CHƯƠNG V:
PHIÊN BẢN THỨ HAI (PHIÊN BẢN ĐẦU TIÊN KÈM THEO TUYÊN NGÔN VỀ NHÂN QUYỀN
VỚI MƯỜI ĐIỀU LUẬT BỔ SUNG SỬA ĐỔI ĐƯỢC THÔNG QUA VÀO NGÀY 15 THÁNG CHẠP 1791).
I. PHIÊN BẢN ĐẦU TIÊN KÈM THEO
TUYÊN NGÔN VỀ NHÂN QUYỀN VỚI MƯỜI ĐIỀU LUẬT BỔ SUNG SỬA ĐỔI TỪ NĂM 1789 ĐẾN NĂM
1791.
A. TUYÊN NGÔN VỀ NHÂN QUYỀN.
Những người theo Chủ nghĩa
Liên bang có lẽ chẳng bao giờ có được sự phê chuẩn ở một số bang quan trọng nếu
như họ không cam kết bổ sung Tuyên
ngôn Về Nhân quyền vào Hiến pháp. Hầu hết hiến pháp các bang được thông qua
trong Thời kỳ Cách mạng đều có một tuyên bố rõ ràng về quyền của tất cả người
dân. Hầu hết người Mỹ tin rằng không hiến pháp nào có thể được coi là hoàn
chỉnh nếu không có một tuyên bố như thế. George Mason của bang Virginia chịu
trách nhiệm soạn thảo Tuyên ngôn Về Nhân quyền đầu tiên và nổi tiếng nhất của Mỹ,
với tên gọi là Tuyên ngôn Về các Quyền Công dân cho bang Virginia năm 1776. Ông
và Patrick Henry có thể đã ngăn cản việc phê chuẩn Hiến pháp ở Virginia nếu như những
người theo Chủ nghĩa Liên bang không đồng ý với những yêu cầu sửa đổi của họ.
James Madison đã lãnh đạo Quốc
hội mới đề xuất các Điều luật Bổ sung Sửa đổi. Ông đề xuất 15 Điều luật Bổ sung
Sửa đổi, và Quốc hội đã chấp nhận 12 trong số đó để chuyển cho cơ quan lập pháp
ở các bang phê chuẩn theo quy trình sửa đổi được đề ra trong Điều luật V
của Hiến pháp. Đến ngày 15 Tháng Chạp 1791, các cơ quan lập pháp cần thiết ở ba
phần tư số bang đã phê chuẩn 10/12 Điều luật Bổ sung Sửa đổi. Mười Điều luật Bổ
sung Sửa đổi này được gọi là Tuyên ngôn Về Nhân quyền. Một trong hai sửa
đổi bị bác bỏ là sửa
đổi về quy mô của Hạ Nghị viện. Sửa đổi này đòi thay đổi số đại diện từ không
quá một đại diện cho 30.000 dân sang không quá một đại diện cho 50.000 dân. Sửa
đổi bị bác bỏ còn lại quy định Quốc hội không thể thay đổi lương của các Nghị
sỹ cho đến sau khi tổ chức bầu cử các đại diện. Sửa đổi này được phê chuẩn sau
đó 202 năm và trở thành Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 27.
Những người chống lại Chủ
nghĩa Liên bang chấp nhận thất bại khi thấy Hiến pháp được thông qua, và sau đó
họ chủ trương giành quyền lực theo những quy định của Hiến pháp. Những hành
động của họ tạo nên một đặc thù chưa bao giờ thay đổi trong chính trị Mỹ. Người
Mỹ đôi khi cảm thấy bất mãn với chính sách và hành động của những người cầm
quyền. Nhưng hầu như không có người Mỹ nào lên án hệ thống hiến pháp hoặc cảm
thấy rằng một Đại hội Lập hiến thứ Hai có lẽ sẽ tạo nên một hiến pháp tốt hơn.
(Trích dẫn từ “Ấn
phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Mỹ, Tháng Bảy 2004. Bản
dịch của Sứ quán Mỹ tại Việt nam”).
B. TUYÊN NGÔN VỀ NHÂN QUYỀN VỚI
MƯỜI ĐIỀU LUẬT BỔ SUNG SỬA ĐỔI.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền với mười điều luật bổ sung sửa đổi được đề
xuất vào ngày 25 Tháng Chín 1789 rồi được phê chuẩn vào ngày 15 Tháng Chạp
1791. Ban đầu, các Điều luật Bổ sung Sửa đổi chỉ hạn chế Chính phủ Liên bang.
Nhưng Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 14 tuyên bố rằng không bang nào có thể tước
đoạt cuộc sống, quyền tự do, hoặc tài sản của bất kỳ ai mà không thông qua “quy trình pháp lý phù hợp”. Toà án Tối
cao đã diễn đạt những từ này có nghĩa là hầu hết Tuyên ngôn Về Nhân quyền được
áp dụng để giới hạn quyền của các bang cũng như của các chính quyền địa phương.
Tuyên ngôn Về
Nhân quyền
Điều
luật Bổ sung Sửa đổi thứ 1
TỰ DO TÍN
NGƯỠNG, TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ BÁO CHÍ; QUYỀN HỘI HỌP VÀ KIẾN NGHỊ
Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào
nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo
chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị chính phủ sửa chữa những
điều gây bất bình.
CHÚ THÍCH:
Nhiều quốc gia chỉ có một tôn giáo và
một nhà thờ chính thống (chính thức) và hỗ trợ bằng ngân quỹ của chính phủ. Điều
luật Bổ sung Sửa đổi này nghiêm cấm Quốc hội thành lập hoặc bằng bất cứ cách
thức nào khác hỗ trợ cho một nhà thờ chính thống như vậy. Quy định này được giải thích là cấm chính phủ tán thành
hoặc hỗ trợ cho các học thuyết tôn giáo. Ngoài
ra, Quốc hội có thể không thông qua các đạo luật hạn chế việc thờ cúng, ngôn
luận hoặc báo chí, hoặc ngăn cản nhân dân hội họp một cách hòa bình. Quốc hội
cũng không được ngăn cản nhân dân yêu cầu chính phủ bồi thường do những đối xử
bất công. Toà án Tối cao giải thích Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 14 áp dụng Điều
luật Bổ sung Sửa đổi thứ nhất đối với các bang cũng như đối với chính phủ liên
bang.
Tuyên ngôn Về
Nhân quyền
Điều luật
Bổ sung Sửa đổi thứ 2
QUYỀN MANG VŨ
KHÍ
Xét thấy lực lượng dự bị có tổ chức nghiêm
chỉnh là rất cần thiết cho nền an ninh của một quốc gia tự do, quyền của dân
chúng được giữ và sử dụng vũ khí sẽ không bị vi phạm.
CHÚ THÍCH:
Sửa đổi này được giải thích theo hai
cách. Một số người tin rằng nó cho phép các công dân bình thường quyền sở hữu
các loại vũ khí. Những người khác cho rằng nó chỉ cho phép các bang quyền được
duy trì quân đội riêng của họ.
Tuyên ngôn Về
Nhân quyền
Điều luật
Bổ sung Sửa đổi thứ 3
NƠI Ở CỦA BINH
LÍNH
Không một quân nhân nào trong thời bình
được đóng quân trong bất cứ nhà dân nào nếu không được sự đồng ý của chủ nhà,
và ngay trong thời chiến cũng chỉ theo quy định của luật pháp.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này phát
sinh trực tiếp từ một vụ kiện cũ chống lại người Anh khi bắt buộc nhân dân phải
nhận binh lính vào ở trong nhà của họ.
Tuyên ngôn Về
Nhân quyền
Điều luật
Bổ sung Sửa đổi thứ 4
LỆNH TRUY NÃ VÀ
BẮT GIỮ
Quyền của con người được bảo đảm về cá
nhân, nhà cửa, giấy tờ và tài sản khỏi mọi sự khám xét và bắt giam, quyền này
sẽ không được vi phạm. Không một lệnh, trát nào được cấp nếu không có lý do xác
đáng căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận, đặc biệt cần miêu tả chính xác
địa điểm khám xét, người và đồ vật bắt giữ.
CHÚ THÍCH:
Biện pháp này không ngăn cấm các nhà
chức trách pháp lý truy nã, thu giữ hàng hóa hoặc
bắt giữ người. Nó chỉ yêu cầu đơn giản rằng trong hầu hết các trường hợp các
nhà chức trách phải có lệnh truy nã của tòa án khi chứng minh được yêu cầu cần
thiết phải có lệnh này. Toà án Tối cao quy định rằng các bằng chứng có được do
vi phạm Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 4 sẽ không được coi là bằng chứng trong
phiên tòa xét xử tội phạm.
Tuyên ngôn Về
Nhân quyền
Điều luật
Bổ sung Sửa đổi thứ 5
QUYỀN TRONG CÁC
VỤ ÁN HÌNH SỰ
Không một ai bị buộc phải chịu trách nhiệm
về một tội nghiêm trọng hoặc một tội xấu xa khác
nếu không có sự tường trình và cáo trạng của Bồi thẩm Đoàn, trừ những trường
hợp xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc trong lực lượng dự bị, khi đang thi
hành công vụ trong thời chiến hoặc trong tình trạng xã hội gặp hiểm nguy. Không
một ai sẽ bị kết án hai lần về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng và thân
thể; không một ai bị ép buộc phải làm chứng chống lại bản thân mình trong một
vụ án hình sự và bị tước đoạt sinh mạng, tự do hoặc tài sản, nếu không qua một
quá trình xét xử theo đúng luật; không một tài sản tư hữu nào bị trưng dụng vào
việc công mà không được bồi thường thích đáng.
CHÚ THÍCH:
Một tội phạm tử hình là một người bị
trừng phạt bằng cái chết. Một tội phạm bị tước quyền công dân là một người có
thể bị trừng phạt bằng cái chết hoặc tống giam. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này
bảo đảm rằng không ai phải hầu tòa với tư cách là tội phạm liên bang như vậy
trừ khi một Bồi thẩm Đoàn đã kết tội (buộc tội) ông ta hoặc bà ta. Bồi thẩm
Đoàn là một nhóm người đặc biệt được lựa chọn để quyết định xem có đủ bằng
chứng chống lại một người đang bị kiện hay không. Một người không thể bị đe dọa
hai lần (xét xử hai lần) cho cùng một tội bởi cùng một chính phủ. Tuy nhiên họ
có thể bị xét xử lần thứ hai nếu Bồi thẩm Đoàn không thể nhất trí về lời tuyên
án, nếu vụ án bị coi là sai vì một số lý do, hoặc nếu họ yêu cầu một phiên tòa
xét xử mới. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này cũng bảo đảm rằng một người không thể
bị buộc phải làm chứng chống lại chính mình.
Điều khoản về quy trình tố tụng đúng,
tuyên bố rằng không một người nào bị tước đi cuộc sống, tự do hoặc tài sản mà không có “một tiến trình tố tụng đúng”
là một trong những điều khoản quan trọng nhất của Hiến pháp. Điều luật Bổ sung
Sửa đổi thứ 14 giữ nguyên các cụm từ này nhằm hạn chế quyền hạn của các bang.
Cụm từ này phản ánh ý tưởng cho rằng cuộc sống, tự do hoặc
tài sản của một người không phải phụ thuộc hoàn toàn vào nhiệm ý của các quan
chức chính phủ. Ý tưởng này có nguồn gốc từ Magna
Carta, quy định rằng quốc vương Anh không thể bắt giam hoặc làm hại một người “trừ khi do phán quyết theo
luật pháp của các Thượng Nghị sỹ hoặc theo luật của đất nước”.
Toà án Tối cao đã áp dụng điều khoản
về quy trình tố tụng đúng – đây là một khoản trong Điều luật Bổ sung Sửa đổi
thứ 14 hạn chế quyền hạn của các bang – trong nhiều tình huống khác nhau. Cho
đến giữa thế kỷ XIX, tòa án đã sử dụng điều khoản về quy trình tố tụng đúng để
chống lại các điều luật ngăn cản nhân dân sử dụng tài sản của họ theo ý muốn.
Ngày nay, tòa án sử dụng điều khoản về quy trình tố tụng đúng để chống lại các
điều luật can thiệp vào quyền tự do cá nhân.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này cũng
nghiêm cấm chính phủ lấy tài sản của cá nhân kể cả vì mục đích công mà không có
khoản đền bù xứng đáng. Quyền lấy tài sản cá nhân sử dụng cho mục đích công của
chính phủ được gọi là quyền sung công tài sản. Các chính phủ sử dụng nó nhằm
đòi đất tư để xây dựng quốc lộ, trường học và các cơ sở hạ tầng công cộng khác,
tuy nhiên họ phải trả cho chủ sở hữu đất một khoản đền bù công bằng.
Tuyên ngôn Về
Nhân quyền
Điều luật
Bổ sung Sửa đổi thứ 6
QUYỀN ĐƯỢC XÉT
XỬ CÔNG BẰNG
Trong mọi trường hợp truy tố hình sự, bị
cáo có quyền được xét xử một cách nhanh chóng và công khai bởi một Bồi thẩm
Đoàn công bằng của bang hoặc khu vực nơi tội trạng xảy ra, nơi đã được pháp
luật chỉ định trước; bị cáo phải được thông báo về tính chất và lý do buộc tội,
được đối chất với các nhân chứng chống lại mình, được quyền triệu tập những
nhân chứng để biện minh và được sự giúp đỡ của luật sư bào chữa.
CHÚ THÍCH:
Một người bị buộc tội phải được xét
xử công khai và thích hợp bởi một Bồi thẩm Đoàn vô tư không thành kiến. Yêu cầu
có một phiên tòa công khai và nhanh chóng nảy sinh từ một thực tế là một vài vụ
án chính trị ở Anh đã bị trì hoãn trong nhiều năm và sau đó được tổ chức xét xử
bí mật. Những người bị buộc tội phải được thông báo về lời buộc tội chống lại
họ và phải được phép gặp trực tiếp các nhân chứng chống lại họ. Nếu không thì
những người vô tội có thể bị trừng phạt nếu tòa án cho phép sử dụng lời khai
của các nhân chứng vô danh làm bằng chứng. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này bảo
đảm rằng các cá nhân bị xét xử có thể gặp mặt và kiểm tra chéo những người buộc
tội họ. Cuối cùng, những người bị buộc tội phải có một luật sư bảo vệ cho họ
nếu họ mong muốn như vậy. Nếu một bị đơn hình sự không thể thuê luật sư thì Toà
án Tối cao quy định phải chỉ định một luật sư đại diện cho người bị buộc tội.
Tuyên ngôn Về
Nhân quyền
Điều luật
Bổ sung Sửa đổi thứ 7
QUYỀN TRONG CÁC
VỤ ÁN DÂN SỰ
Trong những vụ kiện tụng theo thông luật,
nếu giá trị tranh chấp quá 20 đôla, thì quyền được xét xử bởi Bồi thẩm Đoàn sẽ
được tôn trọng và không một vụ việc nào đã được xét xử bởi Bồi thẩm Đoàn lại
phải được xem xét lại lần nữa ở bất cứ tòa án nào của Mỹ, mà phải căn cứ theo
các quy tắc của thông luật.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 6 yêu
cầu các vụ án hình sự phải được xử án có hội thẩm. Điều luật Bổ sung Sửa đổi
thứ 7 yêu cầu tương tự cho các vụ án dân sự nếu chi phí xử án lớn hơn 20 đô–la
Mỹ. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này chỉ áp dụng cho các tòa án liên bang. Tuy
nhiên, hầu hết hiến pháp của các bang đều yêu cầu xét xử có hội thẩm cho các vụ
kiện dân sự cũng như hình sự.
Tuyên ngôn Về
Nhân quyền
Điều luật
Bổ sung Sửa đổi thứ 8
TIỀN BẢO LÃNH,
TIỀN PHẠT VÀ HÌNH PHẠT
Không đòi hỏi những khoản tiền bảo lãnh quá
cao, không áp đặt những khoản tiền phạt quá mức và không áp dụng những hình
phạt dã man và khác thường.
CHÚ THÍCH:
Tiền bảo lãnh, tiền phạt và hình phạt
phải công bằng và nhân đạo. Trong vụ Furman kiện Georgia vào
năm 1972, Toà án Tối cao đã quy định rằng án tử hình, hình phạt sau đó đã thực
hiện, đã vi phạm Điều luật Bổ sung Sửa đổi này. Tòa án cho rằng án phạt tử hình
là hình phạt tàn nhẫn và bất thường do nó không được áp dụng công bằng và thống
nhất. Sau quyết định đó, nhiều bang đã thông qua điều luật mới về hình phạt tử
hình được xây dựng nhằm phù hợp với sự phản đối của Toà án Tối cao. Tòa án quy
định rằng án tử hình có thể được thực hiện trong các trường hợp tử hình nếu áp
dụng một số tiêu chuẩn nhất định để tránh áp dụng án tử hình một cách tuỳ tiện
và thất thường.
Tuyên ngôn Về
Nhân quyền
Điều luật
Bổ sung Sửa đổi thứ 9
QUYỀN CỦA NHÂN
DÂN
Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp
không có nghĩa là phủ nhận hoặc hạ thấp những
quyền khác của người dân.
CHÚ THÍCH:
Một số người lo sợ rằng việc liệt kê
các quyền trong Tuyên ngôn Về Nhân quyền sẽ được giải thích rằng các quyền khác
không được liệt kê sẽ không được bảo vệ. Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được
thông qua nhằm ngăn cản các giải thích sai lầm như vậy.
Tuyên ngôn Về
Nhân quyền
Điều luật
Bổ sung Sửa đổi thứ 10
QUYỀN CỦA CÁC
BANG VÀ CỦA NHÂN DÂN
Những quyền lực không được Hiến pháp trao
cho Liên bang và không bị ngăn cấm đối với các bang, thì thuộc về các bang cụ
thể hoặc nhân dân.
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi này được
thông qua nhằm cam đoan rằng chính phủ quốc gia sẽ không nuốt chửng các bang.
Nó xác nhận rằng các bang hoặc nhân dân có tất cả các quyền lợi mà chính phủ
quốc gia không có. Ví dụ, các bang có quyền quản lý các vấn đề như kết hôn và
ly dị.
(Trích dẫn từ “Ấn
phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Mỹ, Tháng Bảy 2004. Bản
dịch của Sứ quán Mỹ tại Việt nam”).
II. GIẢI QUYẾT MỘT SỐ MÂU THUẪN
ĐỐI KHÁNG TRONG PHIÊN BẢN ĐẦU TIÊN.
Tuyên ngôn Về Nhân quyền đã xác lập được
các quyền chính trị cho mọi cá nhân
để mọi cá nhân đều có thể làm chủ chính quyền. Trong các quyền đó phải kể đến
các quyền cơ bản, như tự do tư tưởng,
tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do kiến
nghị, và quyền mang vũ khí, để
nhân dân có được các phương tiện cần
thiết làm đối trọng với chính quyền vốn có quyền lực nhà nước rất mạnh mẽ
trong tay, nếu không có các quyền đó thì nhân dân có thể bị nghiền nát vào bất
cứ lúc nào bởi một chính quyền mạnh mẽ như vậy 17).
Dựa vào các quyền đó, người Mỹ đã diễn dịch các quyền đó thành nhiều quyền khác
nhau, trong đó có quyền quan trọng nhất là quyền thiết lập hoặc bảo tồn các
đảng phái chính trị làm nền tảng chắc chắn nhất cho chế độ dân chủ.
Do hình thành
từ một bối cảnh đặc biệt nên Hiến
pháp Mỹ nhất thiết phải có Tuyên ngôn Về
Nhân quyền làm cơ sở pháp lý cho nguyên tắc đa nguyên bình đẳng mới bảo đảm
cho hiến pháp thật sự có giá trị dân chủ. Nói như vậy không có nghĩa là khẳng
định rằng một hiến pháp thật sự có giá trị dân chủ cần phải có Tuyên ngôn Về Nhân quyền. Trái lại, một
hiến pháp thật sự có giá trị dân chủ phải quy định rõ ràng ngay từ đầu cả quyền
lẫn nghĩa vụ cho mọi cá nhân rồi trên cơ sở đó sẽ quy định cả quyền lẫn nghĩa
vụ cho chính quyền. Nếu cứ đòi hỏi phải có Tuyên
ngôn Về Nhân quyền thì chẳng qua chỉ học đòi hoặc dập khuôn nước Mỹ mà
thôi. Thế giới ngày nay có nhiều hiến pháp thật sự dân chủ nhưng không cần Tuyên ngôn Về Nhân quyền. Chẳng qua nước
Mỹ đi tiên phong chưa có kinh nghiệm khoa
học về lập hiến mới phải đi vòng vèo như vậy qua Tuyên ngôn Về Nhân quyền.
III. CÁC MÂU THUẪN ĐỐI KHÁNG
TRONG PHIÊN BẢN THỨ HAI.
J. B. Hàvăn Huytoàn
(Viêt vào Tháng Bảy 2007)
17) Tuyên ngôn Về Nhân quyền đã xác lập được
nguyên tắc đa nguyên bình đẳng làm nền tảng chính trị cho chính thể dân chủ vốn được lấy làm mục đích chân chính cho Hiến pháp Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét