Bill Hayton
Phan Văn Song dịch
Hoàng Việt hiệu đính
Chương 1
Những xác tàu và những điều sai:
Từ tiền sử đến 1500
(WRECKS AND WRONGS : Prehistory to 1500)
VICTOR PAZ nín thở. Trước mặt ông là ba phiến đá đều có chiều dài khoảng một người. Điều này sẽ cần một cố gắng nào đó. Ông để ra một phút để kiểm soát sự phấn khích của mình: hi vọng và thận trọng đấu tranh giành uy thế. Khi ông dừng lại, chim chiền chiện – hinay hinay trong tiếng Tagalog [một ngôn ngữ chính ở Philippines – ND] – trên các cây bili, tiếng hót của chúng vang vọng xung quanh miệng hang, báo hiệu cho một phát hiện khảo cổ. Bên trên hang, tháp đá vôi khổng lồ Illé nổi bật lên ruộng lúa, chế ngự nền thung lũng xanh. Vào lúc này những người khác đã đặt các công cụ của họ xuống đứng xem, lập thành nhóm khán giả xung quanh. Phiến đá giữa có vẻ dễ nâng lên nhất. Victor cúi xuống và nắm lấy nó với cả hai tay. Thận trọng, ông nạy nó ra.
Bên dưới phiến đá là một lồng ngực: bị vỡ vụn nhưng vẫn nhận ra được là của con người. Victor cười toe toét. Đây là điều tốt, một phần thưởng tương xứng sau một mùa đào xới. Đám khán giả nhỏ vây quanh rìa miệng hố, cách một mét bên trên chỗ Victor đang quỳ. Khi phiến đá đã được đặt sang một bên họ có thể thấy rằng bộ xương đã thành các nắm vỏ vụn, vẫn ép với nhau, mặc dù cái túi đã từng giam hãm chúng đã mục rả từ lâu. Hai vỏ gàu tát nước lớn được đặt về một phía, nhưng điều mà sau này sẽ cho thấy là phát hiện quan trọng nhất nằm ở phần trên của ngực: một chiếc vòng cổ gồm các đĩa xen kẽ với hạt conus – đồ trang sức làm từ vỏ sò hình nón nhỏ.
Victor dời hai phiến đá còn lại, để lộ toàn bộ bộ xương. Bây giờ ông có thể thấy việc chôn cất thực hiện công phu như thế nào. Bao quanh bộ xương có rất nhiều đá sắp xếp theo một hình dạng cố ý. Phía trên đầu, những viên đá làm thành một mũi nhọn với sỏi đánh bóng ở đỉnh. Là người đứng đầu Chương trình nghiên cứu khảo cổ học tại Đại học Philippines, Victor buộc phải là một người hoài nghi chuyên nghiệp. Nhưng ông biết phát hiện này có thể có tầm quan trọng rất lớn về tình cảm cũng như về khoa học. Người tiền nhiệm của ông trong vai trò này – cũng là thầy ông – Wilhelm Solheim, trong nhiều thập kỷ Solheim đã lùng sục phía đầu này của đảo Palawan, xâu chuỗi các bằng chứng cho một lý thuyết giải thích về cách các dân tộc, ngôn ngữ và văn hóa lan ra khắp Đông Nam Á diễn ra như thế nào và tại sao. Nhưng sau cả một đời nghiên cứu quanh Biển Đông, Solheim không còn thời gian nữa. Ở tuổi 81, sức khoẻ đã từ từ rời bỏ ông. Những phát hiện ở hang Illé vào tháng 4 năm 2005 sẽ là phần thưởng của ông.
Victor đứng lên và nhìn lại những viên đá xung quanh bộ xương. Chúng có dạng của một chiếc thuyền, hướng vào phía bóng của hang và thế giới bên kia xa xôi. Hòn đá đánh bóng đánh dấu mũi thuyền và các vỏ dùng tát nước, như tên của chúng ngụ ý, là những vật dụng quan trọng cho bất cứ ai dùng một chiếc xuồng bị rỉ nước đi trên đại dương. Nhưng ngay cả Victor cũng chưa sẵn sàng cho sự phát hiện tiếp theo. Các hạt hình nón đã được đưa tới phòng thí nghiệm ở Manila để xét nghiệm. Do động vật tạo ra vỏ từ các chất dinh dưỡng và khoáng chất mà chúng ăn vào, chúng mang các mã đánh dấu phân tử (molecular marker) về thời gian và địa điểm nơi chúng sống và chết. Và những vỏ hình nón này, vốn đã được thu lượm, gia công, biến thành đồ trang sức và được đặt trong mộ này, đã sống và đã chết ít nhất 4.200 năm trước đây. Và rằng, đối với Victor Paz và Wilhelm Solheiin, đó là bằng chứng mà họ đã tìm kiếm trong nhiều năm. Nó đã cho họ một cơ hội để chốt lại một cuộc tranh luận đã chia rẻ các nhà khảo cổ: cư dân hiện đại của Đông Nam Á hình thành như thế nào và tại sao? Khám phá của họ có vẻ là bằng chứng rằng những người chôn người chết ở hang Illé đã là những người đi biển hơn bốn thiên niên kỷ trước. Điều đó sẽ đánh gục phần chủ yếu của cách giải thích chi phối rằng nền văn hóa Đông Nam Á chỉ đơn giản là khuếch tán từ miền Nam Trung Quốc. ‘Chúng tôi cần phải biết nhiều hơn nữa,’ Paz thừa nhận ‘, nhưng điều đó ngày càng trở thành một lập luận khó có thể bỏ qua.’
Paz, Solheim và các đồng nghiệp của họ đã đi đến một thung lũng xa xôi ở mũi phía Bắc ôn hoà của đảo Palawan để cố giành phần thắng một cuộc tranh luận. Động cơ của họ vừa có tính cá nhân vừa có tính khoa học. Họ đã cố ý tìm kiếm bằng chứng có thể hậu thuẫn cho một lý thuyết mà họ đã hình thành nhưng các phương pháp của họ là trung thực, nhóm của họ là thông thoáng và lập luận của họ là logic. Điều bất hạnh là việc theo đuổi độc lập kiến thức chỉ là một trong nhiều động cơ của việc thăm dò khảo cổ ở Biển Đông. Những kẻ khác ít quan tâm đến những câu hỏi lớn vì họ đã chọn câu trả lời cho họ rồi: mục đích của họ là tìm kho báu hoặc biện minh cho các yêu sách lãnh thổ. Và những kẻ có ý định ít cao cả hơn lại có quyền sử dụng các nguồn tài nguyên lớn hơn rất nhiều.
Nhiều động cơ pha trộn nhau trong các nhà khảo cổ và sử học – và các ông chủ của họ – ở Đông Nam Á là không có gì mới. Trong nhiều thế kỷ, việc viết lịch sử của khu vực này đã tiết lộ nhiều về các ám ảnh đương đại bao nhiêu thì cũng nhiều về quá khứ bấy nhiêu. Có phải Đông Nam Á không khác gì hơn là một sàn diễn mà trên đó những kẻ bên ngoài đã chơi trò chơi đế chế? Người dân sống quanh Biển Đông có nguồn gốc từ Trung Quốc hay từ các nơi khác? Các nền văn minh lớn Champa, Angkor và Srivijaya phát triển tại chỗ hay được cấy ghép? Văn hóa và văn minh từ một hoặc từ nhiều nguồn đổ tới? Ai kiểm soát lãnh thổ và điều đó thực sự có nghĩa là gì? Các nhà sử học thực dân, dân tộc chủ nghĩa và quốc tế chủ nghĩa đã trả lời tất cả những câu hỏi này khác biệt nhau. Bằng chứng mới đây từ ngôn ngữ học, đồ gốm, di truyền học, thực vật học và trầm tích học đang chiếu rọi ánh sáng mới. Càng phát lộ, câu chuyện càng trở nên phức tạp hơn.
**********
Bằng chứng sớm nhất về con người ở Đông Nam Á có niên đại khoảng 1,5 triệu năm trước. Những di cốt của ‘Người Java’, được gọi chính thức hơn là homo erectus [người đứng thẳng], đã được tìm thấy cả ở Java lẫn ở Trung Quốc. Nhưng ông ta, vợ và các con, dường như đã chết đi khoảng 50.000 năm trước, có thể bị xua vào quên lãng bởi người họ hàng thông minh hơn, homo sapiens [người khôn] của mình. Con người hiện đại có thể đã tới Australia khoảng 50.000 năm trước, gợi cho thấy trên đường đi họ đã định cư ở Đông Nam Á. Các xương sọ tìm thấy ở Borneo và Philippines chỉ ra rằng con người hiện đại đã đến những nơi đó tương ứng 40.000 và 22.000 năm trước đây. Vấn đề là có rất ít bằng chứng khác, chủ yếu là bởi vì thế giới lúc đó trông rất khác biệt. Mực nước biển 17.000 năm trước thấp hơn so với hiện nay khoảng 120 mét. Những đảo hiện đại Java, Sumatra và Borneo dính vào đại lục và dính với New Guinea. Nếu như, dường như vậy, homo sapiens sống dọc theo bờ biển, thì các làng ông ta xây dựng nên và các công cụ ông sản xuất bây giờ nằm ngoài tầm với của khảo cổ học, 120 mét dưới mặt nước. Có những lổ hổng rất lớn trong sự hiểu biết của chúng ta và rất ít bằng chứng dùng để lấp những lỗ hổng đó lại.
Nhưng khi chúng ta đến gần hơn – cách đây một vài nghìn năm – bằng chứng lại nhân lên và cách lập luận cũng thế. Các khu định cư sinh sống rải rác phát triển thành đô thị như thế nào? Bằng cách nào mà những người chỉ biết công cụ bằng đá có thể làm chủ đồng và sắt nấu chảy? Và những đổi mới lan rộng ra như thế nào? Những lời giải thích đầu tiên xuất phát từ một cái nhìn sâu sắc đáng chú ý của một học giả người Đức, Otto Dempwolff. Vào khoảng đầu của thế kỷ XX, ông bắt đầu chứng minh sự tương đồng giữa các ngôn ngữ khác nhau của Đông Nam Á. Vào lúc mà nhà ngôn ngữ học người Mỹ Robert Blust phát triển công việc này vào cuối thế kỷ XX, nhiều liên kết đã được phát hiện giữa hơn 1000 ngôn ngữ được nói ở những nơi xa cách nhau như Đài Loan, Hawaii, đảo Phục Sinh, New Zealand, Malaysia và Madagascar. Ý nghĩa thật lạ thường. Chúng chứng tỏ rằng những người cách xa nhau hàng ngàn dặm đại dương bao phủ một nửa chu vi trái đất lại chia sẻ cùng nguồn gốc văn hóa. Blust cho rằng các gốc rễ đó đều có thể truy trở về một ngôn ngữ duy nhất được nói ở Đài Loan khoảng 5.500 năm trước đây, một ngôn ngữ mà ông gọi là ‘proto-Austronesian’. Và bằng cách chứng tỏ ngôn ngữ này đã chia nhỏ và nhân lên như thế nào, ông nghĩ ra lý thuyết liên kết sự khuếch tán của các ngôn ngữ Austronesia khắp trên các đảo của Đông Nam Á với sự di cư của các dân tộc, việc định cư của các khu vực mới và sự lan toả của nông nghiệp và công nghệ khác. Nó được biết đến như là mô hình ‘Từ Đài Loan đi‘ (Out of Taiwan).
Nhưng những người nói tiếng proto-Austronesian ở đâu ra? Nhà khảo cổ học sống ở Australia Peter Bellwood tin rằng họ là con cháu của những nông dân đầu tiên đã nắm vững nghệ thuật trồng lúa ở thung lũng sông Dương Tử khoảng 8.500 năm trước đây. Trong giai đoạn này ‘Trung Quốc’ là quê hương của nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau ngoài tiếng proto – Austronesian, còn có tiếng Trung-Tạng (mà từ đó tiến triển thành tiếng Trung, Tạng và Miến), tiếng Nam Á (mà từ đó phát triển ra tiếng Việt và Khmer) và tiếng Thái. Ngoài trồng lúa, những người này cũng nuôi heo và gia cầm, làm gốm và dùng các công cụ đá. Trong thiên niên kỷ sau, áp lực tại quê nhà và cơ hội ra nước ngoài khiến các nhóm này di chuyển khắp Đông và Đông Nam Á. Theo cách hiểu của Bellwood, những người nói tiếng proto-Austronesian dần dần lan về phía Đông và phía Nam, cuối cùng đi tới bờ biển Trung Quốc khoảng 5.500 năm trước đây.
Cho đến lúc đó, những cuộc di dân đều diễn ra trên đất liền. Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo của cuộc phiêu lưu Austronesian là hoàn toàn khác. Mực nước biển 5.000 năm trước đây khá giống như bây giờ, khiến cho eo biển Đài Loan rộng khoảng 130 km ở điểm hẹp nhất. Tuy nhiên, trở ngại này dường như đã được vượt qua, bởi vì các nhà khảo cổ đã thu được bằng chứng về việc trồng lúa có niên đại vào khoảng thời gian này ở Đài Loan. Khoảng hơn một ngàn năm sau đó, người nói tiếng Austronesian đã đến hoặc sinh sôi nẩy nở trên đảo đã che khuất đi gần hoàn toàn bất kỳ dấu tích sót lại nào của những lần di dân trước và ngôn ngữ của họ đã bắt đầu phân chia thành các phương ngữ. Trong mô hình Bellwoods, bước tiếp theo là ‘từ Đài Loan đi.’
Bước đầu tiên là cuộc hành trình về phía Nam qua eo biển Luzon. Bằng cách nhảy đến quần đảo Batanes, dải đất đơn lẻ dài nhất vào khoảng 80 km. Các bước nhảy tiếp sẽ đưa những người du hành đi đến Luzon, đảo chính của Philippines, nơi mà, một lần nữa, họ sẽ gặp phải những người di cư từ những đợt sớm hơn nhiều. Những người mới đến, với công nghệ và văn hóa tiên tiến hơn, lập ra các khu định cư, thịnh vượng, phát triển về số lượng và di chuyển lần nữa. Bellwood cho rằng từ khoảng 4.000 năm trước đây (2000 năm trước Công nguyên – BCE) những người từ Đài Loan ra đi phân tán khắp phần còn lại của Philippines và sau đó phía Tây của Indonesia hiện nay. Những người khác đi về phía Đông. Vào khoảng năm 1500 BCE, một số đã đến quần đảo Mariana, cách Luzon 2.500 km và sau đó tiếp tục đến Fiji. Vào khoảng năm 800 BCE, Tonga đã có người định cư, khoảng năm 300 BCE tới phiên Hawaii, và khoảng năm 1200 là New Zealand.
Đó là một câu chuyện kịch tính và có đầy rẫy bằng chứng hậu thuẫn nó: bản thân các ngôn ngữ, các phát hiện khảo cổ và nghiên cứu di truyền. Nhưng cũng có một số vấn đề với nó. Một số phát hiện ở quần đảo Batanes mới hơn những phát hiện ở Luzon, gợi ra rằng người ta đã di chuyển từ phía Nam đến đó, chứ không phải từ phía Bắc. Kỹ thuật chôn cất tìm thấy ở Nam Việt Nam xưa hơn kỹ thuật tương tự tìm thấy ở Đài Loan và Luzon. Bằng chứng cho việc trồng lúa xa xưa ở Đài Loan là rất hiếm, cho thấy nó không phải là phổ biến rộng rãi ở đó trước khoảng 4.000 năm trước đây; phân tích di truyền của cây lúa cho thấy rằng nhiều chủng lúa khác nhau – từ Ấn Độ và Java – có thể đã đi qua khu vực này từ Nam đến Bắc trước khi nhiều chủng lúa ‘Trung Quốc’ đi theo hướng ngược lại. Di truyền cũng cho thấy lợn Thái Bình Dương và chuột Thái Bình Dương từ Đông Dương, chứ không phải từ Đài Loan đến. Các điều phản bác đã chất cao thêm.
Kết quả là có một cách giải thích khác đối với sự lan toả của ngôn ngữ và văn hóa quanh Biển Đông đã xuất hiện. Thay vì nhấn mạnh một dòng người ‘từ Đài Loan ra đi’, nó đề xuất một mạng lưới liên lạc liên tục chuyển tải thông tin và công nghệ theo nhiều hướng. Nó cũng làm cho vùng ven biển Trung Quốc vừa là một nơi nhận vừa là một nơi chuyển nền văn hóa này đi, nhưng không phải là nguồn duy nhất của nó. Và đó là lý do vì sao Bill Solheim tự thấy mình nên mừng việc phát hiện ra ngôi mộ ở Bắc Palawan.
Solheim đã bắt đầu việc tìm kiếm nguồn gốc nền văn minh Đông Nam Á từ hơn nửa thế kỷ trước, theo học tại Berkeley và Arizona rồi đào xới ở Philippines trong thập niên 1950. Chính công việc với đồ gốm thúc đẩy ông phát triển một mô hình rất khác với mô hình của Peter Bellwood. Ông cho rằng sự tương đồng giữa các lọ 2.500 tuổi mà ông tìm thấy ở Kalanay trên đảo Masbate của Philippines và những lọ khác thu được trong thập niên 1920 ở Sa Huỳnh trên bờ biển Nam Việt Nam không phải là trùng hợp ngẫu nhiên. Nhiều lọ trong số đó đã được vẽ với những kiểu mẫu hình học rất chính xác – hình tam giác, đường ziczac, đường song song và hình nhát rìu cắt hoặc ép vào đất sét. Một số lọ có hình dạng phức tạp và nhiều lọ đã được tô với một mảng màu đỏ đặc biệt. Từ sự khởi đầu này, quan điểm của Solheim mở rộng ra cho cả đồ gốm từ các địa điểm khác lan ra khắp Đông Nam Á, rồi cho các loại đồ vật khác – đặc biệt là các công cụ và đồ trang sức – và sau đó cho các giai đoạn, cả trước lẫn sau đó. Nhiều đồng nghiệp của ông không đồng ý, lập luận rằng định nghĩa về ‘tương tự’ bấy giờ trở thành quá mơ hồ khó có thể có ích gì. Tuy nhiên, Solheiln vẫn dấn tới. Nhiệm vụ tiếp theo của ông là cố gắng giải thích những điểm tương đồng đó đã xảy ra như thế nào.
Một cái nhìn chiều sâu cốt lõi là mặc dù những vật tương tự có thể tìm thấy được ở nhiều nơi, chúng lại xuất hiện ở những chỗ đó vào các thời điểm khác nhau. Vì vậy, trong khi ‘rìu’ (một dụng cụ đẽo xưa) đã được phát triển ở Đông Nam Trung Quốc khoảng 5.000 năm trước rồi truyền sang Đài Loan và Việt Nam trong thiên niên kỷ sau, những lọ chôn vùi được tìm được ở Việt Nam và Palawan có niên đại cách đây hơn 4.000 năm nhưng ở Luzon và Đài Loan chỉ cách 1.000 năm. Tương tự, mặt ngọc bích treo lủng lẳng dưới bông tai gọi là ‘o khoen’ (có dạng giống như một vòng tròn ở gần đầu bị uốn thành những điểm nhọn hướng xuống và hướng sang hai bên) có niên đại cách đây tới 4.000 năm tại Việt Nam nhưng lại có niên đại gần đây hơn ở Đài Loan và Philippines. Đối với Solheim, điều này có nghĩa rằng các đồ vật, kiến thức và văn hóa đã phát triển ở những nơi khác nhau và sau đó lan truyền tới lui trên một khoảng cách rất lớn xung quanh lục địa Đông Nam Á và các đảo, tiến triển trong quá trình di chuyển.
Vì vậy, ông bắt đầu phát triển ý tưởng về một mạng lưới trên biển: các cộng đồng bán du mục di chuyển bằng đường biển và sông, sống bằng săn bắn, thu lượm và buôn bán. Đối với Solheim vấn đề là những người này, nếu họ tồn tại, đã để lại quá ít dấu vết: không định cư lâu dài, không có di tích kiến trúc và không có ghi chép bằng văn bản. Nó đòi hỏi một bước nhảy vọt của trí tưởng tượng để tin vào sự tồn tại của họ. Nhưng sau đó ông nhận ra rằng các bằng chứng thật ra vẫn còn ở đâu đó. Cuối thập niên 1950, nhà nhân chủng học Mỹ Alexander Spoehr gặp những phụ nữ người Samal trên đảo Mindanao của Philippines chưa bao giờ sống trên đất liền và tin tuởng rằng nếu làm như vậy họ sẽ bị ma quỷ hãm hại. Thậm chí ngày nay, nhiều ‘digan biển’ người Badjao của Philippines, người Bajau của Malaysia, người Orang Laut của Indonesia, người Tanka của miền Nam Trung Hoa và người Dan của Việt Nam vẫn tiếp tục sống trên và quanh biển, sinh sống bằng việc đánh cá, buôn bán. Quả vậy, khắp cả khu vực, từ Trung Quốc tới Việt Nam và Thái Lan, vẫn còn có nhiều cộng đồng những người trên sông nước tiếp tục một hình thức sinh sống mà, trên thực chất, bắt đầu từ nhiều ngàn năm trước. Solheim đã đặt ra một từ để chỉ những người này lấy từ hai từ tiếng Austronesian chỉ ‘đảo phía Nam’ và ‘người’. Ông gọi họ là người Nusantao.
Để thật sự hiểu họ, chúng ta phải lật ngược những ý niệm của chúng ta về đất liền như là một nơi an toàn và biển như là một nơi nguy hiểm. Đất liền có thể thù địch, nơi ở của những sinh vật nguy hiểm, kẻ trộm và người thu thuế. Biển thì đầy thức ăn và, gần như chỗ nào cũng đi lại dễ dàng. Nguồn cung cấp rau trái có thể từ các bờ sông, hoặc qua đổi chác / mua bán và, như nhà nhân chủng học New Zealand Atholl Anderson đã giải thích, ngay cả vấn đề nước ngọt cũng có thể vượt qua được. Có thể mang theo một lượng nước lớn trong các ống tre. Tre thì bền chắc, dễ dàng gói gọn và, khi dùng hết nước có thể sử dụng để sửa chữa ghe thuyền. Nếu tính thêm số nước mưa và nước từ cá biển thì các chuyến đi dài đến ba hoặc bốn tuần sẽ không còn là vấn đề.
Vẻ đẹp của mô hình Solheims, mà ông gọi là mạng lưới liên lạc và giao thương đường biển Nusantao, là nó không đòi hỏi bất kỳ một đứt quãng lớn nào với quá khứ, hoặc bất kỳ hoạt động di cư đơn lẻ lớn nào. Nó không dựa vào, hoặc loại trừ bất kỳ một nhóm dân tộc đặc biệt nào. Công nghệ và văn hóa phát triển dần dần. Một số người Nusantao nói các ngôn ngữ Austronesian, những người khác thì không; một số thì bán định cư, một số hoàn toàn du cư; một số sống trên biển, một số ở các cửa sông, những người khác sống xa trên đất liền. Họ tác động qua lại với những người định cư và dân cư nên ắt phải có lai tạp. Họ không bao giờ có ý thức hành động như một nhóm và công nghệ của họ rất đơn giản, nhưng bằng các hành vi nhỏ đi lại và mua bán/đổi chác người Nusantao tạo ra một mạng lưới rộng lớn lực lượng buồm chèo có thể vận chuyển hải sâm từ miền Bắc Australia tới các bàn ăn ở miền Nam Trung Quốc và chuối từ các khu rừng của New Guinea đến các khu vườn của Madagascar. Và trên mỗi chuyến đi hàng hóa, kiến thức và văn hóa chuyển qua chuyển lại.
Đó là một mô hình lộn xộn theo cách tuyệt vời và có tính người vui vẻ. Nó có nghĩa là những người thực sự phát hiện ra các đảo trong Biển Đông không có căn cước sắc tộc mà ngày nay chúng ta thừa nhận và chắc chắn không đính vào bất cứ điều gì giống như một nhà nước. Khi các đơn vị chính trị phát triển trên đất liền thì người Nusantao cố gắng sống bên ngoài sự kiểm soát của họ. Sự khác biệt giữa mua bán / đổi chác và buôn lậu, cướp biển và nổi loạn là mờ nhạt. Điều mỉa mai là khi các quốc gia hiện đại ngày nay đưa ra các yêu sách chủ quyền lãnh thổ trên biển, họ thường căn cứ vào các hoạt động của những người mà trong những giai đoạn trước đây, những quốc gia này đã cố hạn chế hoặc thậm chí tiêu diệt họ.
Người Nusantao không phải là một sắc dân, vì vậy sẽ hầu như vô nghĩa khi hỏi họ ở đâu ra. Tuy nhiên, Solheiln lập luận rằng một trung tâm quan trọng của mạng Nusantao là khu vực bờ biển giữa miền Trung Việt Nam và Hong Kong. Từ đây chạy thẳng đến Madagascar về phía Tây và đảo Easter (Phục Sinh) về phía Đông, Australia về phía Nam và Nhật Bản về phía Bắc. Chúng ta biết rằng các hạt chuổi thủy tinh Ấn Độ đã được đưa đến Trung Quốc bởi những người được mô tả, trong các văn bản của Trung Quốc, là ‘Malay’ vào khoảng năm 400 BCE và các trống đồng đặc sắc ‘Đông Sơn’, làm ở miền Bắc Việt Nam khoảng 2.000 năm trước, đã được tìm thấy trong các ngôi mộ khắp cả khu vực Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc. Đây là một thời kỳ phát triển nhanh chóng, khi các xã hội phức tạp và các đế quốc bắt đầu xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới – và liên kết tất cả chúng lại với nhau là một mạng lưới trên biển.
Vì nếu có các cộng đồng trên biển giao thương lên xuống dọc theo các bờ biển và liên lạc qua khoảng cách xa xôi thì sẽ là lố bịch khi nghĩ rằng những liên kết này sẽ dừng lại ở ranh giới giữa những nơi mà bây giờ chúng ta gọi là ‘Đông Á’, ‘Đông Nam Á’, ‘ Ấn Độ’, ‘Arab’ hoặc ‘châu Âu’. Nhưng thương nhân ven biển sẽ phải liên lạc với đồng nghiệp của họ ở phía Bắc, phía Nam, phía Đông và phía Tây. Cả thông tin lẫn hàng hóa sẽ chảy qua các mạng này, người dân ở nơi này sẽ biết được ý tưởng và hàng hoá ở nơi khác; ký ức dân gian về khách phương xa tới sẽ lâu bền và các thứ gia bảo kỳ lạ sẽ được truyền xuống các thế hệ sau. Dĩ nhiên, các tuyến đường biển không phải là cách duy nhất để đi lại. Những người khác đã đi bằng đường bộ nhưng đường biển có thể nhanh hơn và an toàn hơn.
Năm 1939, một bức tượng bằng ngà voi Ấn Độ đã được tìm thấy dưới lớp tro ở Pompeii và các nhà khảo cổ đã bắt đầu chấp nhận rằng giao thương đường dài giữa Rome và Nam Á đã phát triển tốt vào thời gian núi lửa Vesuvius phun trào vào năm 79. Nó không đơn thuần là bức tượng từ phía Đông đến. Một tài liệu La Mã, ‘Periplus of the Erypthrean Sea’ (Sổ ghi hải trình trên biển Đỏ) có niên đại khoảng năm 63, đề cập đến một nơi gọi là ‘Thina’ nổi tiếng là một nguồn lụa. Có vẻ rằng 2.000 năm trước, một số người châu Âu đã biết được một tuyến đường biển tới Trung Quốc. Có cuộc tranh luận về việc liệu nhà sử học La Mã Pliny có thực sự mô tả đinh hương trong thế kỷ I hay không, nhưng đinh hương được liệt kê như hàng nhập khẩu vào Ai Cập khoảng năm 180. Chỉ có một nơi trên thế giới có trồng đinh hương lúc đó: quần đảo Moluccan Bắc, thuộc Indonesia hiện nay. Và khoảng năm 284, đế chế La Mã Đông đã cử phái bộ đầu tiên sang Trung Quốc, ghé qua bờ biển Lâm Ấp, chỗ bây giờ là Việt Nam.
**********
Rải rác khắp Đông Nam Á, từ Champa ở Việt Nam và Angkor ở Campuchia đến Borobudur và Prambanan ở Indonesia, hàng chục tháp và đền to lớn hiện ra hoàn toàn xa lạ với cảnh vật xung quanh. Phong cách Ấn Độ, chín chắn với các thiếu nữ đầy sức quyến rũ với các bàn thờ thờ các vị thần được tô điểm của các tháp này, bây giờ có vẻ như là những vật trôi nổi, do đợt triều Hindu rút xuống để lại. Bao phủ trong rừng nhiều thế kỷ, chúng đã được người châu Âu phát hiện khi mà chủ nghĩa thực dân trưởng thành đến mức có thể chi trả cho các nhà khảo cổ để đi lùng sục khắp các hang hốc của đế quốc.
Và các nhà khảo cổ học này đã vội vàng kết luận về việc ai đã xây dựng các kiến trúc to tát đó, và tại sao. Háo hức để biện minh cho sự có mặt của chính các hội của họ trong những vùng đất xa lạ này, họ tưởng tượng rằng những ngôi đền đó là công trình của thế hệ xa xưa những người bên ngoài. Giống như người châu Âu đã mang văn minh và tiến bộ tới dân bản xứ, những nhà xây dựng các đền đài này nhiều thế kỷ trước cũng làm như vậy. Những nhà xây dựng này ắt phải từ Ấn Độ đến, áp đặt ngôn ngữ và lối sống của họ lên các cư dân tăm tối và nâng họ lên một vài nấc trên bậc thang của nền văn minh trong quá trình này. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa thực dân châu Âu chỉ là sự tiếp nối của một khuôn mẫu hành vi đã xác lập lâu đời ở Đông Nam Á.
Những ý tưởng này tồn tại một thời gian dài. Cho đến năm 1964, nhà sử học người Pháp George Coedès còn có thể viết rằng ‘người dân ở vùng Viễn Ấn có nền văn minh hậu kỳ đá mới khi nền văn hóa Phật – Brahmano của Ấn Độ lần đầu tiên tiếp xúc với họ’. Nói cách khác, khu vực này nằm dí ở thời kỳ đồ đá cho đến khoảng năm 400 khi bị người Hindu và người theo đạo Phật từ phía Tây tới thuộc địa hoá. Các dân tộc Đông Nam Á đã bị loại ra khỏi câu chuyện; lịch sử chỉ là một cái gì đó xảy ra cho họ, chứ không phải là một cái gì đó mà họ định hình. Phải mất một nửa thế kỷ đào bới, dịch thuật và suy nghĩ mới lật đổ được quan điểm đó.
Kết quả là chúng ta có thể thấy một liên kết trực tiếp giữa các nhà xây dựng các đền to lớn đó và những người du mục Nusantao vốn đã đi dọc ngang vùng biển tới phía Đông và phía Tây trong nhiều thế kỷ. Thật vậy, bây giờ có vẻ như Đông Nam Á đã giao thương với Ấn Độ nhiều thế kỷ trước khi văn hóa Ấn Độ bắt rễ ở Đông Nam Á. Sản phẩm và kiến thức di chuyển tới lui qua mạng lưới giao thương. Người nói tiếng Austronesia đã trao các tên của họ chỉ tàu thuyền vào ngôn ngữ miền Nam Ấn Độ vào thế kỷ I. Kỹ thuật sản xuất hạt thủy tinh của Ấn Độ đã được truyền khắp Đông Nam Á thậm chí sớm hơn.
Từ thế kỷ I đến thế kỷ V, bờ Biển Đông Nam Á trở nên phồn thịnh qua tiến trình giao thương với các nền văn minh Ấn Độ khác nhau: gỗ đàn hương, cardamoms (đậu khấu), long não, đinh hương, đồ trang sức và kim loại quý. Nhiều tài liệu Ấn Độ đề cập đến ‘Đảo Vàng’ – Swarnabhumi và ‘đất vàng’ Swarnabhumi. Cùng với giao thương, các yếu tố của các nền văn hóa khác nhau cũng di chuyển theo: từ thiết kế đồ gốm tới tôn giáo rồi triết học và chính trị. Có vẻ thay vì bị người Nam Á thuộc địa hoá, những nhà cai trị Đông Nam Á đã chọn cách dung nạp những ý tưởng Nam Á về vua chúa, thầy cúng và quyền uy để củng cố vị trí của họ đối với người dân của mình và giữ vững lãnh thổ trước các đối thủ.
Theo những điều ít ỏi chúng ta biết, thế lực thống trị ở Đông Nam Á trong các thế kỷ đầu dường như là khu vực mà các ghi chép của Trung Quốc gọi là ‘Phù Nam’. Phù Nam nằm ở đồng bằng sông Cửu Long, trải rộng lên chỗ mà ngày nay là miền Nam Việt Nam và Campuchia. Qua sự kết hợp của vị trí địa lý ngẫu nhiên và chính trị xảo quyệt Phù Nam dựng nên một đế chế từ vị trí then chốt của mình trên các tuyến giao thương giữa châu Âu và Ấn Độ ở phía Tây và Trung Quốc ở phía Đông. Nó trở nên trù phú khi Rome phát triển thị hiếu đối với tơ lụa Trung Quốc và gia vị Đông Nam Á, khi Trung Quốc tìm kiếm nhũ hương và mộc dược từ Arab và khi thủy tinh, đồ gốm, kim loại, ngà voi, sừng và khoáng sản quý di chuyển qua lại giữa những nơi này với nhau.
Những người tiên phong là dân Nusantao, di chuyển từ nơi này đến nơi khác, trao đổi hàng hoá và thu lợi nhuận từ tiến trình đó. Nhiều tài liệu Trung Quốc mô tả tàu thuyền Malay (được gọi là Kunlun bo [Côn Lôn bạc] cặp bến ít ra từ thế kỷ III BCE. Dần dần những người khác từ bờ biển Ấn Độ và Trung Đông tham gia với họ. Không có bằng chứng khảo cổ học cho thấy có bất cứ tàu thuyền Trung Quốc nào thực hiện các chuyến giao thương trên Biển Đông trước thế kỷ X. Điều này dường như làm suy yếu nhiều khẳng định của Trung Quốc về điều ngược lại , chẳng hạn như sự khẳng định của trang web của Bộ Ngoại giao rằng ‘Dương Phu [Yang Fu] thuộc triều đại Đông Hán (23-220) đã nhắc tới quần đảo Nam Sa trong cuốn sách của mình mang tên Dị vật chí (Yiwu Zhi – Sách về những thứ kỳ lạ/hiếm hoi)‘[1]. Các bằng chứng hiện có cho thấy nghiên cứu của Dương Phu có nhiều khả năng liên quan đến việc dò hỏi các thương nhân nước ngoài đến các cảng hơn là tự mình đi tới nơi. Mặc dù có một số người Trung Quốc đi tới nước ngoài trên tàu của các sắc dân khác, những cư dân nơi mà bây giờ là Nam Trung Quốc dường như bằng lòng để cho người khác mạo hiểm đi biển còn họ chỉ đảm trách việc giao thương tại điểm đến mà thôi.
Vị trí của Phù Nam có tính cốt lõi theo nghĩa đen bởi vì giao thương trong giai đoạn này tiến hành theo từng chặng. Rất ít, nếu có, tàu thuyền nào chạy suốt lộ trình. Thay vào đó, thương nhân có thể chỉ mang hàng hóa trên chặng lộ trình mà họ biết rõ nhất: từ châu Âu đến Ấn Độ, từ Ấn Độ đến bán đảo Mã Lai, rồi bằng đường bộ qua eo đất Kra tại điểm hẹp nhất của bán đảo Mã Lai (nơi mà vận chuyển 40 km trên bộ tránh được một chặng đường dài 1600 km trên biển), bằng đường biển một lần nữa đến Phù Nam và cuối cùng từ Phù Nam tới miền Nam Trung Quốc. Để thành công, thương nhân cần làm chủ nhịp điệu do chế độ gió hàng năm đặt ra mà bây giờ chúng ta biết với từ Arab chỉ mùa – mawsim hoặc monsoon.
Vào mùa hè ở bán cầu Bắc, lục địa Châu Á nóng lên. Không khí bên trên bốc lên cao, cuốn theo nhiều không khí từ biển ở phía Nam vào, tạo ra những luồng gió mạnh dai dẳng thổi vào lục địa: gió mùa Tây Nam. Khi Châu Á mát lại vào mùa thu và mùa đông, không khí bên trên lắng xuống và bị đẩy ra khỏi lục địa: gió mùa Đông Bắc. Dùng tàu thuyền đi từ bán đảo MaLay đến Phù Nam dễ dàng nhất từ tháng 12 tới tháng 1 nhờ gió thổi đi từ Nam Á, nhưng sau đó có một khoảng chờ đợi lâu, cho đến tháng 6 mới có thể bắt đầu các chuyến đi từ Phù Nam tới miền Nam Trung Quốc. Tàu thuyền cần phải ở tại cảng khi bắt đầu mùa mưa bão vào giữa tháng 7. Đi ngược trở lại, thời gian chạy tàu thuyền dễ nhất từ Trung Quốc đến Đông Nam Á là vào tháng 1 và tháng 2, khi gió và các dòng chảy theo hướng Đông Bắc xuống. Sau đó phải tạm dừng cho tới khi chế độ gió mùa Nam Á làm cho việc chạy tàu thuyền về phía Tây an toàn và thuận tiện.
Khoảng thời gian gió và dòng chảy không thuận lợi, từ tháng 2 đến tháng 6 mỗi năm, đem lại sự thịnh vượng cho bờ biển ở chỗ bây giờ là Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Lúc đó, thương nhân bị buộc phải tạm dừng ở Phù Nam và mua lại hàng từ các nguồn địa phương. Một tài liệu của Trung Quốc từ thế kỷ III mô tả các tàu ‘MaLay’ có thể như thế này: dài trên 50 mét với bốn cánh buồm và có khả năng chở 700 người cùng 600 tấn hàng hoá.[2] Một số lượng lớn tàu, hành khách và thuỷ thủ, cung cấp một thị trường lành mạnh cho nông dân địa phương và các đại lý hàng hoá và một dòng thuế ổn định cho các vua chúa và triều đình của họ dựa vào để sống. Nó cũng làm Phù Nam thành một nơi tuyệt vời để làm kinh doanh và vào thế kỷ II đó là một trạm trung chuyển cho người Ba Tư, Ấn Độ, Trung Quốc và các thương nhân khắp nơi của khu vực Đông Nam Á. Mặc dù ảnh hưởng của Trung Quốc là lớn lao nhưng chính Ấn Độ đã cung cấp cho Phù Nam những cảm hứng văn hóa và chính trị. Vua Phù Nam chấp nhận Ấn Độ giáo, lấy tên Ấn và vay mượn tư tưởng chính trị từ các vua Ấn Độ. Ngay cả việc quy hoạch thành phố dường như cũng đi theo đường hướng của Ấn Độ.
Phù Nam chỉ là một trong nhiều đế quốc, vương quốc và thái ấp xung quanh Biển Đông nổi lên, phát triển mạnh và phai dần vào quên lãng trong thiên niên kỷ I CE (kỷ nguyên hiện tại). Lịch sử của họ vẫn còn đang được đào bới: theo cả nghĩa đen từ các di chỉ khảo cổ lẫn theo nghĩa ẩn dụ từ các trang sách cổ của Trung Quốc và các văn bản khác. Thường thì chúng ta chỉ thấy họ qua phản chiếu, vì họ được những người khác ghi nhận và chúng ta thường nhìn họ qua những điều chúng ta quan tâm hiện nay: cố gắng theo dõi gốc gác của các quốc gia hiện đại thông qua các dịch chuyển biên giới và việc di trú các dân tộc của các thế kỷ trước Nhưng biên giới hiện tại và bản sắc của chúng ta sẽ không có ý nghĩa với những người thật sự sống trong giai đoạn xa xưa này. Chẳng hạn, nhà sử học Michael Churchman đã chỉ ra rằng các tài liệu ghi chép thời Hán-Đường (từ 111 BCE đến 938 CE) không có sự phân biệt về mặt ngôn ngữ giữa ‘người Hoa’ và ‘người Việt’. Chính các nhà sử học thế kỷ XIX và XX đã áp đặt bản sắc dân tộc hiện đại lên những sắc dân xưa này.[3] Trong giai đoạn khi mà nhà chức trách đế quốc Pháp cố gắng để xác định ranh giới rõ ràng giữa khu vực của họ và của ‘Trung Quốc’, các nhà sử học Pháp cũng đồng thời phân chia người dân cổ xưa thành các loại khác nhau qua việc chuyển các tên của họ theo cách ‘Việt Nam’ hoặc cách ‘Trung Quốc’.
Khu vực bây giờ là Trung Quốc trông rất khác vào hai thiên niên kỷ trước. Những người được quy là Yue hoặc Việt trong các tài liệu của Trung Quốc sống dọc bờ biển phía Nam, kể cả đồng bằng sông Hồng ở Việt Nam ngày nay. Họ đã bị nhà Tần chinh phục một thời gian ngắn vào năm 221 BCE nhưng trong vòng 15 năm nhà Tần sụp đổ và bờ biển phía Nam giành được độc lập khoảng một thế kỷ. Mãi cho đến năm 111 BCE miền Nam mới rơi vào tay nhà Hán – và thậm chí sau đó khu vực này chủ yếu vẫn giữ tự trị thêm một thế kỷ nữa. Trong những năm đầu của kỷ nguyên hiện nay người Hán áp đặt cai trị trực tiếp hơn, khiến lúc này lúc khác có nhiều cuộc nổi dậy và các chiến dịch quân sự trừng phạt, và tình trạng kiểm soát mơ hồ này kéo dài tới khi nhà Hán sụp đổ năm 220 CE. Khi nhà Hán cuối cùng sụp đổ, đế chế của họ bị tách thành ba nước, với nhà Ngô (Wu) tiếp thu nhiều khu vực phía Nam sông Dương Tử. Nhưng nhà Ngô chỉ kéo dài cho đến khoảng năm 265 thì nó bị đối thủ phía Bắc là nhà Tấn (Jin) đánh bại. Sau đó, chỉ 80 năm sau, năm 316, nhà Tấn bị loại khỏi phía Bắc và trở thành một vương quốc phía Nam cho đến khi cũng bị sụp đổ năm 420 và đã được thay thế bởi một loạt các vương quốc phía Nam khác.
Thế thì ‘Trung Quốc’ ở đâu trong thời đại đó? Các nhà sử học của Trung Quốc có xu hướng mô tả ‘một nền văn minh vờ là một nhà nước’, để sử dụng công thức của Lucian Pye, một nền văn hóa liên tục vốn đã kiểm soát vùng đất Đông Á rộng lớn trong nhiều thiên niên kỷ.[4] Đây không phải là cách nó xuất hiện theo quan điểm Biển Đông. Trong nhiều thế kỷ, các triều đại và các dân tộc từng kiểm soát vùng bờ biển phía Bắc của Biển Đông là khác biệt với những kẻ kiểm soát các khu vực nội địa của ‘Trung Quốc’. Trong khi các vương quốc phía Bắc nhìn vào phía trong, các vương quốc phía Nam lại nhìn ra phía ngoài. Các vương quốc này kết nối trực tiếp với mạng lưới giao thương đường biển và thông qua đó với Phù Nam và phần còn lại của khu vực.
Trong hầu hết thời kỳ này, Phù Nam có được hai điều cho thấy là rất cốt yếu đối với mọi trung tâm giao thương thành công của Đông Nam Á: quan hệ có lợi với bất cứ ai đang nắm quyền ở Ấn Độ và ở miền Nam Trung Quốc. Những khi có khủng hoảng, và đặc biệt sau khi có thay đổi chính trị, Phù Nam sẽ gửi ‘các đoàn sứ giả’ tới Trung Quốc để tìm cách bảo vệ vị trí của họ như là đối tác giao thương ưu tiên. Đại diện của họ sẽ dâng ‘cống vật’ giúp các cuộc thương thảo tiến triển dễ dàng hơn. Phần lớn kết quả đều từ quan hệ triều cống này. Một số nhà sử học dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc lập luận rằng điều đó cho thấy rằng các xã hội Đông Nam Á là chư hầu của hoàng đế Trung Hoa. Đó là cách mà các tài liệu cổ của Trung Quốc có xu hướng ghi nhận. Tuy nhiên, các tài liệu đương đại Đông Nam Á cho thấy rằng ‘cống nạp’ không được xem như là một loại quan hệ phong kiến nào đó giữa chủ và tớ mà chỉ đơn thuần là một quan hệ đối tác giao thương. Vua chúa Trung Quốc hoan nghênh việc ‘cống nạp’ như sự công nhận nước ngoài về quyền cai trị của họ. Triều cống đảm bảo quan hệ nước ngoài tốt và về mặt biểu tượng củng cố quyền lực trong nước của các vua chúa với các đối thủ tiềm năng. Đối với những nước ‘cống nạp’, đó chỉ là thủ tục cần thiết để được ra vào các cảng. Chính tình trạng ‘quan hệ triều cống’ như thế này đã khiiến Phù Nam thành người gác cổng cho sự giàu có cả trong phạm vi ảnh hưởng lẫn ở xa tít ngoài chân trời.
Trong gần ba thế kỷ Phù Nam dường như đã chi phối việc giao thương ở Biển Đông, dù bị các đối thủ tấn công. Họ sử dụng cả ngoại giao và sức mạnh để duy trì vị trí của mình, thích ứng với những thăng trầm của việc giao thương đường dài trên biển cho đến giữa thế kỷ IV. Vào khoảng thời gian đó lệ phí cao và tham nhũng ở các cảng Trung Quốc làm kinh doanh suy giảm, các thương nhân không có việc làm quay sang cướp biển và các thương nhân có óc cạnh tranh tìm đường đi biển tới bán đảo Malay theo cách của mình, kết thúc quyền nắm giữ của Phù Nam đối với eo đất Kra. Các thương nhân từ các phần khác của Đông Nam Á bắt đầu bỏ qua Phù Nam và làm việc trực tiếp với các cảng khác xa phía trên bờ biển. Dần dần Phù Nam bị các đối thủ che khuất. Vào lúc mà giao thương đường biển hồi sinh một lần nữa, sau sự sụp đổ của nhà Tấn ở Trung Quốc năm 420 CE, thì các cảng khác gặt hái nhiều lợi lộc, đặc biệt là những cảng xa về phía trên bờ biển, ở Champa.
Ngược với Phù Nam, nơi ít thứ còn sót lại, Champa đã để lại các công trình đồ sộ: tháp gạch đỏ lớn nằm rải rác khắp khu vực mà bây giờ là miền Trung Việt Nam. Hình bóng Ấn Độ của các công trình là rõ ràng; thật ra, ngay cả cái tên ‘Champa’ dường như cũng được vay mượn từ một vương quốc của Ấn Độ. Cội rễ của Champa nằm trong văn hóa đồ đá Sa Huỳnh mà Wilhelm Solheim xác định như là một phần của mạng lưới Nusantao và sự thịnh vượng của nó, giống như sự thịnh vượng của Phù Nam trước đó, được xây dựng trên việc hôn phối giữa giao thương đường biển và xuất khẩu các mặt hàng nội địa: ngà voi và sừng tê giác là hai trong số nhiều sản phẩm độc đáo mà những khu rừng ở đó có thể cung cấp. Champa không phải là một nhà nước tập trung, mà là một tập hợp nhiều khu định cư tại các thung lũng sông dọc theo bờ biển thừa nhận một nhà cai trị chính. Trong suốt lịch sử hàng nghìn năm của nó, quyền lực thường xuyên di chuyển qua lại giữa các thung lũng khác nhau.
Champa hiếm khi hòa bình. Nó nổi lên từ nạn cướp biển tiếp sau sự suy tàn trong giao thương hợp pháp với Trung Quốc vào cuối thế kỷ IV. Sau khi nhà Tấn sụp đổ, đường bộ từ Trung Quốc tới phương Tây đã bị đóng đối với các vua mới phía Nam Trung Quốc, nhà Liêu Tống. Kết quả là họ phải phụ thuộc vào giao thương đường biển vốn đã bị thiệt hại vì cướp biển Champa. Mối đe dọa này tồi tệ đến nỗi quân Liêu Tống đã tiến đánh Champa năm 446 và phá hủy kinh đô của họ. Nhưng rồi Liêu Tống cũng tự tuyên bố mở cửa cho giao thương và Champa đã trở thành một trạm trung chuyển – trong khi vẫn dung dưỡng, và đôi khi khuyến khích cướp biển. Gần như cùng lúc đó, Quảng Châu trên châu thổ Sông Châu (Pearl River) trở thành cảng chính của miền Nam Trung Quốc và giao thương giữa hai phía – được nối kết bởi các chu kỳ gió mùa hàng năm – trở nên được lợi cao.
Tuy nhiên, dù Champa thống trị giao thương đường biển với Trung Quốc, họ không giữ độc quyền. Nhiều cảng giao thương khác cũng bắt đầu phát triển các quan hệ. Vương quốc Taruma ở miền Tây Java và các vua khác ở Sumatra đã phái sứ giả tới vào năm 460. Một điều mà tất cả những nơi này cùng có là họ chấp nhận các yếu tố văn hóa tôn giáo và chính trị Ấn Độ: ban đầu là Ấn Độ giáo, sau đó là Phật giáo. Các vương quốc này tự gọi mình bằng từ Tiếng Phạn mandala – bánh xe – và các nhà vua là cakravartin – người quay bánh xe. Họ tự thấy mình như là trung tâm của hệ thống chứ không phải là các quốc gia có biên giới xác định. Tính chính đáng của họ ắt phải xuất từ sự nhìn nhận của những nhà cai trị khác nhiều hơn là từ việc kiểm soát thực tế lãnh thổ. Quan hệ giữa các nhà cai trị thì linh hoạt và các trung tâm ít quyền lực hơn có thể trung thành với nhiều hơn một mandala. Nhưng tính chính đáng này cần phải được hậu thuẫn bởi sức mạnh quân sự. Để duy trì vai trò trung tâm, mandala cần có khả năng buộc các thực thể chính trị cấp dưới khép vào đường hướng khi cần thiết.
Việc sử dụng cách cai trị của Ấn Độ và sự lan toả tiếp tục của tôn giáo Ấn Độ trong khu vực là bằng chứng về sự liên kết giao thương mạnh mẽ giữa Đông Nam Á và những nơi ở phía Tây suốt phần còn lại của thiên niên kỷ đầu tiên. Gỗ thơm, nhựa, vàng, gia vị và đôi khi nô lệ đều có nhu cầu cao. Bằng chứng chưa thật rõ ràng nhưng có vẻ như trong giai đoạn này giao thương với các vương quốc Ấn là quan trọng hơn với Trung Quốc đối với hầu hết vùng Đông Nam Á. Có một sự sụt giảm đặc biệt trong giao thương với Trung Quốc vào cuối thế kỷ VI. Tuy nhiên, vào năm 618 khi mà triều đại nhà Đường nắm quyền ở Trung Quốc và thống nhất các vùng đất thấp lần đầu tiên trong 200 năm, giao thương Biển Đông dường như đã cất cánh một lần nữa. Điều kiện đã chín muồi cho sự xuất hiện của các mandala khác tận dụng lợi thế của nó. Đây là thời đại của nhiều nền văn minh Ấn hoá lớn: Champa, Srivijaya, và Angkor: những người xây dựng công trình này đã làm thực dân châu Âu kích động và tiếp tục mê hoặc chúng ta ngày nay.
Trong khi Champa vẫn còn dính dáng vào các hành vi cướp biển, một đối tác giao thương đáng tin cậy hơn xuất hiện xa hơn nhiều về phía Nam, trên bờ biển phía Đông Nam của đảo Sumatra. Trong một thời gian dài, gần như tất cả những gì được biết về Srivijaya đều từ những mô tả của Trung Quốc. Ngay cả vị trí của nó cũng là điều bí ẩn. Mãi cho đến năm 1993 nhà khảo cổ Pháp Pierre-Yves Manguin mới có thể xác nhận những nghi ngờ trước đó rằng Srivijaya nằm dọc theo bờ sông Musi ở chỗ bây giờ là thành phố Palembang của Indonesia. Đáng buồn là có vẻ hầu hết những vết tích của một trong những nền văn minh quan trọng nhất Đông Nam Á hiện nay nằm bên dưới nhà máy phân bón PIHC. Công ty này thường được gọi là PT Pupuk Srivijaya nhưng thậm chí không còn chút dấu vết nào của thành phố cổ Srivijaya này, giống như những tàn tích mà công ty vô tình xóa sạch trong thập niên 1960.
Srivijaya là một mandala cổ điển – thế lực chi phối trong nhóm các khu định cư buôn bán dọc theo tuyến đường giao thương chính Đông-Tây. Từ căn cứ của mình, Srivijaya kiểm soát việc đi lại xuyên qua cả eo biển Malacca ở phía Bắc lẫn eo biển Sunda phía Nam. Khoảng năm 683 nó có thể có một đội quân hùng mạnh khoảng 20.000 người – phần nhiều trong số đó có lẽ là dân du cư Nusantao vốn có thể vừa mua bán vừa đánh nhau nhân danh nhà vua.[5] Giao thương đường Biển Đông-Tây thực tế không thể có được nếu không có sự đồng ý của Srivijaya. Đó là một thế lực đáng kể nên năm 683 triều đình nhà Đường Trung Quốc phái sứ thần đầu tiên tới nơi mà họ gọi là đảo Nam Dương (Nanyang) – Đông Nam Á để gắn kết quan hệ giữa hai nước.[6] Trên thực tế, Sriwijaya trở thành người gác cổng cho triều đại nhà Đường trong khu vực.
(Còn tiếp)
B.H.
Dịch giả P.V.S. gửi BVN
[1] ‘Historical Evidence to Support China’s Sovereignty over Nansha Islands’, Ministry of Foreign Affairs, PRC, 17/11/2000, xem trực tuyến tại http://www.coi.gov.cn/scs/article/z.htm.
[2] Pierre-Yves Manguin, ‘Trading Ships of the South China Sea’, Journal of Economic and Social History of the Orient, vol. 36, no. 3 (1993), 253-80.
[3] Michael churchman, ‘Before Chinese and Vietnamese in the Red River Plain: The Han-Tang Period’,Chinese Southern Diaspora Studies, vol.4 (2010), 25-37.
[4] Pye, Lucian W.,’China Erratic State, Frustrated Society’, Foreign Affairs, 1 Sept. 1990. Web 17 Jul. 2014http://www.foreignaffairs.com/articles/45998/Lucian-w-pye/china-erratic-state-frustrated-society.
[5] Wihlelm Solhelm, Archaeology and Culture in Southeast Asia: Unravelling the Nusantao, Quezon City (2007), 74.
[6] Derek Heng, Sino-Malay Trade and Diplomacy from the Tenth Through the Fourteenth Century (Athens, Ohio, 2007)
http://www.boxitvn.net/bai/36647
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét