Bill Hayton
Phan Văn Song dịch
Hoàng Việt hiệu đính
Chương 4
Đá và những chỗ rắn khác:
Biển Đông và Luật quốc tế
(Rocks and Other Hard Places: The South China Sea and International Law)
Ngày 29 tháng 3 năm 1843 đoàn người trên tàu Cyrus đang săn lùng dầu ở Biển Đông. Đáng buồn cho họ, dầu đã lẩn đi mất. Năm ngày trước, Cyrus đã hạ thuyền phóng lao xuống và đến gần, nhưng những con cá voi đã thoát đi, biến nhanh giữa các rạn san hô. Đó là công việc khó khăn và nguy hiểm. Con tàu đang chạy trong một khu vực chỉ được biết đến như là “khu nguy hiểm” (dangerous ground) theo lời cảnh báo in trên các hải đồ đầu tiên. Mặc dù có các hải đồ mới, vùng biển ngoài khơi bờ biển phía Bắc của Borneo vẫn là nơi nguy hiểm tiềm tàng đối với người săn cá voi – và cả cá voi. Nhưng vào ngày đó thời tiết tốt và có gió nhẹ ổn định cho phép tàu Cyrus tiến hành tốt đẹp việc theo đuổi con mồi.
Chiết dầu từ mỡ của cá voi chết là một quy trình độc hại. Như Ishmael phàn nàn, trên tàu Pequod trong quyển Moby Dick, “Nó có một mùi Hindoo hoang dã không kể được, có thể như là lẫn khuất gần chỗ hỏa táng. Nó có mùi giống linh hồn tội lỗi (phía cánh trái của ngày phán xét); nó là một đối tượng cho xuống địa ngục (hố sâu).” Nhưng khi đã được cho vào thùng an toàn, dầu cá voi là hàng hóa có giá trị cao và tàuCyrus trọng tải 281 tấn có thể chở hàng chục ngàn lít. Đây là phần thưởng mà thuyền trưởng của nó, Richard Spratly, đang tìm kiếm. Ông rời London 16 tháng trước và sẽ chỉ quay trở lại sau 17 tháng nữa. Phải mất gần 3 năm săn tìm mới làm cho dầu đầy chỗ chứa đủ số lượng thoả mãn chủ con tàu. Thêm vào xương răng cá và long diên hương (từ bụng cá voi) và công việc này sẽ sinh lợi nhiều. Spratly thực hiện tất cả bốn chuyến đi dài với tư cách là thuyền trưởng tàu Cyrus. Mỗi chuyến được đánh dấu bằng sự ra đời của một đứa con – dù ông chưa bao giờ thấy mặt đứa con nào trước sinh nhật thứ hai của chúng. Vào lúc mỗi đứa chào đời, ông đã trên đường đi chuyến tiếp theo.
Biển đã là định mệnh của Richard Spratly từ khi còn nhỏ. Sinh ra bên bóng bến cảng London với cha làm nghề đóng thuyền, ông học việc ở một tàu săn cá voi vào tuổi 16. Ông chuyển sang ngành cải huấn, chuyển tù nhân Anh và Ireland đến Australia, và ở tuổi 30 đã chỉ huy con tàu York chở tù. Hai năm sau, năm 1834, ông quay trở lại nghề đầu của mình: đuổi theo loài thú biển có vú khắp các vùng biển phía Nam.
Là một trong những thuyền trưởng giàu kinh nghiệm nhất trong đội, Richard Spratly có thể vượt qua những điều kiện khắc nghiệt hơn hầu hết thuyền trưởng khác. Sau nhiều năm trên boong ông biết rõ các vùng biển đầy lừa lọc này và thỉnh thoảng viết thư cho nhà chức trách với việc khám phá những chỗ đá và bãi cát ngầm nguy hiểm mà ông gặp phải. Ông thường học được qua kinh nghiệm chua cay: vào mùa xuân năm 1842, ông nói với một thuyền trưởng bạn rằng trong nhiều chuyến đi mà ông đã thực hiện ở các vùng biển xung quanh khu vực bây giờ là Indonesia, Malaysia và Philippines ông “đã bị mắc cạn gần như ở tất cả các rạn san hô và bãi ngầm này” vào một lúc nào đó. Ngay cả một thập kỷ sau đó, ông còn viết thư choNautical Magazine (Tạp chí Hàng hải) phàn nàn rằng ông “chưa bao giờ có thể tìm thấy một hải đồ của Quần đảo phức tạp này ít ra là đáng tin vào”.
Vì vậy, có phần mỉa mai là toàn bộ Quần đảo phức tạp này nay lại mang tên ông. Vào 9 giờ sáng Thứ Tư 29 tháng 3 năm 1843, có một tiếng la lớn từ đỉnh cột buồm tàu Cyrus. Chòi quan sát trên đó đã phát hiện một đảo cát thấp: 12 hải lý về phía Đông Nam. Thuyền trưởng Spratly tin rằng đảo đó chưa được ghi nhận. Những người khác không đồng ý, nói rằng đảo này đã được nhà khảo sát của công ty Đông Ấn, James Horsburgh, ghi nhận nhưng có lẽ do kính trọng đối với kinh nghiệm lâu năm của ông, Royal Navy “s Hydrographic Office (Phòng Thuỷ văn Hải quân Hoàng gia Anh) đã chọn tôn vinh Spratly và kể từ năm 1881 các hải đồ của hải quân Anh đều ghi là “đảo Spratly (Trường Sa)”. Đó là điều vinh dự thích hợp cho một nhà đi biển kỳ cựu, nhưng có lẽ trong bối cảnh của các diễn biến sau này, tên do Horsburgh đặt ban đầu – “đảo Storm (Giông Tố)”- có thể sẽ thích hợp hơn.
Spratly ắt phải là một trong hàng chục thuyền trưởng tàu Châu Âu đã phát hiện “hòn đảo cát” của mình nhưng ông là người duy nhất được ghi nhận với phát hiện đó. Có thể là điều tình cờ đó ứng vào chính ông; nhưng việc ông là người Anh thì ít tình cờ hơn nhiều. Anh là bá chủ toàn cầu, các nhà vẽ bản đồ Anh đã vẽ bản đồ tốt nhất và các ban bộ của Anh đã vạch ra các quy tắc đặt tên cho lãnh thổ. Hàng ngàn người khác có thể nhìn thấy đảo Trường Sa trong các thiên kỷ trước, thậm chí có thể đã đặt chân lên trên đó, nhưng họ không để lại dấu vết trong bất kỳ tài liệu viết nào. Ý tưởng cho rằng khoảnh đất này, chỉ dài 750 mét và rộng 350 mét, có thể thực sự “thuộc” về ai đó chưa từng đặt ra trước năm 1877.
Không ngạc nhiên chính Anh là nước đầu tiên tuyên bố nó, khởi đầu một quá trình cuối cùng dẫn đến các tranh chấp hiện nay. Hơn một thế kỷ rưỡi từ đó, hết yêu sách này đến yêu sách khác đã được đưa ra với các chính phủ lùng sục xa về quá khứ và những ngóc ngách xa nhất trong học thuyết pháp lý để tìm kiếm các chứng cứ và lập luận có thể làm cho hành động của họ tương thích với luật pháp quốc tế. Thật không may, ở Biển Đông luật pháp còn xa mới rõ ràng. Có hai bộ luật để tranh cãi: dạng cũ hơn chi phối các “yêu sách lịch sử” đối với lãnh thổ và dạng mới hơn, được xác định bởi Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS), điều chỉnh các yêu sách biển có thể được tính từ yêu sách chủ quyền lãnh thổ. Biển Đông là nơi mà hai dạng thức này đan chéo nhau – và có lẽ xung đột nhau.
*
Các quy định quốc tế về yêu sách lãnh thổ đã được những người tích cực nhất trong việc thu tóm nó vạch ra. Những nhà cai trị Châu Âu muốn hành động của họ là hợp pháp dưới mắt của Thiên Chúa và, quan trọng hơn, được bảo vệ khỏi bị đối thủ ăn tươi nuốt sống. Ở thế kỷ XV, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha cần thẩm quyền của một người có thể phát biểu nhân danh Thiên Chúa. “Giấy phép giáo hoàng” (“Papal Bull”) năm 1455 của Giáo hoàng Nicholas V trao quyền cho vua Alfonso của Bồ Đào Nha chinh phục các vùng đất và dân tộc ngoài Kitô giáo và cấm các Kitô hữu khác không được “dây dưa” với những gì mà Bồ Đào Nha sở hữu. Các văn kiện tiếp theo nó, Hiệp ước Tordesillas năm 1493 và Hiệp ước Zaragoza năm 1529, chia thế giới thành khu vực của Bồ Đào Nha và khu vực của Tây Ban Nha. Khi người Hà Lan phá thế lưỡng quyền toàn cầu này vào thế kỷ XVII, họ đã đề ra những quy định mới để hợp pháp hóa hành động của mình. Các nguyên tắc đó đã phát triển thêm hơn nữa qua các cuộc chiến tranh và những cuộc chinh phục hai thế kỷ tiếp theo cho đến, vào lúc Hội nghị Berlin năm 1884, các cường quốc Châu Âu đã phát triển một bộ các nguyên tắc mạch lạc biện minh cho sự thu tóm đất đai trên toàn thế giới và phân xử các tranh chấp giữa họ với nhau.
Trong những ngày đen tối xa xưa đó, trước khi Hội Quốc liên thành lập, họ thừa nhận 5 cách thụ đắc lãnh thổ: chinh phục (thụ đắc bằng sức mạnh đối với lãnh thổ), chuyển nhượng (một người cai trị từ bỏ quyền của mình thông qua một hiệp ước chính thức), chiếm đóng (thiết lập một chính quyền trong lãnh thổ không thuộc bất kỳ nhà cai trị nào khác: cái được gọi là “đất trống” hoặc terra nullius bất kể sự hiện diện của “người bản địa”), thời hiệu (công nhận dần dần quyền một người cai trị bởi những người cai trị khác) và bồi tụ (nơi đất cát được thêm vào lãnh thổ hiện có chẳng hạn bằng cách cải tạo biển). Trong thế kỷ XX, sau khi đã kiếm được lãnh thổ nhiều tới mức có thể được và, tiếp theo hậu quả của hai cuộc chiến tranh thế giới tàn phá dã man, nhận thấy rằng cái giá phải trả cho xung đột ngày nay chắc chắn vượt quá lợi ích, các nước chiến thắng quyết định xoá cách chinh phục khỏi danh sách này. Thụ đắc lãnh thổ bằng vũ lực đã bị Hiến chương Liên Hiệp Quốc đưa ra ngoài vòng pháp luật.
Nhưng di sản của quá khứ đế quốc đó là một hệ thống pháp luật quốc tế quy định việc phát hiện (discover) được ưu tiên hơn sự gần gũi (proximity) khi có tranh chấp lãnh thổ. Âm thanh từ giấy phép giáo hoàng vẫn còn vang vọng, đôi khi trong dạng ngôn ngữ của sân chơi: “ai tìm được thì giữ làm của, ai thua thì chỉ khóc” (“finders keepers, losers weepers”). Vì không có hiến pháp toàn cầu bao quát, các nước đã đồng ý – với mức độ khác nhau – bị ràng buộc bởi một tập hợp các tập tục và thói quen vốn được phát triển theo cơ hội để đáp ứng với các hoàn cảnh cụ thể. Qua nhiều thế kỉ, luật pháp quốc tế đã hợp nhất các đòi hỏi của các quốc gia có nhiều ảnh hưởng về một hệ thống có thể hợp pháp hoá những vùng đất mà họ giành được theo các tập quán pháp lý của tòa án dân sự Châu Âu. Vì thế hệ thống đó đòi hỏi phải có các hình thức giấy tờ, hiệp ước và bảng biểu làm bằng chứng có thể trưng ra được – chứ không phải là ý thức mới chớm về quyền quốc gia – kiểu như “các đảo này là của chúng tôi từ thời xa xưa”. Kết quả trong tranh chấp Biển Đông xảy ra tình huống có vẻ rất vô lí, theo đó Anh và Pháp có thể có yêu sách pháp lý đối với các đảo cũng mạnh bằng bất kỳ nước nào trong số các nước tiếp giáp với biển này.
Vào tháng 9 năm 1877, nhà chức trách thuộc địa Anh ở Labuan (một hòn đảo ngoài khơi bờ biển Borneo) cấp phép cho một người Mỹ tên là Graham và hai người Anh tên là James và Simpson tuyên bố chủ quyền đảo Trường Sa và An Bang thay mặt cho hoàng gia Anh và sau đó khai thác nhiều tấn phân chim tới mức họ có thể mang đi trên tàu của họ. Một thông báo đã được đăng đúng hạn trên Government Gazette (Công báo). Các nước khác có thể ở gần hơn, ngư dân nước khác có thể đã đến đảo này, hải quân các nước khác thậm chí có thể đã chạy ngang qua nó, nhưng Anh là nước đầu tiên công bố nó trên báo chí và loại bằng chứng đó là có giá trị trước toà. Từ khởi đầu khiêm tốn như vậy, các tuyên bố của đế quốc phát triển lên. Đó là hành động đầu tiên về chủ quyền của một nhà nước ở nơi mà bây giờ chúng ta gọi là Quần đảo Trường Sa. Một giấy phép khác của Anh cấp cho Công ty Central Borneo năm 1889. Tuy nhiên, sự quan tâm của các nước lớn đối với phân chim không bao giờ đạt đến mức độ dành cho trà, thuốc phiện hoặc cao su và lợi ích của họ tại các đảo vẫn chủ yếu là lợi ích về việc đi lại trên biển. Tuy nhiên Anh chưa bao giờ chính thức từ bỏ chủ quyền đối với đảo Trường Sa và An Bang.
Thật vậy, nước Anh đã kín đáo vực dậy yêu sách của mình vài tuần sau tháng 4 năm 1930 khi nhà chức trách Pháp thông báo rằng họ đã phái một tàu chiến, chiếc Malicieuse, chiếm lấy đảo Trường Sa và đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các thể địa lý khác nằm bên trong một khu vực hình chữ nhật lớn trong Biển Đông. Chính phủ hai nước đã trao đổi công hàm ngoại giao và lập luận pháp lý trong hai năm tiếp theo. Trước mắt họ lúc đó là mối nguy hiểm rõ ràng đặt ra cho các thuộc địa của họ bởi sự bành trướng của đế quốc Nhật Bản vào khu vực này. Đối mặt với một kẻ thù chung, dù không muốn từ bỏ tuyên bố của mình nhưng người Anh cũng chẳng muốn làm suy yếu tuyên bố của Pháp. Mãi cho đến tháng 7 năm 1933, chính phủ Pháp mới chính thức sáp nhập 6 đảo có tên là: Trường Sa hay Giông Tố (Storm), An Bang, Ba Bình (Itu Aba), Song Tử (được biết đối với Pháp là Les Deux Iles), Loại Ta và Thị Tứ. Một thông cáo báo chí khác đã được đặt trong tờ Journal officiel (Công báo) của chính phủ Pháp. Thông cáo này làm dấy lên cơn kích động quốc gia ở Trung Quốc nhưng (như chúng ta đã thấy ở Chương 2) khi mà chính phủ Trung Quốc nhận ra rằng việc đó liên quan đến Quần đảo Trường Sa chứ không phải Hoàng Sa thì sự ồn ào lắng xuống. Trái ngược với những gì các quan chức Trung Quốc tuyên bố hiện nay, báo chí lúc đó không có tin về các cuộc biểu tình chính thức hoặc các thông báo sáp nhập đối địch. Người Pháp giữ lấy yêu sách của họ trên giấy tờ nhưng chẳng làm gì nhiều trong việc thực thi nó trên hiện trường cho đến năm 1938 họ mới dựng một trạm thời tiết trên đảo Ba Bình, vốn đã bị quân Nhật chiếm đóng trong thế chiến thứ hai. Như chúng ta đã thấy, người Nhật đã bỏ trống đảo này một lúc nào đó sau khi Mỹ ném bom vào ngày 1 tháng 5 năm 1945 và trước khi hải quân Mỹ đổ bộ lên đảo vào 18 tháng 11 năm 1945. Các thủy thủ đến kế tiếp là người Pháp, trên chiếc tàu quét mìn FR Chevreuil, vào ngày 5 tháng 10 năm 1946. Họ dựng lên một tấm bia tuyên bố chủ quyền lần nữa cho nước Pháp và làm mới việc sáp nhập năm 1933. Chính phủ Philippines tuyên bố chủ quyền với Quần đảo Trường Sa vào tháng 7 năm 1946 nhưng đã không làm gì để thực thi nó trong nhiều thập kỉ.
Cho đến khi thế chiến thứ hai kết thúc, Hải quân Trung Hoa thậm chí vẫn không có khả năng vươn tới Quần đảo Trường Sa. Chỉ khi được Hoa Kỳ cung cấp tàu, bản đồ và đào tạo thì Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) mới có khả năng tổ chức một chuyến đi và đưa ra loại yêu sách chủ quyền mà tòa án quốc tế có thể thừa nhận. Ngày 12 tháng 12 năm 1946, hai tàu hải quân THDQ, Thái Bình [Taiping] và Trung Nghiệp [Zhongye] (tên cũ tương ứng là USS Decker và USS LST 1056), đã đến đảo Ba Bình. Theo những tài liệu của Trung Quốc, đoàn người này đã tháo bỏ một tấm bia của Nhật và dựng lên một bia của Trung Quốc ở vị trí của nó. Họ dường như không để ý tới một bia của người Pháp – hoặc không nghĩ rằng nó đáng nói. Đây là hành động chủ quyền đầu tiên, dưới dạng tòa án quốc tế có thể thừa nhận, mà chính phủ Trung Quốc thực hiện tại Quần đảo Trường Sa. Sau đó THDQ đóng quân cầm chừng (khi ở, khi đi) trên đảo, cho đến khi họ rút đi vào ngày 5 tháng 5 năm 1950. Đến lúc đó thì người Pháp đã có những ưu tiên khác: Đông Dương đang bị Hồ Chí Minh và bạn bè của yêu nước của ông tước lấy khỏi tay của họ.
Lần theo sợi chỉ sự việc gắn bó nhau thông qua tấm thảm đan dày những sự kiện xảy ra tiếp theo sẽ giúp các các luật sư quốc tế kiếm được một số thù lao cao. Hai thập kỷ đẫm máu tóm lược như sau: Việt Nam bị phân đôi thành miền Bắc cộng sản và miền Nam tư bản năm 1954, người Pháp rút đi vào năm 1956 và sau đó đất nước được thống nhất dưới chế độ cộng sản vào năm 1975. Dù có vẻ hợp lý – vì Pháp là thế lực thực dân ở Việt Nam – khi cho rằng các tuyên bố chủ quyền của Pháp ở Biển Đông sẽ tự động chuyển cho Việt Nam sau khi độc lập, nhưng lập luận đó không có khả năng thoả mãn tòa án quốc tế. Cũng giống như Anh, Pháp chưa bao giờ chính thức từ bỏ chủ quyền đối với Quần đảo Trường Sa. Pháp tuyên bố Quần đảo này cho chính họ, không thay mặt cho Việt Nam. (Tình huống trái ngược rõ ràng với tuyên bố trước đó của họ đối với Quần đảo Hoàng Sa, vẻ bề ngoài tuyên bố đó được thực hiện thay mặt cho chính quyền được bảo hộ An Nam, và sau đó chuyển cho Việt Nam). Mãi cho đến năm 1956, nước Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam) vừa được độc lập mới khẳng định chủ quyền đối với Quần đảo Trường Sa khi phản ứng với đòi hỏi của doanh nhân người Philippines Tomas Cloma. Đó cũng là ám hiệu để THDQ tái chiếm đảo Ba Bình.
Tình hình thậm chí trở nên phức tạp hơn khi ta tìm hiểu kỹ tư cách pháp lý của chính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Có thể có quan điểm cho rằng nước cộng hòa này là một quốc gia bù nhìn bất hợp pháp được các thế lực đế quốc (Pháp và Mỹ) dựng ra. Chắc chắn đây là quan điểm của các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cộng sản (miền Bắc Việt Nam hoặc VNDCCH) vào lúc đó. VNDCCH tự coi mình là chính phủ hợp pháp của toàn bộ đất nước, tạm thời bị giới hạn trong một phần của lãnh thổ quốc gia bởi việc phân vùng năm 1954. Đối lại, người ta cũng có thể coi VNDCCH (Bắc Việt Nam) và VNCH (Nam Việt Nam) là hai quốc gia hợp pháp trên hai khu vực riêng biệt của lãnh thổ quốc gia. Trong chừng mức nào đó lãnh đạo của VNDCCH cũng đã dùng lá bài này – họ bảo trợ Chính phủ Cách mạng lâm thời biệt lập, chính phủ này chịu trách nhiệm chính thức về chiến tranh ở miền Nam. Khi những người cộng sản đánh bại VNCH vào năm 1975 họ đã chính thức lập ra một nhà nước cộng sản ở miền Nam có tư cách pháp nhân riêng trong hơn một năm trước khi thống nhất hai nước thành nước CHXHCN Việt Nam năm 1976.
Tại sao tất cả các điều này lại có liên quan? Bởi vì bản chất pháp lý của tòa án quốc tế sẽ đòi hỏi một quốc gia có yêu sách phải cho thấy họ có thiết lập một yêu sách chính thức đối với một lãnh thổ, giữ lấy yêu sách đó và sau đó khẳng định nó khi đối mặt với hành động của các bên tranh chấp khác. Cho đến năm 1975, Bắc Việt chẳng làm gì nhiều để khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông, trong khi VNCH đã làm nhiều hơn rất nhiều. Nếu VNDCCH là chính phủ hợp pháp của cả nước thì việc thiếu hành động trước đó của nó có thể gây tổn hại cho tư thế của mình. Nếu các hành động của VNCH được tính tới – với tư cách một quốc gia hợp pháp bên trong lãnh thổ quốc gia Việt Nam – thì tư thế của Việt Nam sẽ mạnh hơn rất nhiều.
Có một hành động đặc biệt do lãnh đạo Bắc Việt thực hiện đã bị sử dụng để làm suy yếu yêu sách của Việt Nam đối với các đảo. Năm 1958 Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng, đã gửi một công thư ngắn đến Thủ tướng (cộng sản) Trung Quốc, trong đó ông viết rằng “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc”. Một lần nữa, đây có vẻ là một lý do hơi mơ hồ để bác bỏ yêu sách của Việt Nam đối với các đảo nhưng theo tập quán của luật pháp quốc tế nó có thể dẫn tới cái gọi là “estoppel” (luật không được nói ngược).
Estoppel là một khái niệm quan trọng trong luật pháp Châu Âu. Mục đích của nó là để ngăn chặn các bên tranh chấp nói một đàng làm một nẽo. Chẳng hạn, nếu một bên đồng ý rằng một vụ tranh chấp đã giải quyết xong thì sau đó họ không thể đi rút lại lời nói của mình. Nó nhằm mục đích đề cao tính minh bạch và hành vi trung thực, và trong luật pháp quốc tế nó cũng xem là có tác dụng như vậy. Nếu một nước công nhận tính hợp lệ của yêu sách lãnh thổ của nước khác thì trên lý thuyết nước đó bị “estopped” không được đặt vấn đề với yêu sách đó trong tương lai. Tuy nhiên vào năm 1958, cả VNDCCH lẫn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) đều không tham gia Tòa án Quốc tế và, với tư cách là nước cộng sản, cả hai đều không coi trọng lắm các quy tắc “tư sản, đế quốc” của cộng đồng quốc tế. Thay vào đó, họ đang ở giữa cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa đế quốc quốc tế chống lại các quy tắc này.
Ngày 23 tháng 8 năm 1958 quân đội CHNDTH bắt đầu nã pháo đối thủ Quốc dân đảng của họ trên đảo Kim Môn (Jinmen) và Mã Tổ (Mazu), cả hai chỉ cách Trung Quốc đại lục một vài cây số . Mười một ngày sau, cộng sản Trung Quốc đã đưa ra “Tuyên bố về Lãnh hải” tuyên bố quyền sở hữu tất cả các vùng biển từ bờ ra đến 12 hải lý ngoài khơi bao gồm cả Kim Môn và Mã Tổ. Mục đích chủ yếu là để ngăn chặn các tàu chiến Mỹ tiếp tế hoặc bảo vệ các đảo này. Nhưng tuyên bố này cũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ đối với Đài Loan và các đảo phụ cận, Quần đảo Hoàng Sa, bãi ngầm Macclesfield (TQ gọi là Trung Sa) và Quần đảo Trường Sa. Trong một cử chỉ đoàn kết chống lại đế quốc Mỹ, Việt Nam cho in bản tuyên bố trên báo Nhân Dân của Đảng Cộng sản vào ngày 6 tháng 9 và sau đó, vào ngày 14, Phạm Văn Đồng gửi công thư của ông đi. Công thư đó không đồng ý một cách rõ ràng tuyên bố của Cộng sản Trung Quốc đối với các đảo nhưng cũng không bác bỏ nó một cách minh bạch. Việc không đưa ra phản đối có thể là căn cứ đủ để tòa án coi yêu sách của Việt Nam đối với các đảo bị “estopped”. Tuy nhiên, các lãnh đạo Việt Nam cảm thấy nhiều hơn là chỉ phiền lòng nếu cử chỉ về tình đoàn kết anh em của họ với nhà nước cộng sản kia trong giai đoạn mà cả hai nước đều không quen thuộc với những chi tiết vụn vặt của luật pháp quốc tế lại được sử dụng để làm suy yếu vị thế lãnh thổ nước mình hơn nửa thế kỷ sau đó.
Nói tóm lại, khi đặt trong khuôn khổ những quy tắc phức tạp và tập tục của luật pháp quốc tế thì những gì có vẻ là yêu sách tự nhiên của Việt Nam đối với Quần đảo Trường Sa ngoài khơi bờ biển của đất nước họ lại ít mạnh mẽ hơn là nó có vẻ như vậy. Việt Nam không thể dựa vào những hành động của đế quốc Pháp trong hai thập niên 1930 và 1940 trừ khi được chính phủ Pháp chính thức nhượng lại tuyên bố của họ đối với Quần đảo Trường Sa. Cũng có thể có lập luận pháp lý về việc liệu nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay có là quốc gia thừa kế hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa cùng các hành động của quốc gia này và liệu thư của Phạm Văn Đồng có làm suy yếu yêu sách của VNDCCH hay không.
Yêu sách lịch sử của Trung Quốc đối với Quần đảo Trường Sa dựa trên các trích dẫn về quần đảo này trong tài liệu cổ xưa. Tuy nhiên, khi đọc kỹ hơn những câu chữ đó chẳng cho thông tin nào về chính xác đảo nào đang được nhắc đến và không có gì làm thành bằng chứng về chinh phục, chuyển nhượng, chiếm đóng, thời hiệu hoặc bồi tụ. Thay vào đó tòa án quốc tế sẽ phải vật lộn với lịch sử hiện đại phức tạp của Trung Quốc. THDQ tuyên bố thành lập vào tháng 1 năm 1912 và được các cường quốc lớn chính thức công nhận vào tháng 10 năm 1913. Nhưng ngay cả trước khi điều này xảy ra, 7 tỉnh phía Nam đã nổi dậy chống lại sự kiểm soát của Bắc Kinh, mở đầu một cuộc nổi dậy dẫn đến việc Tôn Dật Tiên và các đồng minh của ông thành lập chính phủ đối địch tách biệt tại Quảng Châu vào năm 1917. Phải mất 11 năm chính quyền này mới có thể giành lấy được quyền lực trên cả nước và trở thành chính phủ được quốc tế công nhận của Trung Hoa. Trong giai đoạn đầy biến động đó, các cơ quan chức trách ở miền Nam Trung Quốc được cho là đã thực hiện một số hành động làm thành cơ sở cho các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Quần đảo Hoàng Sa.
Đặc biệt, chính quyền miền Nam đã đặt quần đảo này dưới quyền quản lý của đảo Hải Nam trên danh nghĩa vào năm 1921 và sau đó các cấp giấy phép cho việc khai thác phân chim. Trong hai năm 1923 và 1927 họ đã phái tuần tra kiểm tra hoạt động của những người thu gom phân chim. (Nhà Sử học Ulises Granados đã tìm thấy bằng chứng trong các báo cáo đương đại của tình báo Anh rằng các giấy phép này thực sự ăn khớp với một công ty bình phong cho lợi ích của Nhật Bản được cho là đã hứa sẽ cung cấp vũ khí và tài trợ để đổi lấy quyền phát triển trên khu vực đảo Hải Nam và Quần đảo Hoàng Sa.) Nhà chức trách Pháp (thay mặt cho nước được bảo hộ An Nam) không phản đối tất cả điều này và sự không hành động này hiện nay được sử dụng như bằng chứng về sự mặc nhận của Pháp đối với chủ quyền của Trung Quốc. Nhưng không rõ tòa án hiện đại sẽ coi các hành động do một chính phủ không được các cường quốc lớn công nhận thực hiện trước năm 1928 như thế nào?
Tình hình trở nên phức tạp hơn sau khi nước CHNDTH (cộng sản) thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1949 và Trung Hoa Dân Quốc bị tống sang Đài Loan. Bắc Kinh rõ ràng không công nhận tính hợp pháp của THDQ ở Đài Loan nhưng các quyền của quốc gia cộng sản này tại Quần đảo Trường Sa lại dựa hoàn toàn vào tuyên bố chủ quyền đối với đảo Ba Bình do quân đội THDQ thực hiện lần đầu tiên vào năm 1946. Nhà chức trách cộng sản ở Bắc Kinh hiện tại bênh vực chuyến đi của tàu Taiping như là một tuyên bố về chủ quyền được thực hiện nhân danh toàn bộ nước Trung Hoa. Tuy nhiên, họ từng có một cái nhìn khác về con tàu này 60 năm trước đây, trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất, coi nó như là một biểu tượng của đế quốc Mỹ. Quân cộng sản đã đánh chìm tàu Taiping ngoài khơi Quần đảo Đại Trần (Tachen) ngày 14 tháng 11 năm 1954. Sự kiện này đồ đậm những vấn đề mà lãnh đạo Bắc Kinh có thể có trong việc xây dựng hồ sơ pháp lý cho chủ quyền của họ đối với Quần đảo Trường Sa. Nếu nó là quốc gia thừa kế THDQ thì nó có thể dùng các hành động của THDQ sau khi nhà nước cộng sản tuyên bố thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1949 để củng cố tuyên bố của chính nó hay không? Ví dụ, vào năm 1956 chính lực lượng hải quân của THDQ đã đuổi nhóm anh em Cloma ra khỏi Ba Bình và Song Tử. Điều đó tỏ ra là một sự khẳng định cụ thể về chủ quyền của THDQ – nhưng đó có là một hành động mà CHNDTH có thể coi là của mình hay không. Nếu tới lúc nào đó mà chính phủ Đài Loan chọn cách hợp nhất với nước CHNDTH trên lục địa thì đây sẽ là một điểm tựa cho sức bẩy to lớn.
Không một vấn đề nào trong số nêu trên đã được thử thách tại tòa án quốc tế và, do sự phức tạp và sự không chắc chắn của những khó khăn pháp lý đan xen, có vẻ không chắc rằng chúng sẽ có lúc được đưa ra. Từ góc độ lịch sử, tất cả những gì chúng ta có thể nói là trong số các tuyên bố chủ quyền đối với các đảo – dù của Anh, Pháp, THDQ, CHNDTH, Việt Nam hay, như chúng ta sẽ thấy sau này, của Philippines, không có một tuyên bố nào có vẻ là hoàn toàn thuyết phục. Nếu như Anh giữ cho lá cờ của mình tiếp tục tung bay trên đảo Trường Sa và Pháp cũng làm điều tương tự trên đảo Ba Bình hoặc nếu một trong hai nước này chính thức nhượng quyền của mình cho bên yêu sách khác thì tình hình có thể sẽ rõ ràng hơn. Nhưng họ chưa làm điều đó, do đó, các quốc gia trên bờ biển đã tạo ra sự kiện riêng của mình trong “khu nguy hiểm” thay vào.
*
Hiện giờ “đảo cát” của Richard Spratly được cư dân của nó gọi là Trường Sa Lớn. Lớn là tương đối. Nó là mảnh đất lớn nhất trên mặt biển trong Quần đảo Trường Sa dưới sự kiểm soát của Việt Nam – nhưng điều đó không nói gì nhiều. Điểm tự nhiên cao nhất của nó là 2.5 mét trên mực nước biển mặc dù có rất ít cái là tự nhiên trên đảo Trường Sa bây giờ. Bãi biển đã được bao bọc đằng sau một bức tường bê tông cao nhằm chắn sóng và chắn cả khách không mời. Trên bức tường nhô lên hàng chục trụ và giá treo: đèn pha năng lượng mặt trời, turbine gió phát điện, tháp radar và trụ điện thoại di động không lồ. Những mái nhà đô thị chen lẫn một cách dị thường với cây cối: các toà nhà đúng chuẩn thuộc khu vực nhà nước Việt Nam (gạch đỏ, tường màu đất son, bao lơn tân cổ điển) được lực lượng xây dựng xã hội chủ nghĩa đưa từ đất liền ra.
Nhìn từ trên xuống, đảo có hình dạng như một tam giác cân, giống như một dấu chỉ đường trỏ về quê hương cách xa 470 km. Chạy dài theo cạnh đáy của tam giác cân và chiếm khoảng một phần tư diện tích toàn bộ đảo là một đường băng bê tông – được quân đội VNCH xây dựng trước đây và được xây dựng lại vào năm 2004. Một mạng lưới các con đường chạy song song và vuông góc giữa các hàng cây từ đất liền đưa ra, tạo ra một vùng ngoại ô vườn giữa biển. Từ đáy tam giác nhô ra biển là một cầu cảng kéo dài 75 mét nằm trên bãi san hô đầu tiên ra đến chỗ nước đủ sâu để đón tàu đánh cá và các tàu tiếp tế thỉnh thoảng ghé qua. Vật chướng ngại lấp đầy vùng nước xung quanh các phần còn lại của chu vi đảo: cọc nhọn chọc thân tàu nhằm phá hỏng lực lượng xâm lược trước khi nó có thể tiếp cận bờ.
Điều cốt yếu cho mục đích của Việt Nam rằng đảo này có vẻ là một cộng đồng ổn định, sôi động về kinh tế, cho nên nhiều nỗ lực lớn đã được thực hiện trong việc xây dựng dáng vẻ “bình thường”. Giống như hầu hết các làng mạc Việt Nam, trên đảo có một ngôi chùa, một đền thờ thành hoàng (trong trường hợp này là “ông bác sáng lập” nước Việt Nam XHCN, Hồ Chí Minh) và một đài liệt sĩ tưởng niệm các anh hùng đã ngã xuống trong cuộc chiến giải phóng dân tộc (tổ quốc ghi công). Cũng có một ngôi trường lớn để phục vụ cho số lượng rất nhỏ trẻ em sống trên đảo. Du khách có thể hưởng sự hiếu khách ở nhà khách Thủ Đô do người dân Hà Nội quyên góp lập ra.
Những đóng góp “tự nguyện” như vậy cùng các trợ cấp nhà nước khác làm cho chính quyền địa phương, hay Uỷ ban nhân dân ở đây là một trong những nơi được tài trợ cho mỗi đầu người tốt nhất trong cả nước. Vài năm trước, Phó Chủ tịch UBND Nguyễn Đức Thiện nói với Thông tấn xã VN năm 2011, đầu tư vào năng lượng mặt trời và gió có nghĩa là hòn đảo có một nguồn cung cấp điện thường xuyên, xây dựng các hồ chứa nước cho phép trữ đủ nước để đáp ứng nhu cầu và việc kết nối thông tin liên lạc đã cho truy cập vào internet. Gà vịt dạo chơi trên đảo. Nhiều luống rau nhỏ đã được thiết lập sau các màn cao để cố chắn gió, cát và muối. Chuối và cây ăn quả khác chạy dọc theo đường. Một dự án $ 170 000 do Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam Việt Nam đang cố gắng để tăng năng suất nhưng Trường Sa Lớn là khó có thể tự túc. Dân số tăng nhanh hơn thức ăn, nước uống và thậm chí cả đất đai mà cây cối trồng lên vẫn phải được tàu chuyển đến.
Không chỉ nhu cầu vật chất cần được phục vụ. Đời sống tinh thần cũng phải được chăm sóc. Tháng 4 năm 2012 năm tu sĩ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam chính thức (phương châm: Đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội) đã theo tàu ra sống 6 tháng trên Trường Sa Lớn với sứ mệnh cải thiện cuộc sống tinh thần của cộng đồng. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng quan ngại về tinh thần. Ngoài các đợt thanh tra quân sự thường lệ và ngày quốc khánh, hai ngày kỷ niệm được ghi dấu cẩn thận: ngày “giải phóng” các đảo khỏi sự kiểm soát của miền Nam Việt Nam năm 1975 và ngày mất đảo Gạc Ma năm 1988. Tại các buổi lễ này, các chiến sĩ trẻ được khuyến khích luôn cảnh giác chống lại các âm mưu hiểm độc của kẻ thù không nêu tên. Đảo Trường Sa không phải là một hòn đảo “bình thường”: đó là một bức tường thành không thể chìm. Ẩn trong cây cối – giữa trường học, nhà nghỉ và chùa – là công sự, doanh trại, ít nhất năm xe tăng chiến đấu, 20 ụ súng và một đơn vị đồn trú để bảo vệ. Nhưng sống ở đó – hoặc trên một trong 21 đảo nhỏ/rạn san hô khác do Việt Nam kiểm soát – là gian khổ. Giữ cho binh lính và thủy thủ còn đủ tinh thần là rất quan trọng và Đảng lúc nào cũng quan tâm đến việc nuôi dưỡng tình cảm liên kết giữa các đơn vị ngoài biển và dân chúng trong đất liền.
Đảng xuất sắc trong việc tổ chức các hoạt động đoàn kết “cấp cơ sở”, khi tình cảm yêu nước tăng lên trong những năm gần đây, sự tham gia vào các chiến dịch gây quỹ cho những người lính và thủy thủ ở trên biển đã trở nên ngày càng tốt hơn. Các khoản tiền liên quan là tương đối nhỏ, nằm trong định mức cho quà của chính quyền trung ương, nhưng sức mạnh động viên trong những chiến dịch này không thể chỉ đo bằng giá trị tiền tệ. Chúng là những công cụ mạnh mẽ mà các lãnh đạo giành được sự ủng hộ của nhân dân với chúng. Báo chí đã công khai quyết tâm tuyên truyền thông tin về các đảo và các tỉnh tổ chức các cuộc tặng quà mà tại đó các nhánh san hô và đá cuội bãi biển được đổi lấy các DVD karaoke, bàn bóng bàn, máy phát điện và thuốc lá tặng biếu. Các chương trình truyền hình chiếu cảnh phóng viên yêu nước mặc áo thun với dòng chữ ca ngợi những thanh niên và phụ nữ dũng cảm bảo vệ lãnh thổ quốc gia nơi xa xôi. Một thập kỷ trước, những điều như thế này sẽ là những nghi thức tẻ nhạt, nhưng bây giờ chúng được khán giả hâm mộ nhiệt tình theo dõi.
Việt Nam không được hưởng “lợi thế nước đi đầu” trong việc lựa chọn vị trí trong Quần đảo Trường Sa. THDQ đã chiếm đóng lại đảo Ba Bình, đảo lớn nhất, vào năm 1956. Philippines chiếm đóng Thị Tứ (Philippines gọi là Pagasa), VĩnhViễn (Lawak) và Bình Nguyên (Patag), và Song Tử, một lúc nào đó trước tháng 7 năm 1971. (Họ cũng đã xét tới việc đổ bộ lên đảo Ba Bình nhưng bị tàu Đài Loan ngăn cản.) Vào lúc Nam Việt Nam phái lính thủy đánh bộ ra đây vào tháng 9 năm 1973, các lựa chọn trở nên hạn chế hơn. Đảo Trường Sa – Trường Sa Lớn – là một ứng viên rõ ràng vì nó là hòn đảo thích hợp gần với đất liền Việt Nam nhất và cũng ở bên ngoài khu vực Philippines tuyên bố chủ quyền. Họ đã học được từ những sai lầm của Philippines nên không cố gắng để chiếm đảo Ba Bình: đảo này đã được tăng cường mạnh mẽ vào thời điểm đó. Thay vào đó họ lẻn lên đảo Nam Yết, phần thuộc cùng rạn san hô vòng (bãi Tizard) cách Ba Bình khoảng 20 km qua đầm phá. Cũng khoảng thời gian đó họ cũng đã chiếm lấy đảo Sinh Tồn (Sin Cowe) trên bãi Union (đảo lớn thứ bảy) và đảo An Bang (Amboyna) ở xa hơn nữa về phía Nam.
Một phần thưởng khác lọt vào tay Việt Nam qua một sự kết hợp giữa rượu và thời tiết xấu. Hai đảo cực Bắc của Quần đảo Trường Sa nằm ở chỗ mà người Anh gọi là North Danger Reef (đá Nguy Hiểm Bắc). Đây là nơi mà vào tháng 10 năm 1956, Filemon Cloma đã bị Hải quân Đài Loan buộc phải từ bỏ trò thu tóm đảo của mình. Như tên gọi của Pháp – Les Deux Iles (Hai Đảo)- cho thấy rạn san hô này có hai thể địa lý chính: Song Tử Đông dài 2 km (tiếng Philippines là Parola) và Song Tử Tây dài 650 mét (tiếng Philippines là Pugad). Đầu năm 1975 quân trú đóng Philippines chiếm cả hai đảo này và hai đơn vị thường giao lưu với nhau. Một đêm các sĩ quan và binh lính từ Pugad được mời đến Parola dự tiệc. Theo Tướng Juancho Sabban, cựu chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy miền Tây Philippines, họ không thể trở về Pugad vì thời tiết xấu. Thật không may cho người Philippines, thời tiết không quá xấu để ngăn chặn quân đội Nam Việt lẻn vào đảo khi họ vắng mặt. Pugad đã bị người Việt Nam chiếm đóng từ đó và bây giờ cư dân ở đó gọi là đảo Song Tử Tây.
Đó không phải là kết thúc của câu chuyện, như chúng ta đã thấy trong Chương 3. Chỉ một vài tháng sau đó, trong những tuần cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam, Hà Nội phát động chiến dịch Biển Đông nhằm tóm lấy tất cả các đảo đang dưới sự kiểm soát của miền Nam Việt Nam. Song Tử Tây là mục tiêu đầu tiên của họ. Lực lượng đặc biệt đã đổ bộ lên đảo vào ngày 13 tháng 4. Sau một cuộc đọ súng ngắn, một số trong những người bảo vệ đảo nhận ra vị thế của họ là vô vọng và đầu hàng. Nhưng có một trung úy, phải đối mặt với triển vọng của một trại tù cộng sản đã đặt niềm tin vào tình thân hữu tư bản. Ông lao vào văn phòng của những người lính Philippines mà đơn vị của ông mới làm nhục gần đây sau khi bơi 3 km qua đầm phá tìm đến sự an toàn ở Parola. May mắn cho ông ta, người Philippines tha thứ và cho ông chỗ trú thân. Trong khi đó, những người cộng sản tiếp tục vội vã chiếm lấy các đảo còn lại do Nam Việt Nam giữ ngay cả trước khi Sài Gòn sụp đổ.
Hiện nay, các đơn vị đóng ở đôi đảo này đang nói chuyện với nhau. Thậm chí tốt hơn, bây giờ họ đang giao lưu thể thao. Vào tháng 3 năm 2012, các đô đốc phụ trách hải quân Việt Nam và Philippines đồng ý với nhau rằng, như một biện pháp xây dựng lòng tin, quân đội hai nước sẽ sắp xếp một loạt các trò chơi bóng đá và bóng rổ. Các trận đấu đầu tiên đã diễn ra hồi tháng 6 năm 2014. Đối với các khách Philippines đến thăm, sự tương phản giữa nơi ăn nghỉ kham khổ của họ trên Parola với cơ sở vật chất ngày càng thoải mái trên Đảo Song Tử Tây lộ ra quá rõ. Như ở trên đảo Trường Sa, người Việt đã lắp đặt ở đây các máy phát điện năng lượng mặt trời và gió, tháp radar và hải cảng nhân tạo. Một tháp đèn biển thanh lịch cao 40 mét bên trên các ngọn cây và các cơ sở thể thao.
Còn ở trên đảo Parola, các thành viên của đội trú đóng Philippines sống như người sản xuất nhỏ trên đảo hoang vắng của mình: chăm sóc các loại rau, thu hoạch dừa và đánh bắt cá. Kiếm việc để giết thời giờ là cách tốt nhất để chống lại sự buồn chán và cô đơn trong những tháng giữa các lần tàu tiếp tế đến. Một chiếc xe ủi đất bị hỏng bên cạnh bãi biển là một minh chứng rỉ sét cho tham vọng chưa được hoàn thành. Đối với tướng Sabban, tình hình trên Parola là đặc biệt thất vọng. Ông là chỉ huy ở đó trong 6 tháng vào năm 1981 và nhớ lại những ngày mà lính thuỷ đánh bộ của ông được hưởng một tiêu chuẩn tốt hơn nhiều so với cuộc sống các láng giềng của họ vào lúc đó, đang chịu đựng sự thiếu thốn của chủ nghĩa xã hội nhà nước. Kể từ đó Việt Nam đã tự do hóa nền kinh tế và tạo ra các nguồn lực để phát triển các đảo của mình. Ở Philippines, ưu tiên khác biệt. Ngân sách quân sự đã bị cắt và lính thuỷ đánh bộ đã phải đương đầu với những hậu quả.
Hậu quả của việc cắt giảm có thể được nhìn thấy trên tất cả các đảo do Philippines kiểm soát. Trên bãi Cỏ Mây (Philippines gọi là Ayungin, quốc tế gọi là Second Thomas Shoal), hải quân sống trên thân tàu BRPSierra Madre rỉ sét, một tàu đổ bộ đã cố ý cho mắc cạn trên rạn san hô vào năm 1998. Ngay cả đi bộ trên boong chính của tàu cũng nguy hiểm. Nhiều năm muối biển và gió lớn đã làm bong sơn để lộ kim loại ra ngoài. Nhiều mảng lớn trên boong đã hoàn toàn bị hư hại và khách viếng phải bước trên một tấm ván mới có thể đi qua. Năm lính thuỷ đánh bộ và hai thủy thủ làm việc bảo vệ bãi cạn này thậm chí còn có ít điều để tự khuây khoả hơn các bạn của họ trên Parola. “Cuộc sống khá khó khăn ở đây bởi vì không có cây cối, không có mặt đất”, hạ sĩ quan bậc ba Benedicto de Castro nói với một nhà báo đến thăm vào năm 2012. Chế độ ăn uống của họ gồm gần như chỉ là cá mà họ bắt được. Trong năm 2013 cuộc sống của họ càng trở nên khó khăn hơn khi các tàu cảnh sát biển Trung Quốc bao vây đồn của họ, buộc tàu tiếp tế phải quay về.
Khoảng mỗi ba tháng tàu BRP Laguna, một tàu đổ bộ thời thế chiến thứ hai của Hải quân Philippines, khởi hành cho chuyến đi “Log Run”- chuyến đi cung cấp hậu cần (logistical supply run) quanh tất cả 9 thể địa lý do quân đội Philippines chiếm đóng. Đó là một chuyến đi kéo dài bảy ngày nhưng thời tiết xấu hoặc các vấn đề cơ khí thường làm cho nó lâu hơn. Không có đảo nào trong số các đảo này có bến cảng, cầu cảng hoặc thậm chí cầu tàu để tiếp nhận được tàu lớn, do đó đồ tiếp tế phải được xếp lên xuồng nhỏ và chở vào bờ. Ở đá Rizal (Commodore Reef trên các hải đồ phương Tây) lúc triều lên đồn lính 4 người này rút vào trong ngôi nhà sàn của mình và chơi bài cho đến khi nước xuống một lần nữa. Họ ghen tị làm sao với đồng nghiệp của họ, chỉ cách một giờ tàu, trên đảo Kota (Loại Ta) với đất khô ráo và cây xanh.
Một trong những nhiệm vụ của tàu trong chuyến đi “Log Run” là kiểm tra các rạn san hô và bãi ngầm mà Philippines tuyên bố chủ quyền nhưng không đóng quân. Họ phát hiện ra ngày càng nhiều thêm bằng chứng về hoạt động của nước ngoài. Nó có thể bắt đầu với một cái gì đó có vẻ vô hại như một phao màu cam. Phao đó có thể chỉ là một điểm neo đậu cho một tàu đánh cá nhưng tướng Sabban nói rằng thường đó là bước đầu tiên trong việc thu tóm đất lén lút. Ông nói nếu không lấy phao đi thì trong vòng một vài tháng nó có thể phát triển thành một trụ thép. Giữa năm 2011 lực lượng của ông đã phát hiện ra một phao tại bãi ngầm Sabina, sau đó nó đã tiến triển thành một tàu container vận chuyển thương mại lớn neo vào bãi ngầm. Tất nhiên, đó là của Trung Quốc, ông nói. Nhớ lại sự kiện ở đá Vành Khăn (Mischief Reef) vào năm 1995, khi người Philippines bị bất ngờ, các thủy thủ và lính thủy đánh bộ đã ra lệnh tháo bỏ tất cả mọi thứ họ tìm thấy. Đó là trò chơi mèo và chuột, với Trung Quốc liên tục thử thách sự cảnh giác của các chàng trai áo lam và áo xanh lá cây.
Các chuyến đi thường bắt đầu hoặc kết thúc ở đảo chính do Philippines nắm giữ: Thị Tứ, hoặc Pagasa như cư dân của nó gọi. Cái tên Pagasa – tiếng Tagalog có nghĩa là “hi vọng” – là phù hợp, vì hi vọng là cái làm cộng đồng nhỏ bé này được duy trì. Thị Tứ là một trong những đảo đầu tiên lực lượng Philippines chiếm được và là đào lớn nhất với 37 ha. Nó lớn đủ cho một khu định cư nhỏ nhưng không đủ cho đường băng dài 1 260 mét nhô ra hai phía của nó. Đường băng được xây dựng vào giữa thập niên 1970 nhưng hiện nay chỉ có thể sử dụng nếu có sự chăm sóc cật lực. Theo cách nói của tạp chí nội bộ Kanluran của Bộ Chỉ huy miền Tây, đường băng sắp bị tách ra hoàn toàn do bị biển xói mòn. Đầu năm 2011, một tàu hải quân Philippines mang vật liệu tới để sửa chữa đã bị mắc cạn trên rạn san hô quanh đó. Quân đội tuyên bố họ không có các nguồn lực hay các kỹ năng để hoàn thành công việc và kêu gọi chính phủ tài trợ để mướn nhà thầu dân sự làm việc sửa chữa. Những cam kết đã được đưa ra nhưng sóng vẫn đang ăn xói vào đường băng.
Năm 2001, Philippines trở thành quốc gia đầu tiên cố ý cho thường dân định cư ở Quần đảo Trường Sa, nhưng nó đòi hỏi một thiết chế đặc biệt khó khăn để chịu đựng các điều kiện trên Thị Tứ/Pagasa. Chính thức, theo điều tra dân số năm 2010, đảo có dân số là 222. Trên thực tế, chỉ có khoảng 60 người sống ở đó vào một lúc bất kỳ nào. Đó một phần là vì trợ cấp của chính phủ trung ương là $ 14.000 mỗi năm chỉ có thể lo đủ cái ăn cho chừng ấy người. Hầu như tất cả mọi thứ trừ cá, muối và dừa – đều phải đưa tới bằng tàu. Không như Việt Nam, Philippines vẫn chưa chở đất ra để làm vườn rau. Cũng có một trạm điện thoại di động trên đảo nhưng tín hiệu được mô tả là rất “chập chờn”.
Thị trưởng của đảo, trên thực tế là của toàn bộ nhóm đảo Kalayaan, là Eugenio Bito-onon. Ông là một trong những người tiên phong, chuyển đến Thị Tứ / Pagasa vào năm 1997 để làm việc như một nhà quy hoạch thị trấn cho thị trấn trong hi vọng. Ông vẫn đang quy hoạch và vẫn đang hi vọng. Thị trưởng Bito-onon mơ về một đường băng an toàn và một bến cảng hoạt động, về khách du lịch bay tới tắm trong các hồ bơi và ở các rạn san hô nguyên sơ, về những chiếc du thuyền tại bến đậu, về tàu đánh cá dừng lại sắm đồ tiếp tế và một cộng đồng thịnh vượng đảm đượng được tất cả các nhu cầu của họ. Nhưng không có gì có thể chuyển dịch nếu không được chính phủ trung ương tiêm một nguồn tài trợ vào còn chính phủ thì luôn có những ưu tiên khác. Tháng 6 năm 2012 Bito-onon mở trường học đầu tiên ở đảo với một giáo viên, 3 bé nhà trẻ và 5 học sinh mẫu giáo. Đó chỉ là một phòng đơn với bàn ghế vay mượn nhưng ông hi vọng nó sẽ thuyết phục nhiều gia đình ở lại hơn. Cho đến lúc đó, trẻ em phải đi 500 km đến Palawan, đảo lớn gần nhất, để học. Ông đang hối thúc chính phủ xây dựng một trường học thích hợp với nhà vệ sinh và phòng học riêng biệt nhưng vẫn đang chờ đợi nguồn tiền $ 100 000 cần có để bắt đầu.
Trung Quốc đã đưa ra phản đối ngoại giao về việc mở trường này, lập luận rằng việc này vi phạm chủ quyền không thể tranh cãi của họ tại Biển Đông. Đó dường như là lý do chính tại sao chi phiếu của chính phủ Manila vẫn đóng. Cách tiếp cận – chính sách có thể là một từ quá mạnh – của họ là tránh không để cho Trung Quốc có bất cứ lý do gì để phản đối các hoạt động trên các đảo do Philippines đang nắm giữ và hi vọng qua đó sẽ duy trì hiện trạng. Các đơn vị trú đóng rõ ràng là lực lượng hình thức và có thể bị đè bẹp trong vòng vài phút bởi một kẻ thù quyết tâm. Ngay cả trên đảo Thị Tứ, việc phòng thủ bao gồm chừng hơn hai súng phòng không 40 mm và các vũ khí cá nhân của lính thuỷ đánh bộ. Trái ngược với tất cả các đảo có chiếm đóng khác trong Quần đảo Trường Sa, ở đây không có vật chướng ngại chống xâm lấn từ biển vào và hầu như không có công sự trên đất liền. Nỗ lực xây dựng bất kỳ thứ gì sẽ gặp phải sự phản kháng từ Bắc Kinh và, có lẽ, sẽ lặp đi lặp lại. Việt Nam chỉ cần phớt lờ các phản kháng như vậy nhưng Philippines xem chúng nghiêm túc hơn.
Một mảnh của công trình đã hoàn thành là một bức tượng nhỏ của Tomas Cloma, người khai phá nhóm đảo Kalayaan. Theo một cách nào đó, Thị trưởng Bito-onon là người thừa kế của Cloma. Ông có trách nhiệm, ít nhất trên lý thuyết, đối với 7 đảo (Kota, Lawak, Likas, Pagasa, Panata, Parola và Patag) cùng với đá Rizal, bãi Cỏ Mây, và hàng chục các thể địa lý chưa chiếm đóng cùng các khu vực biển rộng lớn ở giữa. Thị Tứ / Pagasa có một hội trường thị trấn nhưng không có tín hiệu điện thoại di động tốt nên khó để làm việc ở đó. Hầu hết thời gian trong năm, chính quyền địa phương Kalayaan hoạt động ở một văn phòng nhỏ trong một khu mua sắm bụi bặm đang phát triển ở vùng ngoại ô cảng Puerto Princesa, thủ phủ của Palawan.
B.H.
Dịch giả gửi BVN
http://www.boxitvn.net/bai/37009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét