Bài đã được xuất bản: 07/02/2010
07:30 GMT+7
Thử nhìn lại lịch sử, tham chiếu Nhật Bản, một nước
cũng là láng giềng Trung Quốc như Việt Nam, nền văn minh cũng sinh sau đẻ muộn
như Việt Nam, và quy mô quốc gia cũng nhỏ bé như Việt Nam, đã định vị Trung
Quốc như thế nào trong một bối cảnh lịch sử tương tự như Việt Nam.
LTS: Thế
giới, đặc biệt là các nước ở châu Á, xem sự trỗi dậy của Trung Quốc có tính
cách thời đại, đang bàn thảo sôi nổi về tác động này. Định vị Trung Quốc đang
trở thành một chủ đề nóng ở nhiều nước trong khu vực.
Bài viết dưới đây đưa ra một góc phân tích về cách nhìn
Trung Quốc của Việt Nam
và Nhật Bản thời phong kiến. Đây là góc nhìn riêng của tác giả cần được tranh
luận, làm sáng tỏ thêm. Mời bạn đọc phản biện bài viết này.
Nếu như lịch sử hiện đại của các nước Đông Á (Việt Nam, Trung
Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản) là lịch sử quan hệ với Phương Tây, thì trong các
thời kỳ tiền hiện đại, lịch sử của Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản là lịch sử
của mối quan hệ với Trung Quốc.
Trong thời đại ngày nay, khi Trung Quốc đang ôm tham vọng
giành lại vị trí lịch sử đặc biệt trước đây. Để định vị chính mình, Việt Nam
không thể không định vị Trung Quốc. Chúng ta hãy thử nhìn lại lịch sử, tham
chiếu Nhật Bản, một nước cũng là láng giềng Trung Quốc như Việt Nam, nền văn
minh cũng sinh sau đẻ muộn như Việt Nam, và quy mô quốc gia cũng nhỏ bé như
Việt Nam, đã định vị Trung Quốc như thế nào trong một bối cảnh lịch sử tương tự
như Việt Nam.
Trung Quốc trỗi dậy. Ảnh: Reuters.
Trung Quốc không phải là "thiên triều"
Nước ta suốt nghìn năm, mỗi khi Trung Quốc xâm lăng thì ngoan
cường tuyên bố "Nam quốc sơn hà Nam đế cư", nhưng thắng họ rồi thì
lại đều đặn triều cống, các Vua mỗi khi lên ngôi thì luôn xin "thiên
triều" phong tước, tự coi mình là nước nằm trong vòng ảnh hưởng của Trung
Quốc.
Trung Quốc dĩ nhiên là tức giận, nhưng phải chấp nhận. Rồi
dần dần thành quen, và... chấp nhận vĩnh viễn.
Với chúng ta, chỉ khi nào bán nước như Lê Chiêu Thống thì mới
bị nguyền rủa, còn "nộp cống xưng thần" là chuyện nhỏ, ngay cả với Lê
Thái Tổ hay Quang Trung. Ở Nhật Bản, Ashikaga Yoshimitsu (cuối thế kỷ 14), là
vị Shogun (tức "tướng quân", dưới quyền Nhật hoàng) duy nhất trong
lịch sử Nhật nhận tước phong của Trung Quốc. Và chỉ có thế, cái tên của ông này
đã bị lịch sử Nhật Bản muôn đời nguyền rủa như một vết nhơ khó rửa của dân tộc.
Như vậy, ngay cả khi không hề có chiến tranh, họ vẫn thiết
định một tư thế bình đẳng trong ngoại giao.
Đừng nghĩ rằng vì Việt Nam quá gần Trung Quốc mà đành nhân
nhượng. Chỉ cần xem quá trình Vương An Thạch phải mất nhiều năm chuẩn bị cho
cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt năm 1076 là rõ. Thời đó, chuẩn bị một cuộc
chiến tấn công Việt Nam
không hề dễ dàng.
Việt Nam lựa chọn như vậy về mặt chính trị, vì một nguyên
nhân văn hóa: chúng ta chấp nhận văn hóa Trung Quốc là một "khuôn mẫu đỉnh
cao", do đó, dù kháng chiến ngoan cường để giữ độc lập trong thực tế,
nhưng về mặt chính trị, lại chấp nhận mình thuộc vùng ảnh hưởng của nó.
Trung Quốc không phải là khuôn mẫu
Nhật Bản dĩ nhiên thừa nhận Trung Quốc là một nền văn minh
rực rỡ và học tập nó hết mình, nhưng khác Việt Nam , Nhật Bản không cho phép Trung
Quốc trở thành khuôn mẫu. Có thể thấy sự lựa chọn này ở tất cả những lĩnh vực
chủ yếu của nền văn hóa.
Cắm rễ trên nền tảng văn minh nông nghiệp lúa nước Đông Nam
Á, Việt Nam
dĩ nhiên có một bản sắc khác biệt với Trung Quốc, ngay từ cội rễ. Nhưng ta thử
nhìn vào phần văn hóa bác học, phần được tầng lớp tinh hoa dân tộc du nhập về
và "đặt chình ình" vào giữa cơ thể dân tộc.
Là một nước đi sau, Việt Nam muốn bắt kịp Trung Quốc. Nhưng
ít nhất là từ thế kỷ XV trở đi, chúng ta có một cách nhìn lạ lùng: không thua
Trung Quốc nghĩa là... không khác Trung Quốc.
Bị dẫn dắt bởi cách nhìn này, những sáng tạo của chúng ta
thật đáng tự hào, nhưng chỉ có điều, ở khá nhiều lĩnh vực chủ yếu, chưa bao giờ
vượt ra ngoài "chiếc hộp Trung Quốc". Tổ chức khoa cử như Trung Quốc.
Sắp xếp bộ máy nhà nước như Trung Quốc. Dùng hoạn quan như Trung Quốc. Viết chữ
Hán như người Trung Quốc viết... Xây dựng Văn Miếu, biểu tượng của nền văn hiến
nước nhà, chúng ta không dám làm bất kỳ chi tiết nào khác với Khổng miếu ở
Trung Quốc.
Văn miếu (Việt Nam ) xây dựng từ thế kỷ 11. Khang
Hy ở thế kỷ 17 đến thăm Khổng miếu (Trung Quốc), viết 8 chữ "Vạn thế sư
biểu. Khang Hy ngự thư". Chúng ta cũng lật đật làm một tấm bảng y như vậy
để treo ở nhà mình, đến nỗi Hồ Cẩm Đào ở thế kỷ 21 này đến thăm Văn miếu (Việt
Nam), nhìn 8 chữ ấy, từng bối rối vì ngỡ đang... ở nhà.
Ngay cả trong những sáng tạo nhằm mục đích phân biệt mình với
Trung Quốc, chúng ta cũng sáng tạo trong khuôn khổ của Trung Quốc: sáng tạo chữ
Nôm, nhưng theo đúng những nguyên tắc của chữ Hán, bắt buộc những ai muốn học
chữ Nôm thì phải học chữ Hán trước.
Nhật Bản thì không cho phép Trung Quốc có vinh dự là một lò
gạch để đúc nên những cục gạch giống nhau. Họ không tổ chức khoa cử như Trung
Quốc. Không xây dựng hệ thống nhà nước như Trung Quốc. Không dùng hoạn quan như
Trung Quốc. Dùng chữ Hán, nhưng ngay trong cuốn sử đầu tiên, "Cổ sự
ký", họ phá vỡ mối quan hệ giữa âm và nghĩa của chữ Hán để viết một thứ
chữ Hán mà người Trung Quốc... không đọc được.
Suốt hơn một nghìn năm độc lập phong kiến và tự chủ khi học
hỏi Trung Quốc, Việt Nam
có nhiều sáng tạo độc đáo, rất riêng, nhưng không có những đóng góp khiến Trung
Quốc ngày nay nhìn lại mà hổ thẹn.
Chúng ta không thể làm điều đó, vì ngay từ xuất phát điểm là
cách nhìn và cái nhìn, "chữ thánh hiền" là chữ Trung Quốc,
"người thánh hiền" là người Trung Quốc, nhìn chung, mọi hình mẫu đều
nằm ở Trung Quốc.
Vậy chúng ta thử nhìn xem ông bạn Nhật kia học Trung Quốc
bằng thái độ văn hóa nào.
Trả ơn thầy bằng cách giỏi hơn thầy
Các bậc đại Nho của chúng ta coi mọi điều hay lẽ phải đã được
"thánh hiền Trung Quốc" nói hết cả, mình không cần phải lập thuyết
làm gì, chỉ cần sống sao cho đúng.
Ở Nhật Bản xưa, các nhà Nho được tôn vinh là bậc đại Nho là
những người dám làm một việc mà đối với các nhà Nho Việt Nam là không thể chấp
nhận được: phủ định triệt để thánh hiền Trung Quốc, để xây dựng một cách nhìn mới
và một cái nhìn mới về nhân sinh.
Ảnh: 2m.au.com
Trong văn hóa Việt Nam , có bậc đại Nho nào của chúng
ta khi biện luận mà dám đặt vấn đề một cách "vô lễ" như thế này với
thánh hiền Trung Quốc? Sách "Sentetsu Sodan" ("Tiên triết tùng
đàm") của Nhật kể về Yamazaki Ansai, bậc đại Nho của Nhật Bản thế kỷ 17,
như sau: Một hôm Yamazaki Ansai hỏi các môn đệ: "Nếu bây giờ Trung Quốc cử
Khổng tử làm chánh tướng, Mạnh tử làm phó tướng, dẫn vài vạn binh thuyền tấn
công nước ta. Là học trò của Khổng Mạnh, các trò sẽ làm gì?". Nghe câu hỏi
là biết câu trả lời rồi. Các học trò của Khổng Mạnh sẽ phải... chém đầu Khổng
Mạnh để báo ơn vua, như chính Khổng Mạnh đã dạy.
Việt Nam
thì chỉ có thể chém đầu Ô Mã Nhi, Liễu Thăng, chứ chém đầu cụ Khổng cụ Mạnh thì
không dám. Chúng ta không cảm thấy cần phải "đặt vấn đề" về mặt văn
hóa với Trung Quốc.
Thế kỷ 17, Nhật Bản có một bậc đại Nho là Ito Jinsai phê phán
triệt để Tống Nho: để hiểu Đạo của người, không thể bằng cách nhìn đạo của Trời
thông qua Lý, như Tống Nho quan niệm, mà cần nhìn thẳng vào chính cuộc sống đời
thường và trần tục này. Họ có những kẻ điên.
Tominaga Nakamoto, đầu thế kỷ 18, còn đi xa hơn nữa, lớn
tiếng tuyên bố rằng, đạo Nho là của Trung Quốc, đạo Phật là của Ấn Độ, Thần đạo
thì của Nhật Bản nhưng của thời xưa.
Cần một triết thuyết mới cho cuộc sống thực hôm nay. Nakamoto
tuyên bố vậy, nhưng chẳng làm được gì cả. Chí nguyện là một chuyện, còn có sáng
tạo được cái "triết thuyết mới" ấy hay không là chuyện khác.
Tuy nhiên, điên như Nakamoto là dở cho riêng ông nhưng tốt
cho đất nước ông. Khoảng nửa thế kỷ sau, thái độ thách thức cái vị trí đỉnh cao
văn hóa của Trung Quốc đã đi đến đích: ngay từ trước duy tân Minh Trị gần một
thế kỷ, cậu học trò Nhật Bản có những cống hiến thực sự trong thực tế để dạy
lại ông thầy của mình.
Các học phái "Kokugaku", "Rangaku",
"Mito"... đã phủ nhận tận gốc vị trí lãnh đạo của văn hóa Trung Quốc,
bằng cách chỉ ra những lý luận phi tự nhiên của Nho giáo Trung Quốc, sự cực
đoan của học thuyết "thiên mệnh", những sai lầm trong những kiến thức
y học Trung Quốc về giải phẫu người ...
Học tập Trung Quốc là chịu ơn Trung Quốc. Chịu ơn thầy thì
phải trả ơn thầy. Cách trả ơn duy nhất đúng là cống hiến cho ông ấy những hiểu
biết mới của riêng mình.
Lời cuối cho một khởi đầu
Sang đến thế kỷ XIX, ở Việt Nam, đáp lại tiếng khóc canh tân
thảm thiết của Nguyễn Trường Tộ là cái im lặng đáng sợ của một hoang mạc tinh
thần, vì ngay cả khi Việt Nam đã bị Pháp nghiền nát, những ông quan hay chữ
trong triều đình Huế vẫn chưa thôi sùng bái Trung Quốc như là "khuôn mẫu
đỉnh cao".
Ở Nhật Bản, vì dám thách thức thầy mình về mặt trí tuệ, nên
sang đầu thế kỷ XIX, trí thức Nhật không bất ngờ khi thấy Trung Quốc đại bại
trước Anh quốc trong chiến tranh nha phiến. Và nhờ thế, họ được chuẩn bị sẵn về
mặt tinh thần để đáp lại tiếng gọi canh tân của Fukuzawa Yukichi bằng một nhịp
bước quân hành khiến cả bầu trời rung chuyển.
Cách nhìn tạo ra cái nhìn. Cái nhìn tạo ra sự lựa chọn. Sự
lựa chọn tạo ra số phận. Số phận thay đổi khi cách nhìn thay đổi.
Người Nhật ngày trước nhìn văn hóa Trung Quốc như thế nào thì
sau đó họ cũng nhìn văn minh Phương Tây theo cách ấy. "Học tập Phương Tây,
Đuổi kịp Phương Tây. Vượt qua Phương Tây" - đó là tinh thần Nhật Bản suốt
từ thời kỳ Duy tân đến nay. Tinh thần này trùm lên mọi lĩnh vực, kể cả văn
chương nghệ thuật.
Dĩ nhiên, khi nghe khẩu hiệu này của Nhật Bản, ta sẽ cảm thấy
họ lộng ngôn. Bởi "Phương Tây" là cả một thế giới khổng lồ và đa
dạng. Nhật Bản không thể so sánh được về mặt quy mô. Nhưng, lộng ngôn thì cũng
như ... Nakamoto ở thế kỷ 18 là cùng.
Mỗi dân tộc khi tham gia vào dòng chảy toàn cầu hóa đều không
thể không định vị quốc gia mình trên bản đồ thế giới. Mỗi người Việt định vị
bản thân mình trước cuộc đời như thế nào thì Dân tộc Việt định vị chính nó
trước thế giới như thế ấy.
Sức mạnh của một dân tộc thể hiện rõ nhất không phải khi nó
đứng ở vị thế của kẻ mạnh, mà khi nó sinh ra, mới ngước mắt nhìn mặt trời đã
nhận thấy mình là kẻ yếu.
Một dân tộc yếu khi còn chưa thôi thách thức những đỉnh cao,
nó vẫn còn đang sống, đang hành trình. Một dân tộc đã chấp nhận một đỉnh cao
nào đó là khuôn mẫu vĩnh viễn, nó là một chiến binh "gục bên súng mũ bỏ
quên đời".
NGUYỄN LƯƠNG HẢI KHÔI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét