Aung San Suu Kyi
Tháng 6 7, 2012
Lâm Yến dịch
Aung San Suu Kyi |
Việc công chúng không hài lòng với những khó khăn kinh tế
vẫn được nhìn nhận là nguyên nhân chính dẫn tới phong trào đòi dân chủ ở Miến,
được châm ngòi bởi những cuộc biểu tình của sinh viên năm 1988. Đúng là nhiều
năm với những chính sách thiếu ăn nhập, các giải pháp sai lạc của chính quyền,
lạm phát leo thang và thu nhập thực tế tụt giảm đã đưa đất nước đến tình trạng
khủng hoảng kinh tế. Nhưng không phải những khó khăn trong việc nâng cao hơn
mức sống – ở mức gần như không thể chấp nhận được – là lý do duy nhất xói mòn
lòng kiên trì của người dân vốn đôn hậu và hiền lành, mà còn do sự lăng nhục
bởi một lối sống bị biến dạng bởi tha hóa và khiếp sợ.
Các sinh viên đã đấu tranh không phải thuần túy vì cái
chết của các đồng chí, mà còn chống lại sự phủ nhận quyền được sống của họ bởi
chính thể toàn trị – một chính thể đã tước đi sự hiện diện của lẽ phải và không
đem đến bất kỳ một hi vọng nào cho tương lai. Và vì các cuộc tranh đấu của sinh
viên đã truyền tải rõ ràng sự thất vọng của công chúng, những cuộc biểu tình
này lan nhanh thành một phong trào toàn quốc. Một trong những người ủng hộ
nhiệt thành nhất cho phong trào là các doanh gia, những người đã hình thành
những kỹ năng và quan hệ cần thiết để không chỉ tồn tại mà còn giàu có trong hệ
thống. Nhưng sự giàu có không đem đến cho họ cảm nhận thực sự về an ninh và
thành đạt, và họ không thể không nhận thấy rằng nếu họ và đồng bào họ, bất kể
địa vị kinh tế, muốn có được một sự sinh tồn khả dĩ thì một bộ máy nhà nước khả
tín ít ra phải là điều kiện cần, nếu không phải là điều kiện đủ. Người dân Miến
đã lo ngại về tình trạng bấp bênh của kẻ nằm dưới sự trị vì của người khác, khi
mà thân phận họ “như nước trong bụm tay” của những kẻ nắm quyền lực tối cao.
Chúng ta đẹp xanh như ngọc
Trên bụm tay người
Nhưng ôi, chúng ta cũng có khi là
Những vụn gương vỡ nát
Trên bụm tay người
Các vụn gương, những mảnh nhỏ nhất, óng ánh và sắc nhọn,
có thể tự bảo vệ mình khỏi những bàn tay muốn nghiền nát chúng là một biểu
trưng sống động của tinh thần can đảm, một phẩm chất cần thiết của những người
muốn giải phóng mình khỏi sự kìm kẹp của bạo quyền. Bogyoke Aung San coi mình
là một nhà giải phóng và không ngừng tìm kiếm câu trả lời cho những trở ngại mà
Miến Điện gặp phải trong thời khắc thử thách của dân tộc. Ông hô hào đồng bào
mình hãy can đảm hơn: “Hãy đừng lệ thuộc vào lòng can đảm và tinh thần dũng cảm
của người khác, mỗi người trong các bạn hãy biết hi sinh để trở thành một anh
hùng và tạo dựng sự dũng cảm và can đảm của chính mình. Chỉ đến khi đó chúng ta
mới có thể cùng chung hưởng tự do thực sự”.
Nỗ lực cần thiết để tránh không bị tha hóa – trong một môi
trường mà sự khiếp sợ là một phần máu thịt của sự tồn tại hàng ngày – không tức
khắc rõ ràng với những người có may mắn sống trong những nhà nước có sự hiện
diện của pháp quyền (rule of law). Luật pháp công minh không chỉ ngăn chặn sự
tha hóa thông qua việc trừng phạt không thiên vị những kẻ phạm pháp. Luật pháp
còn giúp tạo dựng một xã hội mà trong đó mọi người có thể thỏa mãn những yêu
cầu căn bản-vốn thiết yếu cho việc bảo tồn nhân phẩm con người mà không cần
phải cầu viện đến những hành vi tha hóa. Khi thiếu vắng luật pháp như thế, gánh
nặng gìn giữ các nguyên tắc của công lý và sự đoan chính chuyển sang vai những
con người bình thường. Chính hiệu ứng tích lũy những nỗ lực bền bỉ và sự nhẫn
nại sẽ thay đổi một dân tộc – nơi lý trí và lương tri bị bóp méo bởi sự khiếp
sợ – sang một xã hội mới- nơi luật pháp tồn tại là để đáp ứng khát vọng của con
người về sự hòa hợp và công lý, trong khi giúp ngăn chặn những tính ác trong
bản chất thiên bẩm của con người.
Trong một thời đại mà sự phát triển lớn lao của kỹ nghệ
đã tạo ra những vũ khí chết người-những thứ có thể được, và đang được, những kẻ
nắm quyền vô đạo dùng để thống trị kẻ yếu và không có khả năng tự vệ, có một
đòi hỏi cấp thiết về mối quan hệ gần gũi hơn giữa chính trị và đạo đức, trên cả
cấp độ dân tộc và quốc tế. Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu của Liên hợp Quốc
khẳng định rằng tất cả mọi người và mọi hợp phần của xã hội phải đấu tranh nhằm
thúc đẩy tự do và các quyền cơ bản mà theo đó mọi người, bất kể chủng tộc, quốc
gia và tôn giáo đều được hưởng. Tuy nhiên, chừng nào còn tồn tại các chính
quyền được thiết lập dựa trên sự áp bức thay vì sự chấp thuận của công chúng,
chừng nào còn tồn tại các nhóm lợi ích chỉ biết đặt lợi ích trước mắt lên trên
hòa bình và thịnh vượng lâu dài, thì hành động phối hợp quốc tế bảo vệ và phát
huy quyền con người bất quá chỉ là một nửa cuộc đấu tranh. Vẫn sẽ có những đấu
trường nơi các nạn nhân của bạo quyền phải tự dựa vào những nội lực của chính
họ để bảo vệ các quyền bất khả nhượng với tư cách là những thành viên của gia
đình nhân loại.
Cuộc cách mạng rốt ráo là cuộc cách mạng trong tinh thần,
được khai sinh từ niềm tin trí tuệ về nhu cầu cần phải thay đổi các thái độ và
các giá trị – những thứ định hình tiến trình phát triển của một dân tộc. Một
cuộc cách mạng chỉ tập trung vào thay đổi các chính sách của nhà nước và các
thể chế, với mục tiêu cải thiện các điều kiện vật chất, sẽ chỉ có rất ít cơ hội
thành công thực sự.
Thiếu vắng cuộc cách mạng trong tinh thần, nguồn gốc tạo
ra cái vô đạo của trật tự cũ vẫn sẽ tiếp tục vận hành, gây ra một đe dọa thường
trực cho quá trình cải cách và phục hồi. Sẽ không đủ nếu chỉ cổ súy cho tự do,
dân chủ và các quyền con người. Cần có quyết tâm thống nhất nhằm duy trì cuộc
đấu tranh, chấp nhận hi sinh vì chân lý vững bền, chống lại các ảnh hưởng tha
hóa của lòng ham muốn, của ác ý, của si đần và sự khiếp sợ.
Người ta từng nói rằng các vị Thánh là những tội nhân
luôn cố gắng [rửa sạch lỗi lầm của mình]. Vì thế, người tự do là những người bị
áp bức luôn cố gắng và trong quá trình đó, chuyển hóa mình để thích hợp với
việc gánh vác các trách nhiệm và gìn giữ các nguyên tắc cho một xã hội tự do.
Trong số những sự tự do cơ bản mà con người mong ước nhằm tạo dựng một cuộc
sống tràn đầy và không bị trói buộc, tự do khỏi khiếp sợ nổi lên là một phương
tiện, đồng thời là mục đích. Một dân tộc muốn xây dựng một đất nước mà trong đó
các thể chế dân chủ mạnh được xây dựng bền vững như là một bảo đảm chống lại sự
lạm quyền của nhà nước thì trước hết phải học cách giải phóng tâm mình khỏi sự
vô cảm và sự khiếp sợ.
Luôn là một người thực hành những gì mình kêu gọi, bản
thân Aung San luôn chứng tỏ sự can đảm – không chỉ là những biểu hiện bên
ngoài, mà còn là sự can đảm cho phép ông nói lên sự thật, giữ lời, chấp nhận
phê bình, thừa nhận những lỗi lầm mình có và sửa chữa, tôn trọng đối lập, hòa
đàm với kẻ thù và để dân chúng vào vị trí quan tòa phán xét sự xứng đáng của
ông trong vai trò lãnh đạo. Chính vì sự dũng cảm đạo đức như thế mà ông luôn
được kính yêu ở Miến – không chỉ với tư cách là một chiến binh anh hùng mà còn
với tư cách là nguồn cảm hứng và lương tri cho cả dân tộc. Những từ ngữ do
Jawaharlal Nehru sử dụng khi nói về Thánh Gandhi có thể áp dụng tốt trong
trường hợp của Aung San:
“Tinh hoa trong các bài giảng của ngài là sự không khiếp
sợ và sự thật, cùng với các hành động thống nhất với hai yếu tố này [trong khi
vẫn] luôn quan tâm đến phúc lợi của đám đông”.
Gandhi, nhà truyền giáo vĩ đại của tư tưởng bất bạo động,
và Aung San, người sáng lập quân đội quốc gia, là hai người có tính cách rất
khác nhau, nhưng cũng giống như có sự tương đồng hiển nhiên trong những thách
thức của chế độ toàn trị ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào, thì cũng có những tương
đồng trong các phẩm chất vốn có ở những người đứng lên đối mặt với những thách
thức ấy. Nehru, người nhìn nhận việc lan truyền lòng can đảm trong dân chúng Ấn
là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của Gandhi, là một nhà chính trị canh
tân, nhưng khi ông tiếp cận với các đòi hỏi của phong trào đòi độc lập trong
thế kỉ hai mươi, ông đã nhận thấy là mình quay trở về với triết học cổ điển Ấn:
“Món quà lớn nhất cho một cá nhân hay một dân tộc… là Abhaya, không khiếp sợ,
không thuần túy là sự can đảm bề ngoài, mà còn là sự vắng bóng sự khiếp sợ
trong tâm”.
Sự can đảm có thể là một món quà, nhưng có lẽ còn quý giá
hơn nếu can đảm được khơi lên từ sự nỗ lực, thứ can đảm đến từ việc gieo trồng
thói quen không để sự khiếp sợ kiểm soát hành vi của mình, thứ can đảm có thể
được miêu tả bằng “tự tại trước áp lực” – sự tự tại được làm mới liên tục ngay
khi đối mặt với những áp lực căng thẳng và dai dẳng.
Trong một hệ thống chính trị luôn chối bỏ sự tồn tại của
các quyền con người cơ bản, sự khiếp sợ có vẻ như là thuộc tính nổi bật. Sợ tù
đày, sợ tra tấn, sợ cái chết, sợ bị mất đi những bạn bè, gia đình, tài sản hay
phương tiện sống, sợ đói nghèo, cô lập, trước thất bại. Hình thức quỷ quyệt
nhất của sự khiếp sợ là hình thức ngụy trang dưới mặt nạ common sense (lẽ
thường) hoặc thậm chí là sự thông thái, kết án những hành vi can đảm bé nhỏ
thường nhật – những hành vi giúp bảo toàn niềm tự trọng và phẩm giá ẩn chứa
trong mỗi con người – là [những hành vi] ngu ngốc, khinh suất, không đáng giá
hoặc vô ích. Không dễ dàng để quần chúng đang khiếp sợ dưới sự cai trị hà khắc
hiểu rằng họ có thể tự giải thoát mình khỏi bầu khí độc của sự khiếp sợ hãi
đang làm họ kiệt sức. Ấy thế mà ngay cả khi dưới sự đàn áp của những bộ máy cai
trị hà khắc nhất, tinh thần can đảm vẫn trỗi dậy hết lần này qua lần khác, vì
sự khiếp sợ không phải là trạng thái tinh thần tự nhiên của một người văn minh.
Suối nguồn của lòng can đảm và sự vững vàng trước bạo
quyền vô hạn độ thường là lòng tin son sắt vào các giá trị đạo đức thiêng liêng
kết hợp với sự hiểu biết lịch sử rằng dù cho mọi khó khăn, lịch sử loài người
được đặt trên một lộ trình duy nhất là sự tiến bộ cả về tinh thần lẫn vật chất.
Chính khả năng tự cải biến và sửa sai là yếu tố quan trọng nhất phân biệt con
người với con vật. Cội rễ của trách nhiệm người là khái niệm hoàn mỹ, sự khao
khát đạt được nó, sự thông tuệ để tìm đường đến với nó, và sự sẵn lòng đi theo
con đường đó cho tới đích cuối cùng, hoặc ít ra cũng đi được khoảng cách cần
thiết để vượt lên trên các giới hạn cá nhân và các trở ngại của môi trường.
Chính viễn kiến của con người về thế giới tương thích với nhân tính duy lý và
văn minh đã dẫn chúng ta đến chỗ dám chịu đựng mất mát để xây dựng các xã hội
tự do khỏi đói nghèo và khiếp sợ. Các khái niệm như sự thực, công lý và lòng
trắc ẩn không thể bị loại trừ vì lặp đi lặp lại quá nhiều trong khi chúng
thường là những bức tường thành duy nhất hiên ngang chống lại bạo quyền.
__________________
Tiểu luận “Tự do khỏi nỗi khiếp sợ” của Aung San Suu Kyi lần đầu được phổ biến để xuất bản
với mục đích kỷ niệm Giải thưởng Sakharov vì Tự do Tư tưởng mà Nghị viện Âu châu
trao tặng. Lễ trao giải diễn ra tại Strasbourg
vào ngày 10 Tháng Sáu 1991 mà không có sự hiện diện của bà.
Nhóm Duy tân Trẻ giữ bản quyền của bản dịch tiếng Việt.
Bài đã đăng trên talawas ngày 23.4.2005
_______________________________________________________________________
Nguyên bản tiếng Anh: Freedom From Fear tại
Freedom from Fear: Daw Aung San
Suu Kyi
Posted on January 3, 2009 by sanooaung
Freedom from Fear: Daw Aung San Suu Kyi
We live
in interesting times. A climate of fear allows the corrupt and the cruel to
continue with their ways of repression and oppression. Myanmar/Burmese need to
take up our cudgels, rise up and break the chains of fear which bind us.
Revolutionise our minds! Free the spirit!
Formerly
beleaguered past President of the Malaysian Bar (2005-07), Yeo Yang Poh, thinks
we should read this (again, for some) as we start the year 2009. Unusually, he
is right.
Struggle = never knowing when to give up, to never say
die.
It is not power that corrupts but fear. Fear
of losing power corrupts those who wield it and fear of the scourge of power
corrupts those who are subject to it. Most Burmese are familiar with the
four a-gati, the four kinds of corruption. Chanda-gati, corruption
induced by desire, is deviation from the right path in pursuit of bribes or for
the sake of those one loves. Dosa-gati is taking the wrong path to
spite those against whom one bears ill will, and moga-gati is
aberration due to ignorance. But perhaps the worst of the four
is bhaya-gati, for not only does bhaya, fear, stifle and slowly
destroy all sense of right and wrong, it so often lies at the root of the other
three kinds of corruption.
Just as chanda-gati,
when not the result of sheer avarice, can be caused by fear of want or fear of
losing the goodwill of those one loves, so fear of being surpassed, humiliated
or injured in some way can provide the impetus for ill will. And it would be
difficult to dispel ignorance unless there is freedom to pursue the truth
unfettered by fear. With so close a relationship between fear and corruption it
is little wonder that in any society where fear is rife corruption in all forms
becomes deeply entrenched.
Public
dissatisfaction with economic hardships has been seen as the chief cause of the
movement for democracy in Burma ,
sparked off by the student demonstrations 1988. It is true that years of
incoherent policies, inept official measures, burgeoning inflation and falling
real income had turned the country into an economic shambles. But it was more
than the difficulties of eking out a barely acceptable standard of living that
had eroded the patience of a traditionally good-natured, quiescent people – it
was also the humiliation of a way of life disfigured by corruption and fear.
The students were protesting not just against the death of their comrades but
against the denial of their right to life by a totalitarian regime which
deprived the present of meaningfulness and held out no hope for the future. And
because the students’ protests articulated the frustrations of the people at
large, the demonstrations quickly grew into a nationwide movement. Some of its
keenest supporters were businessmen who had developed the skills and the
contacts necessary not only to survive but to prosper within the system. But
their affluence offered them no genuine sense of security or fulfilment, and
they could not but see that if they and their fellow citizens, regardless of
economic status, were to achieve a worthwhile existence, an accountable
administration was at least a necessary if not a sufficient condition. The
people of Burma
had wearied of a precarious state of passive apprehension where they were ‘as
water in the cupped hands’ of the powers that be.
Emerald cool we may be
As water in cupped hands
But oh that we might be
As splinters of glass
In cupped hands.
Glass
splinters, the smallest with its sharp, glinting power to defend itself against
hands that try to crush, could be seen as a vivid symbol of the spark of
courage that is an essential attribute of those who would free themselves from
the grip of oppression. Bogyoke Aung San regarded himself as a revolutionary
and searched tirelessly for answers to the problems that beset Burma during
her times of trial. He exhorted the people to develop courage: ‘Don’t just
depend on the courage and intrepidity of others. Each and every one of you must
make sacrifices to become a hero possessed of courage and intrepidity. Then
only shall we all be able to enjoy true freedom.’
The effort
necessary to remain uncorrupted in an environment where fear is an integral
part of everyday existence is not immediately apparent to those fortunate
enough to live in states governed by the rule of law. Just laws do not merely
prevent corruption by meting out impartial punishment to offenders. They also
help to create a society in which people can fulfil the basic requirements
necessary for the preservation of human dignity without recourse to corrupt
practices. Where there are no such laws, the burden of upholding the principles
of justice and common decency falls on the ordinary people. It is the
cumulative effect on their sustained effort and steady endurance which will
change a nation where reason and conscience are warped by fear into one where
legal rules exist to promote man’s desire for harmony and justice while
restraining the less desirable destructive traits in his nature.
In an age when
immense technological advances have created lethal weapons which could be, and
are, used by the powerful and the unprincipled to dominate the weak and the
helpless, there is a compelling need for a closer relationship between politics
and ethics at both the national and international levels. The Universal
Declaration of Human Rights of the United Nations proclaims that ‘every
individual and every organ of society’ should strive to promote the basic
rights and freedoms to which all human beings regardless of race, nationality
or religion are entitled. But as long as there are governments whose authority
is founded on coercion rather than on the mandate of the people, and interest
groups which place short-term profits above long-term peace and prosperity,
concerted international action to protect and promote human rights will remain
at best a partially realized struggle. There will continue to be arenas of
struggle where victims of oppression have to draw on their own inner resources
to defend their inalienable rights as members of the human family.
The
quintessential revolution is that of the spirit, born of an intellectual
conviction of the need for change in those mental attitudes and values which
shape the course of a nation’s development. A revolution which aims merely at
changing official policies and institutions with a view to an improvement in
material conditions has little chance of genuine success. Without a revolution
of the spirit, the forces which produced the iniquities of the old order would
continue to be operative, posing a constant threat to the process of reform and
regeneration. It is not enough merely to call for freedom, democracy and human
rights. There has to be a united determination to persevere in the struggle, to
make sacrifices in the name of enduring truths, to resist the corrupting
influences of desire, ill will, ignorance and fear.
Saints, it has
been said, are the sinners who go on trying. So free men are the oppressed who
go on trying and who in the process make themselves fit to bear the responsibilities
and to uphold the disciplines which will maintain a free society. Among the
basic freedoms to which men aspire that their lives might be full and
uncramped, freedom from fear stands out as both a means and an end. A people
who would build a nation in which strong, democratic institutions are firmly
established as a guarantee against state-induced power must first learn to
liberate their own minds from apathy and fear.
Always one to
practise what he preached, Aung San himself constantly demonstrated courage –
not just the physical sort but the kind that enabled him to speak the truth, to
stand by his word, to accept criticism, to admit his faults, to correct his
mistakes, to respect the opposition, to parley with the enemy and to let people
be the judge of his worthiness as a leader. It is for such moral courage that
he will always be loved and respected in Burma – not merely as a warrior
hero but as the inspiration and conscience of the nation. The words used by
Jawaharlal Nehru to describe Mahatma Gandhi could well be applied to Aung San:
‘The essence
of his teaching was fearlessness and truth, and action allied to these, always
keeping the welfare of the masses in view.’
Gandhi, that
great apostle of non-violence, and Aung San, the founder of a national army,
were very different personalities, but as there is an inevitable sameness about
the challenges of authoritarian rule anywhere at any time, so there is a
similarity in the intrinsic qualities of those who rise up to meet the
challenge. Nehru, who considered the instillation of courage in the people of
India one of Gandhi’s greatest achievements, was a political modernist, but as
he assessed the needs for a twentieth-century movement for independence, he
found himself looking back to the philosophy of ancient India: ‘The greatest
gift for an individual or a nation … was abhaya, fearlessness,
not merely bodily courage but absence of fear from the mind.’
Fearlessness
may be a gift but perhaps more precious is the courage acquired through
endeavour, courage that comes from cultivating the habit of refusing to let
fear dictate one’s actions, courage that could be described as ‘grace under
pressure’ – grace which is renewed repeatedly in the face of harsh, unremitting
pressure.
Within a
system which denies the existence of basic human rights, fear tends to be the
order of the day. Fear of imprisonment, fear of torture, fear of death, fear of
losing friends, family, property or means of livelihood, fear of poverty, fear
of isolation, fear of failure. A most insidious form of fear is that which
masquerades as common sense or even wisdom, condemning as foolish, reckless,
insignificant or futile the small, daily acts of courage which help to preserve
man’s self-respect and inherent human dignity. It is not easy for a people
conditioned by fear under the iron rule of the principle that might is right to
free themselves from the enervating miasma of fear. Yet even under the most
crushing state machinery courage rises up again and again, for fear is not the
natural state of civilized man.
The wellspring
of courage and endurance in the face of unbridled power is generally a firm
belief in the sanctity of ethical principles combined with a historical sense
that despite all setbacks the condition of man is set on an ultimate course for
both spiritual and material advancement. It is his capacity for
self-improvement and self-redemption which most distinguishes man from the mere
brute. At the root of human responsibility is the concept of perfection, the
urge to achieve it, the intelligence to find a path towards it, and the will to
follow that path if not to the end at least the distance needed to rise above
individual limitations and environmental impediments. It is man’s vision of a
world fit for rational, civilized humanity which leads him to dare and to
suffer to build societies free from want and fear. Concepts such as truth,
justice and compassion cannot be dismissed as trite when these are often the
only bulwarks which stand against ruthless power.
SOURCE: LOYAR BUROK
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét