Bách
khoa Toàn thư Mở: Wikipedia
Phan Châu Trinh
|
|
Sinh
|
|
Mất
|
|
Nơi an táng
|
|
Tên khác
|
Phan Tây Hồ
|
Dân tộc
|
Kinh
|
Học vấn
|
|
Công việc
|
|
Vợ/chồng
|
Lê Thị Tỵ (vợ)
|
Con cái
|
Phan Châu Dật (trai)
Phan Thị Châu Liên (gái) Phan Thị Châu Lan (gái) |
Cha mẹ
|
Phan Văn Bình (cha)
Lê Thị Chung (mẹ) |
Phan
Châu Trinh (chữ Hán: 潘周楨; còn được gọi Phan
Chu Trinh; 1872–1926), hiệu là Tây Hồ, Hy Mã , tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn,
và là chí sĩthời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
Mục lục
[ẩn]
|
[sửa]Thân thế
Phan
Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872[1],
người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh),
tỉnh Quảng Nam.
Cha
ông là Phan Văn Bình, làm chức Quản cơ sơn phòng, sau tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm Chuyển vận sứ đồn A Bá
(Tiên Phước) phụ trách việc quân lương. Mẹ ông là Lê Thị Trung
(Chung ?), con gái nhà vọng tộc, thông thạo chữ Hán,
ở làng Phú Lâm, huyện Tiên Phước.
Thân
mẫu ông mất sớm vào năm ông lên 6 tuổi. Quê nhà bị quân Pháp đốt cháy trong
cuộc trấn áp phong trào Cần vương, nên ông phải theo cha, được cha dạy chữ và
dạy võ. Sau khi cha mất[2],
ông trở về quê sống với anh là Phan Văn Cừ và tiếp tục đi học. Ông nổi tiếng
học giỏi, năm 27 tuổi, được tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng.
[sửa]Sự nghiệp
Khoa Canh Tý (1900), Phan Châu Trinh đỗ cử nhân thứ ba ở trường Thừa Thiên.
Năm sau (1901),
triều đình mở ân khoa, ông đỗ phó bảng,
đồng khoa với tiến sĩNgô Đức Kế và
phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Khoảng thời gian này, người
anh cả mất nên ông về để tang, ở nhà dạy học đến năm Quý Mão (1903) thì được bổ làm Thừa
biện Bộ Lễ.
[sửa]Vào Nam, ra Bắc, sang Nhật
Là
người có học vấn, lại tiếp xúc với nhiều người có tư tưởng canh tân và đọc được
các tân thư[3],
năm 1905, ông từ quan, rồi
cùng với hai bạn học là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng (cả hai đều mới đỗ tiến sĩ năm 1904) làm một cuộc Nam du,
với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí hướng.
Đến Bình Định, gặp kỳ khảo hạch thường niên của tỉnh, ba ông lẩn
vào các khóa sinh. Vào trường thi, Phan Châu Trinh làm một bài thơ, còn hai bạn
thì làm chung một bài phú. Cả ba đều ký tên giả là Đào Mộng
Giác. Nội dung bài không theo đầu đề, mà chỉ kêu gọi sĩ tử đang đắm đuối trong
khoa trường và danh lợi, hãy tỉnh dậy lo giải phóng giống nòi khỏi cảnh lao
lung[4]
Các
tỉnh quan Nam triều hoảng sợ, đem bài trình cho viên Công sứ Pháp, đồng thời ra
lệnh truy tìm tác giả, nhưng ba ông đã rời khỏi Bình Định, tiếp tục đi vào các tỉnh phía Nam Trung Kỳ.
Trên đường đi, ba ông lần lượt kết giao với Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi và hai con trai của danh sĩ Nguyễn Thông là Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh.
Sau
cuộc Nam du, Phan Châu Trinh ra Nghệ-Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nội để gặp gỡ và hội ý với các sĩ phu tiến
bộ, rồi lên căn cứ Đề Thám quan
sát tình hình, nhưng thấy khó có thể tồn tại lâu dài[5].
Năm 1906, ông bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc)
gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản,
tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc duy tân
của xứ sở này[6].
[sửa]Phát động phong trào Duy Tân
Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về
nước. Việc làm đầu tiên là gửi một bức chữ Hán (quen gọi là Đầu Pháp chính phủ thư) cho Toàn
quyền Paul Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền
Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai
trị để giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh.
Sau
đó, với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh
cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi
khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc
duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân
sinh. Phương thức hoạt động của phong trào là bất bạo động, công khai hoạt
động nhằm khai hóa dân tộc, cải cách trên mọi lãnh vực, khuyến khích giáo dục
bỏ lối học từ chương, phát động phong trào học Quốc ngữ,
mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, kêu gọi cắt
tóc ngắn, cắt ngắn móng tay,...
Thời
gian này, ông viết bài Tỉnh quốc hồn ca, kêu gọi mọi người duy tân
theo hướng dân chủ tư sản như vừa lược kể[5].
Hưởng
ứng, ở Quảng Nam và các tỉnh lân cận, nhiều trường học,
thư xã, thương hội, hội nghề nghiệp...lần lượt được lập ra.
Tháng 7 năm 1907, Phan Châu Trinh nhận
lời mời ra Hà Nội tham gia diễn giảng mỗi tháng 2 kỳ ở Đông Kinh nghĩa thục.
[sửa]Bị giam lần thứ nhất
Tháng 3 năm 1908, phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ nổ ra, và bị nhà cầm quyền Pháp sai
quân đi đàn áp dữ dội. Phan Châu Trinh cùng nhiều thành viên trong phong trào Duy Tân bị nhà cầm quyền buộc tội là đã khởi
xướng nên đều bị bắt[7]
Phan
Châu Trinh bị bắt ở Hà Nội,
giải về Huế.
Tòa Khâm sứ Huế và Nam triều đều muốn khép ông vào tội
chết. Nhưng nhờ sự can thiệp của những người Pháp có thiện chí và những đại
diện của Hội Nhân quyền tại Hà Nội,
họ buộc lòng phải kết ông án “trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất
nguyên” (nghĩa là tội chém
nhưng chỉ giam lại, đày xa ba ngàn dặm, gặp ân xá cũng không cho về), rồi
đày đi Côn Đảo ngày 4 tháng 4 năm 1908.
Nhờ dư
luận trong nước và nhờ có sự vận động của Hội Nhân quyền ngay trên đất Pháp,
đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương ra Côn Lôn thẩm vấn riêng Phan Châu
Trinh. Tháng 8 năm đó, ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn,
một hội đồng xử lại bản án cho ông được ân xá, nhưng buộc xuống Mỹ Tho chịu quản thúc. Ở đây, ông làm nhiều
bài thơ về các nhân vật tên tuổi của Nam Kỳ.
Bởi
không hoạt động gì được, ông viết thư cho Toàn quyền Đông Dương đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Lôn, nhất định không
chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho nữa. Vì vậy, nhân có nghị định ngày 31 tháng 10 năm 1908 của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, năm 1911, chính quyền Đông Dương cử
một đoàn giáo dục Đông Dương sang
Pháp, có cả Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật.
[sửa]Sang Pháp, bị giam lần thứ hai
Sang
Pháp, việc đầu tiên của ông là đưa cho Hội Nhân quyền Pháp bản điều trần về vụ
trấn áp những người dân chống sưu thuế tại Trung Kỳ năm 1908 (thường gọi là Trung Kỳ dân biến thủy mạt ký).
Sau đó,
ông còn lên tiếng tố cáo tình trạng các tù nhân ở Côn Lôn bị đối xử tồi tệ, và
nhờ Liên minh cầm quyền, Đảng Xã hội Pháp can thiệp nhằm giảm án cho các đồng
chí của mình. Ông cũng đã tiếp xúc nhiều lần với những nhân vật cao cấp ở Bộ
Thuộc địa, với Albert Saurraut (sắp sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương) để đưa ra những dự án cải tổ nền chính trị ở Việt Nam nhưng không có kết quả, vì lúc này thế
lực của thực dân hãy còn đang mạnh. Trong khoản thời gian này, ông viết Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân
Việt Nam.
Ngày 28 tháng 7 năm 1914, Áo – Hung tuyên chiến với Serbia, mở màn cho Thế chiến thứ nhất. Sau đó, ngày 3 tháng 8, Đức tuyên chiến với Pháp. Nhân cơ hội này,
nhà cầm quyền thủ đô Paris (Pháp) gọi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, một luật sư, nhà báo người Việt chống
thực dân, đi lính, nhưng hai ông phản đối[8] do không phải là công dân Pháp. Mấy
tháng sau, chính quyền khép tội hai ông là gián điệp của Đức để bắt giam Phan Văn Trường giam ở lao Cherchemidi và Phan Châu
Trinh bị giam ngục Santé Prison de la Santé kể từ tháng 9 năm 1914.
Do
việc Phan Châu Trinh bị bắt giam nên trợ cấp giảng dạy của ông bị cắt, con ông
mất học bổng, phải vừa học vừa làm. Cũng trong năm này, vợ ông là bà Lê Thị Tỵ
qua đời ở quê nhà ngày 12 tháng 5 năm1914.
Tháng 7 năm 1915, vì không đủ bằng
chứng buộc tội, chính quyền Pháp phải trả tự do cho hai ông sau nhiều tháng
giam giữ. Sau khi ra tù, Phan Châu Trinh đã soạn tuyển tập thơ Santé thi tập với hơn 200 bài thơ ông sáng tác trong
tù.
Ra tù,
Phan Châu Trinh học nghề rửa ảnh rồi làm thuê cho các hiệu chụp ảnh để kiếm
sống. Trong hoàn cảnh chiến tranh, giá sinh hoạt đắt đỏ, cảnh ngộ của hai cha con
rất đỗi cơ cực. Chẳng lâu sau, Phan Châu Dật phải bỏ học về nước vì bị lao ruột
và qua đời tại Huế ngày 14 tháng 2 năm 1921, được đem về an táng
cạnh mộ mẹ tại Tây Lộc (Tiên Phước, Quảng Nam)[9].
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, Phan Châu Trinh cùng
với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là "Nguyễn Ái Quốc", và đã gây được tiếng
vang.
Năm 1922, khi vua Khải Định sang
Pháp dự đấu xảo Marseille,
ông viết một bức thư dài buộc tội vua Khải Định 7
điều, quen gọi là Thất Điều
Trần hay Thư Thất Điều, khuyên vua về
nước gấp, đừng làm nhục quốc thể. Cũng trong năm này, ông viết bài Tỉnh quốc hồn ca mới. Xuyên suốt tác phẩm này vẫn là
một đường lối cải cách dân chủ, vẫn là thực trạng tăm tối của xã hội thực dân
phong kiến và những thủ đoạn tàn bạo của chính sách thuộc địa ở Việt Nam.
Thấy
hoạt động ở Pháp không thu được kết quả gì, đã nhiều lần ông yêu cầu chính phủ
Pháp cho ông trở về quê hương, nhưng đều không được chấp thuận. Mãi đến năm 1925, khi thấy sức khỏe
ông đã suy yếu, nhà cầm quyền Pháp mới cho phép ông về nước. Khoảng thời gian
này, ông viết cuốn Đông Dương
chính trị luận.
[sửa]Về nước rồi qua đời
Mộ Phan Châu
Trinh tại Tân Bình,Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 29 tháng 5 năm 1925, Phan Châu Trinh cùng
nhà cách mạng trẻ Nguyễn An Ninh xuống tàu rời nước Pháp, đến ngày 26 tháng 6 cùng năm thì về tới Sài Gòn.
Sau đó, ông Ninh đưa ông về thẳng khách sạn Chiêu Nam Lầu[10] của cha mình là ông Nguyễn An Khương. Ở đây mấy ngày, thì ông về ở
tại nhà riêng của ông Khương ở Mỹ Hòa[11] để tiện việc tiếp đón bạn bè đến thăm
và trao đổi công việc, đồng thời cũng để tiện cho ông Nguyễn An Cư (chú của ông
Ninh, một lương y nổi tiếng) chăm sóc sức khỏe.
Tuy bị
bệnh nhưng Phan Châu Trinh cố gắng diễn thuyết thêm hai đề tài là Ðạo đức và luân lý Đông Tây, Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ
nghĩa. Hai bài này đã có tác động không nhỏ đến thế hệ trẻ tại Sài Gòn,
trong đó có Tạ Thu Thâu.
Đang
lúc Phan Châu Trinh nằm trên giường bệnh, thì hay tin ông Ninh vừa bị mật thám
Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày 24 tháng 3 năm 1926. Ngay đêm hôm đó, lúc
21 giờ 30, ông qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê
lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn[12].
Một Ủy
ban tổ chức lễ quốc táng chí sĩ Phan Châu Trinh gồm nhiều thành viên là các
nhân sĩ, trí thức đã được hình thành ngay trong đêm ông qua đời gồm:
Chủ
tịch
§
Bùi Quang Chiêu, Kỹ sư canh nông, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
Các
ủy viên:
§
Nguyễn Văn Thinh, Bác sĩ y khoa.
§
Trần Văn Đôn, Bác sĩ y
khoa, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
§
Lê Quang Liêm,
Đốc Phủ sứ.
§
Nguyễn Phan Long, Chủ bút La Tribune
Indochinoise, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ
§
Trương Văn Bền, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
§
Nguyễn Tấn Được, Hội đồng
quản hạt Nam Kỳ
§
Võ Công Tồn, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ
§
Nguyễn Tấn Văn, Hội đồng thành phố Sài gòn.
§
Trương Văn Công, Hội đồng thành phố Chợ Lớn.
§
Nguyễn Kim Đính, Chủ nhiệm Đông Pháp thời báo.
§
Trần Huy Liệu, Chủ bút Đông Pháp thời báo.
§
Nguyễn Huỳnh Điểu, Hội viên Hội đồng Canh Nông Trà Vinh.
§
Nguyễn Dư Khánh, tự Khánh Ký, Nhiếp ảnh gia Sài Gòn.
§
Huỳnh Đình Điển, nhân sĩ Sài Gòn.
Hơn 6
vạn người dân đã đến Sài Gòn,
không phân biệt chính trị, đảng phái, tôn giáo tham dự, đã đưa linh cữu Phan
Châu Trinh đến nghĩa trang của hội Gò Công tương tế lúc 6 giờ sáng ngày 4 tháng 4 năm1926.
“
|
“Ngày đi chôn, dân chúng sắp hàng dài đi dọc đường Pellerin, qua
Norodom, quẹo Paull Planchy đến Phú Nhuận rồi thẳng lên Tân Sơn Nhất. Hàng
chục ngàn người nghiêm trang, tay đeo băng tang xếp hàng đi, có thanh niên
của Đảng Jeune Annam giữ gìn trật tự suốt dọc đường. Một đám tang lớn chưa
từng có ở Sài Gòn, đám tang thể hiện sự giác ngộ của quần chúng, đám tang là
tấm lòng của đồng bào đối với nhà ái quốc suốt đời chỉ nghĩ đến dân”.
|
”
|
—Nguyễn Thị Minh, Nguyễn An Ninh – “Tôi chỉ làm
cơn gió thổi”
|
Bất
chấp sự ngăn cản của chính quyền thực dân, phong trào làm lễ truy điệu Phan
Châu Trinh được tổ chức rộng rãi ở khắp ba kỳ, trở thành một sự kiện chính trị
nổi bật lúc bấy giờ.
Khu mộ
của ông hiện ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh và được xếp hạng là Di tích lịch sử
cấp quốc gia. Hiện nay, tên ông được dùng để đặt tên cho nhiều đường phố và
trường học trong khắp nước Việt Nam.
[sửa]Chủ trương cách mạng
Sau
khi cáo quan về quê, Phan Châu Trinh dốc lòng vào công việc cứu nước. Mặc dù
rất đau xót trước cảnh thực dân Pháp ngược đãi người Việt Nam, quan điểm của
Phan Châu Trinh trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia,
độc lập dân tộc (tức đánh đuổi Pháp), mà nhiệm vụ cấp bách là phải:
§
Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ cùng
kiến thức khoa học thực dụng, bài
trừ hủ tục xa hoa.
§
Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, mọi người giác ngộ được
quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế.
§
Hậu dân sinh: phát triển kinh tế,
cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa...
Cho
nên sau khi ông vào Nam ra Bắc, sang Nhật,
để trao đổi và tìm hiểu, cuối cùng ông nhất quyết làm cuộc cải cách duy tân cho
quốc dân trong nước. Ngoài ra, ông gửi thư cho Toàn quyền Beau ngày 15 tháng 8 năm 1906, chỉ trích chính phủ
Pháp không lo mở mang khai hóa cho dân mà chỉ lo thu thuế cho nhiều, do đó dân đã khổ càng khổ
hơn. Ông đề nghị chính phủ Đông Dương nên thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước
Nam, cải tổ mọi chính sách cai trị. Bức thư đã gây tiếng vang lớn trong nhân
dân, công khai nói lên tâm trạng bất mãn của dân chúng và khẳng định quyết tâm
cải biến hiện trạng của đất nước.
Đối
với đường lối hoạt động cứu nước của người bạn thân là Phan Bội Châu (ông gặp
Phan Bội Châu vào khoảng tháng 7 năm 1904 và sau đó trở thành đôi bạn thân
thiết), Phan Châu Trinh rất hoan nghênh việc bạn và tổ chức của bạn (Duy Tân hội)
đã vận động được một số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến những tài
liệu tuyên truyền giáo dục quốc dân trong nước. Song, ông phản đối chủ trương
bạo động và tư tưởng bảo hoàng của người bạn này[13].
[sửa]Tác phẩm
§
Ðầu Pháp chính phủ thư (1906)
§
Hợp quần doanh sinh thuyết quốc âm tự (1907)
§
Tây Hồ thi tập (tập hợp thơ làm trong nhiều năm)
§
Tuồng Trưng Nữ Vương (soạn chung với Huỳnh Thúc Kháng và Phan thúc Duyên
năm 1910)
§
Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký (1911)
§
Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ, soạn trong tù tại Pháp, 1915)
§
Thư thất điều (thư vạch 7 tội của vua Khải Định, 1922)
§
Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (hồm hơn 7.000 câu thơ lục bát,
soạn 1912-1913)
§
Tỉnh quốc hồn ca I, II (phần I, làm khi ở Việt Nam (1907), phần II, làm khi
sang Pháp (1922). Đây là thơ hiệu triệu, thức tỉnh đồng bào, tạo dân khí mạnh,
đề cao dân quyền)
§
Bức thư trả lời cho người học trò tên Ðông (1925)
§
Đông Dương chính trị luận (1925)
Ngoài ra,
ông còn có các bài diễn thuyết về Đạo
đức và luân lý Đông Tây, Quân
trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa, một số thơ (không nằm trong Tây Hồ thi tập) và câu đối chữ Hán ông làm từ 1902-1912...
[sửa]Thương tiếc
Phan
Châu Trinh qua đời, có rất nhiều liễn đối và thơ văn điếu ông. Trong số đó có
bài điếu văn của Huỳnh Thúc Kháng, người bạn thân thiết của ông,
mang ý nghĩa lịch sử rõ nét nhất về quan điểm chính trị của
Phan Châu Trinh. Trích một đoạn:
...Một
đoạn lịch sử của tiên sinh hơn hai mươi năm trời, nào bị tù đày, ở nước này
sang nước khác, trải bao nhiêu phen nguy hiểm, trong giây phút này không thể
lược thuật lại cho được; chúng tôi xin tóm tắt lại mà nói sơ: Chủ nghĩa tiên
sinh đệ nhất là đánh đổ chuyên chế, làm cho dân quyền tự do, còn cái phương
pháp tiến hành thì tiên sinh thường nói rằng:
-Tình
hình trong nước ta bây giờ đang vào nguy ngập, nếu muốn cải cách thì cần liên
lạc đoàn thể mới được. Tiếc cho người nước mình còn đang mê mộng, đồng chí với
tiên sinh chẳng được mấy người . Vì vậy mà tấm lòng bị phân hóa ra uất ức, uất
ức hóa nên đại bệnh huống gì những điều mắt thấy tai nghe dể làm cho tiên sinh
cảm xúc mà đau được, chết được, thương ôi!
-Thôi,
đất vàng một nắm, giấc mộng ngàn thu, sự nghiệp anh hùng, ngày nay hết cuộc.
Chúng tôi chỉ mong mai sau này những người kế chí tiên sinh, làm cho vẻ vang
dân tộc Việt Nam ta. Thì linh hồn tiên sinh sẽ được yên ổn mà ngậm cười nơi
suối vàng.
[sửa]Một vài nhận xét
Trích một vài ý kiến (chỉ để
tham khảo):
§
Nhà sử học Phạm Văn Sơn:
Chủ
trương của Phan Châu Trinh là muốn thi hành một chính sách cải lương cho dân
tộc Việt Nam. Chính sách này đòi hỏi ba điều căn bản, đó là: "Khai thông
dân trí, loại bỏ quan trường mục nát và tôn trọng dân quyền"...Nhưng nhờ
vào ai để thi hành chủ trương trên đây? Ông nhờ Pháp (ỷ Pháp cầu tiến bộ). Nhưng có bao
giờ giai cấp bị trị lại nhờ được tầng lớp thống trị cải thiện đời sống hay làm
cách mạng cho mình?. Người Pháp từ vạn dặm đến đây, đổ bao xương máu vì lợi ích
riêng của họ. Sao ta lại có thể đòi hỏi họ giúp ta giàu mạnh, khôn ngoan? Họ
cần dân ta ngu hèn, quan lại vong bổn mới có thể khai thác dân ta đến tận xương
tủy chứ?...Do đó, ta thấy chủ trương của ông quả là không tưởng...Về sau này,
nhờ sống 15 năm trên đất Pháp, ý thức cách mạng của ông đã tiến bộ nhiều qua
bài diễn thuyết về đề tài "Quân trị và dân trị" vào đêm 19 tháng 11 năm 1925 tại Sài Gòn.
Dù
có những nhận định khác nhau về lập trường chính trị Phan Châu Trinh, nhưng
không ai không công nhận ông là một người có tư tưởng dân chủ sớm hơn hết ở
Việt Nam[14].
§
GS. Huỳnh Lý:
Phan
Châu Trinh là một con người hoạt động, một chí sĩ yêu nước nồng nhiệt, dũng
cảm, bất khuất, có đầu óc tổ chức và đầy sáng kiến, có những chủ trương dứt
khoát và mạnh bạo, như chủ trương cần phải lật đổ bộ áy phong kiến chứ không
thể dựa vào nó, cần phải nâng trình độ nhân dân lên về mọi mặt: dân quyền, dân
sinh, dân chủ, và muốn thế phải làm một cuộc vận động “tự lực khai hóa” rộng
lớn...
Tuy
nhiên, vào thời điểm lịch sử của ông, khi thế lực của chủ nghĩa thực dân trên
toàn cầu còn rất mạnh, việc ông yêu cầu hết chính phủ ở Đông Dương đến chính
khách tư sản ở Pháp, thực hiện cải cách chính trị trước sau đều vấp phải trở
lực…nên cuối cùng dẫn ông đến thất bại.
Về
sáng tác thơ văn, Phan Châu Trinh đã góp phần vào việc thức tỉnh nhân tâm, làm
dấy lên phong trào yêu nước sôi nổi trong ba thập niên đầu thế kỷ 20[15].
§
Nhóm tác giả sách Đại
cương cương lịch sử Việt Nam:
Phan
Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20.
Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể xem ông là người
có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ 20.
Đặc
biệt hơn nữa là con đường ông chọn là con đường dấn thân tranh đấu nhưng ôn
hòa, bất bạo động. Đây là điểm khác biệt chính giữa ông và Phan Bội Châu. Phan Châu Trinh xem vấn đề dân
chủ còn cấp bách hơn độc lập và tin rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có
quy củ theo kiểu Âu Mỹ để quét sạch những hủ bại của phong kiến. Với tinh thần
yêu nước nồng nhiệt, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi
nổi, gian khổ và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ[16].
[sửa]Gia đình
§
Cha: Phan Văn Bình (?-1886),
người làng Tây Lộc, Tiên Phước, một võ quan triều Nguyễn.
§
Mẹ: Lê Thị Trung (hoặc Chung) (?-1878),
người làng Phú Lâm, Tiên Phước.
§
Anh chị em: (khuyết)
§
Lê Thị Tỵ (1877-1914), người làng An Sơn, Tiên Phước. Ông bà cưới nhau năm 1896 và có với nhau 3 người con:
§
Con trai: Phan Châu Dật (1897-1921)
§
Con gái: Phan Thị Châu Liên (1901-?), tục gọi là cô Đậu, về sau gả cho Đốc
học Lê Ấm (1897-1976).
§
Cháu ngoại: Lê Thị Khoách, Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), Lê Thị Lộc, Lê
Khâm (tức Phan Tứ),
Lê Thị Sương, Lê Thị Chi và Lê Thị Trang
§
Con gái: Phan Thị Châu Lan (1904-1944), tục gọi là cô Mè, về sau gả cho Họa
đồ Nguyễn Đồng Hợi (?-?)
§
Cháu ngoại: Nguyễn Thị Châu Sa (tức Nguyễn Thị Bình), Nguyễn Đông Hà, Nguyễn Đông
Hải, Nguyễn Thị Châu Loan, Nguyễn Đông Hồ và Nguyễn Đông Hào.
[sửa]Xem thêm
§
Phan Tứ
[sửa]Chú thích
1.
^ Từ điển văn học (bộ mới) ghi chú: Ngày sinh này có thể
không chính xác, vì dựa theo một giấy khai sinh của ông làm lúc sang Pháp.
2.
^ Theo Nguyễn Quý Đại, trong Phan Châu Trinh và cuộc đời cách mạng,
thì ông Phan Văn Bình bị thủ lĩnh Nghĩa hội Quảng Nam là Nguyễn Duy Hiệu sai người hạ sát ngày 15 tháng 6 năm 1886 vì nghi ngờ ông mưu phản.
3.
^ Trong thời gian làm thừa biện ở Bộ Lễ (Huế),
Phan Châu Trinh đã giao du với nhiều người có tư tưởng canh tân như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ..., được đọc Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch, các Tân thư giới thiệu tư
tưởng duy tân của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu; tư tưởng dân quyền của Rousseau,
của Montesquieu;
phong trào Duy tân ở Nhật Bản và cách mạng ở Pháp, Mỹ... (theo nhóm
Đinh Xuân Lâm, sách đã dẫn, tr. 147-148).
4.
^ Bài thơ của Phan Châu Trinh có nhan đề
là Chí thành thông thánh (Lòng
chí thành thông đến bậc thánh). Bài phú của hai bạn có tên là Lương ngọc danh sơn,
lấy vần "cầu lương ngọc tất danh sơn" (tìm ngọc quí ở nơi núi đẹp có
tiếng). Cả hai tác phẩm này, sau đó đã gây tiếng vang không nhỏ.
7.
^ Thực tế, cuộc chống sưu thuế ở Trung
Kỳ (1908) là do dân chúng bần nổ ra tự phát. Tuy phong trào có chịu ảnh hưởng
của phong trào Duy Tân về tư tưởng dân quyền và thực trạng
của đất nước, thậm chí, có một số thành viên Duy Tân cũng tích cực tham gia như Nguyễn Bá Loan, Lê Khiết...
nhưng không phải do Phan Châu Trinh và các thành viên đứng đầu phong trào trực
tiếp phát động.
9.
^ Khi biết tin ông Duật qua đời, Nguyễn Tất Thành, lúc này đã lấy hiệu là Nguyễn Ái Quốc, đã gửi thư chia buồn. [1]
10.
^ Tại số 49 đường Kinh Lấp, ngay góc
đường Carihelli - Chariner, nay nhà số 49 đường Nguyễn Huệ, gần góc đường Nguyễn Thiệp ngày nay.
[sửa]Tham khảo
§
Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập trung). Tác giả tự xuất
bản, 1963.
§
Huỳnh Lý, mục từ Phan Châu
Trinh trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
§
Đinh Xuân Lâm (chủ biên) - Nguyễn Văn Khánh - Nguyễn Đình Lễ, Đại cương cương lịch sử Việt Nam (Tập 2). Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.
§
Nguyễn Q. Thắng - Ngyễn Bá Thế, Từ
điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
§
Huỳnh Lý (chủ biên), Thơ
văn Phan Châu Trinh. Nhà xuất bản Văn học, 1983.
§
Nguyễn Quý Đại, Phan Châu
Trinh và cuộc đời cách mạng
[sửa]Liên kết ngoài
|
Wikimedia
Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về: Phan Châu
Trinh.
|
|
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc
của:
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét