa là có đủ ba điều này. Trong kỷ Miocene, 30 triệu năm trước, nhiều rạn san hô lớn đã hình thành trên biển, và khi lớp vỏ đất di chuyển và mực nước biển thay đổi, các rạn san hô này cao dần lên, hình thành các bãi đá carbonate dầy. Những đá carbonate xốp và dầu khí vốn có thể đã được hình thành trong các kỷ trước có thể đã bị bốc hơi hoặc trượt đi. Với lớp carbonate dày lên đến 3 000 mét, rất khó để có được các khảo sát chính xác về những gì nằm bên dưới. Nếu không có một khảo sát chính xác, ai sẽ mạo hiểm hàng triệu đô la cần cho việc khoan một giếng dầu?
Ở trung tâm khu vực tranh chấp, có tin thậm chí còn tồi tệ hơn. Chỗ cuối thềm lục địa, đáy biển tụt mạnh từ 200 mét xuống 2 000 mét và xuống sâu tới 6 000 mét ở một số nơi. Sau nhiều năm làm việc trên hàng chục dự án, kể cả cho khảo sát bị gián đoạn năm 2011 của Forum, Jon Savage biết Biển Đông cũng rõ gần như Penny Black. Lời phán của ông về vùng biển sâu là gì? Đó chủ yếu là lớp vỏ đại dương, không có đá mẹ cho dầu và khí đốt, không có bể chứa để dầu khí có thể tích chứa trong đó và không có tầng chắn để ngăn rò rỉ. Tóm lại, “không có tiềm năng dầu khí”, ông nói trong một hôi nghị tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 11 năm 2013. Ý kiến đó được hầu hết tất cả mọi người trong ngành công nghiệp này chia sẻ. Vậy tại sao các nguồn của Trung Quốc tiếp tục làm ầm ĩ điều ngược lại?
Câu trả lời dường như nằm ở sự kết hợp của tín điều và cơ hội. Sau màn phô trương chào đón các cuộc khảo sát ban đầu của Trung Quốc trong thập niên 1980 và các thao tác của các cơ quan nhà nước chủ chốt trong việc đảm bảo nguồn cung năng lượng mới cho đất nước, quá nhiều người có lợi ích trong việc đề cao Biển Đông như là món thuốc chữa vạn năng cho năng lượng. Chẳng hạn, tháng 9 năm 1994, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên, Song Ruixang (宋瑞祥: Tống Thuỵ Tường), tuyên bố rằng Quần đảo Trường Sa “hứa hẹn một tiềm năng dầu là 30 tỷ tấn” (khoảng 220 tỷ thùng). Một khi mà các nguồn tin chính thức đã công bố thì những con số đều phải đúng – và là giải pháp cho khủng hoảng quốc gia – rất khó để cho bất kỳ quan chức nào khác tuyên bố chúng vô nghĩa. CNOOC được giao nhiệm vụ phát triển các nguồn dự trữ rộng lớn này và trở thành một tiếng nói mạnh mẽ trong hệ thống khuếch đại tiềm năng của Biển Đông. Trữ lượng có vẻ càng lớn thì lý do càng mạnh để giành thêm kinh phí từ nhà nước.
Nhưng có một sự khác biệt rất lớn giữa “tài nguyên” (resources)- cái nằm dưới lòng đất – và trữ lượng (reserves) – phần có thể rút lấy được. Thông thường, có thể đưa khoảng 1/3 nguồn tài nguyên lên mặt đất về mặt kỹ thuật trong khi chỉ có thể đưa khoảng 1/10 lên mặt đất về mặt thương mại. Ước tính minh bạch và có thẩm quyền nhất mới đây về tiềm năng dầu khí của Biển Đông là từ US Geological Survey (USGS -: Cơ quan Khảo sát Địa chất của Mỹ ) hồi tháng 6 năm 2010 và US Energy Information Administration (Cơ Quan Thông Tin Năng Lượng Mỹ) vào tháng 2 năm 2013. Cơ Quan Thông Tin Năng Lượng ước tính Biển Đông chứa chỉ 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí đốt như là trữ lượng có thể khai thác thương mại được. Tức là nó có gần như cùng số lượng dầu với Mexico và cùng số lượng khí như ở Châu Âu (trừ Nga). Dựa trên những gì được biết về địa chất của khu vực, USGS ước tính nguồn tài nguyên chưa được phát hiện vào khoảng 11 tỷ thùng dầu (với ước tính thấp và cao từ 5 đến 22 tỷ thùng) và 4 tỷ thùng khí tự nhiên lỏng – tổng số kết hợp là 15 tỷ thùng. USGS ước tính rằng nguồn khí chưa được khám phá có thể là quan trọng hơn – một con số giữa 70 và 290 nghìn tỷ feet khối. Như vậy, nguồn tài nguyên chưa được phát hiện có thể gần giống y như con số hiện tại của trữ lượng.
Tuy nhiên, những con số này là cho toàn bộ Biển Đông, kể cả các khu vực nằm chắc trong EEZ của các nước khác. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ của những con số nói trên là nằm trong lãnh thổ tranh chấp và chỉ có 1/10 của tỷ lệ đó là thu hồi được về mặt thương mại. Những mỏ tiềm năng này có thể tạo ra một tác động đáng kể trong nền kinh tế của các nước nhỏ, các nền kinh tế nghèo như Philippines hay Việt Nam. Nhưng trong tình huống Trung Quốc tiêu thụ khoảng 3 tỷ thùng dầu và khoảng 5 nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên mỗi năm, trữ lượng và tài nguyên của Biển Đông hầu như không đáng để đem tất cả hỗn loạn và căng thẳng (Sturm und Drang) vào chúng. Ngay cả khi mỗi giọt dầu và mỗi bóng khí đều được chuyển tới Trung Quốc thì chúng cũng chỉ cung cấp năng lượng cho nền kinh tế của đất nước may lắm là trong một vài năm. Địa chất không thuận lợi lại ở vị trí dễ bị bão còn các cơ sở hạ tầng phục vụ thì kém phát triển. Tony Regan, cựu giám đốc điều hành Shell, hiện là chuyên gia tư vấn năng lượng đóng ở Singapore, nói thẳng thắng về các mỏ tiềm năng thương mại ở Biển Đông. “Khu vực này không bao giờ có ý nghĩa đối với các công ty dầu mỏ lớn và hiện nay họ cũng không tin nó là điều gì to tát kế tiếp. Có nhiều khu vực xa hấp dẫn hơn xa bên ngoài – Tây Úc và Đông Phi chẳng hạn và tất nhiên phải kể khí đốt từ các vỉa than và đá mềm theo quy trình mới”. Nói cách khác, có những cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn để Trung Quốc giảm bớt nỗi lo của mình về an ninh năng lượng hơn là khuấy động Biển Đông.
Tất cả các nước trong khu vực đều đang lo ngại về an ninh năng lượng của mìhn. Nhu cầu đang tăng trong khi sản xuất lại giảm. Phát triển ở ngoài biển đang bị trì hoãn do các tranh chấp lãnh thổ và các mỏ mới Đông Nam Á đang được phát hiện chưa đủ để thay thế cho các mỏ đang suy giảm. Kết quả là việc nhập khẩu từ bên ngoài khu vực phình ra. Biển Đông hiện nay là quan trọng hơn nhiều cho hydrocarbon chuyển ngang qua nó so với cho hydrocarbon nằm bên dưới nó. Trong năm 2013, Cơ quan Thông tin Năng lượng tính toán rằng 1/3 lượng dầu thế giới và ½ khí tự nhiên hóa lỏng thế giới đã đi qua eo biển Malacca tới Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tính trung bình, mỗi ngày có hai tàu chở dầu thô loại cực lớn, mỗi chiếc chở 2 triệu thùng dầu, và hai tàu chở khí gas tự nhiên hóa lỏng lớn, mỗi chiếc chở 200 000 mét khối phải đến Nhật Bản chỉ để cho việc thắp sáng. Tất cả các nước Đông Á và Đông Nam Á đều dễ bị gián đoạn nguồn cung. Trong năm 2008 dầu chiếm 22 % tổng mức tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc, một nửa số dầu đó được nhập khẩu và 85 % phần trăm lượng dầu nhập khẩu đi qua eo biển Malacca. Nói cách khác, gần 10% của nguồn cung cấp năng lượng của Trung Quốc đi ngang qua Biển Đông. Tất cả những con số này đã tăng lên kể từ năm 2008 và có vẻ như còn tăng thêm nữa.
Trong phần tư thế kỷ kể từ lúc Lý Bằng đưa ra nhận xét tại Singapore, cách tiếp cận của lãnh đạo Trung Quốc cho vấn đề năng lượng đã giả định rằng nước này phải kiểm soát thực tế các nguồn tài nguyên để dựa vào chúng. Điều này đã và đang là khuôn mẫu từ việc nhượng quyền cho Crestone cho đến JMSU đến các trận đánh bên trong “đường chữ U”. Có nhiều lựa chọn khác. Việc giảm căng thẳng đối với các yêu sách biển có thể cho các chính phủ sự tự tin lớn hơn rằng tự do hàng hải sẽ được bảo vệ. Một cách tiếp cận hợp tác hơn trong khu vực đối với việc cung cấp năng lượng có thể cho phép tất cả các nước phát triển các nguồn tài nguyên trong EEZ của chính mình và các công ty sẽ bán cho bất cứ nơi nào có nhu cầu lớn nhất. Khi đó, các chính phủ sẽ sẵn lòng tin cậy lẫn nhau trong việc đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng của mình được đến an toàn thay vì cố giữ độc quyền chúng bằng vũ lực. Nhưng niềm đam mê về Biển Đông đã tăng lên ở các nước xung quanh bờ biển và sự thỏa hiệp có vẻ ngày càng ít có khả năng xảy ra hơn.
B.H.
Dịch giả gửi BVN
http://www.boxitvn.net/bai/37089
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét