CHƯƠNG IV:
PHIÊN BẢN ĐẦU TIÊN (BẢY ĐIỀU LUẬT GỐC ĐƯỢC XẾP THỨ TỰ BẰNG SỐ LA MÃ TỪ
I ĐẾN VII ĐƯỢC THÔNG QUA VÀO NGÀY 17 THÁNG CHÍN 1787).
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH.
A. NHU CẦU CẦN CÓ HIẾN PHÁP.
Chính
phủ được thành lập theo các Điều khoản Hợp bang không đủ mạnh để lãnh đạo quốc
gia mới. Ví dụ, nó không có ngành hành pháp và hệ thống các tòa án quốc gia. Nó
không thể điều tiết thương mại giữa các bang cũng như không thể đánh thuế các
bang hoặc người dân. Nó chẳng qua chỉ là một tập hợp các đại diện của 13 bang
độc lập.
Năm
1783, sau Chiến tranh Cách mạng, cả
nước bước vào một giai đoạn bất ổn về tình hình thương mại và chính trị.
Alexander Hamilton và những người ủng hộ ông lẽ ra có thể có đôi chút thành
công trong việc vận động xây dựng một hiến pháp mới nếu như tình hình tốt hơn.
Một số sử gia có lẽ đã tô vẽ những khó khăn của nền cộng hòa non trẻ bằng những
gam màu quá ảm đạm. Nhưng rõ ràng là tình hình trở nên tồi tệ hơn sau năm 1783.
Mỗi bang hành động gần như một quốc gia độc lập. Mỗi bang điều hành công việc
của mình theo lợi ích của mình mà không quan tâm đến nhu cầu của nền cộng hòa.
Các bang lưu hành hàng chục đồng tiền khác nhau, hầu hết các đồng tiền này có
giá trị rất nhỏ. Các bang láng giềng đánh thuế hàng nhập khẩu của nhau. Anh
quốc từ chối nối lại các kênh thương mại vốn đã từng giúp các thuộc địa này
phát triển kinh tế rất nhiều. Các cơ quan lập pháp của bang từ chối không trả
những khoản nợ trong Chiến tranh Cách mạng. Nhiều bang thông qua các bộ luật
giúp con nợ thoát khỏi nghĩa vụ trả nợ.
Tệ
hại nhất là một số người bắt đầu nghĩ đến việc cầm lấy vũ khí một lần nữa để
giải quyết các vấn đề của mình. Ở miền Tây bang Massachusetts năm 1786, hàng trăm nông dân
đã đi theo Đại úy Danel Shays nổi loạn chống chính quyền bang. Quân đội bang
cuối cùng đã dẹp được cuộc nổi loạn của D. Shays. George Washington và các nhà
lãnh đạo khác tự hỏi liệu có phải các thuộc địa đã nổi loạn chống lại Anh quốc
mà chẳng mang lại một kết quả nào. Họ cảm thấy đã đến lúc chấm dứt những rắc
rối này và thiết lập hòa bình, kỷ cương bằng cách lập ra một chính phủ quốc gia
mới. Chính phủ mới này sẽ phải đủ vững mạnh để có được sự tuân thủ trong nước
và sự tôn trọng ở nước ngoài.
Đại diện của năm
bang đã họp ở Annapolis
thuộc bang Maryland
vào năm 1786. Họ
đề xuất các bang cử ra các đại biểu đi họp ở Philadelphia và xem xét việc sửa đổi các Điều
khoản Hợp bang. Đại hội nhất trí với đề xuất này và đề nghị mỗi bang chọn các
đại biểu đi dự Đại hội Lập hiến.
(Trích dẫn từ “Ấn
phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Mỹ, Tháng Bảy 2004. Bản
dịch của Sứ quán Mỹ tại Việt nam”).
B. ĐẠI HỘI LẬP HIẾN.
Đại hội được dự kiến sẽ
khai mạc vào ngày 14 Tháng Năm 1787. Nhưng có quá ít trong số 55 đại biểu đến Philadelphia vào ngày hôm
đó. Cuối cùng vào ngày 25 Tháng Năm 1787, Đại hội đã chính thức khai mạc tại
Hội trường Độc lập. Mười hai bang đã đáp lại lời mời dự Đại hội. Rhode Island từ chối cử đại biểu vì không muốn chính phủ
quốc gia can thiệp vào công việc của Rhode
Island .
Trong số 55 đại biểu, 39
người đã ký vào Hiến pháp Mỹ ngày 17 Tháng Chín 1787. Một trong số đó là John
Dickinson từ bang Delaware
đã rời khỏi Đại hội nhưng nhờ một đại biểu khác là George Read ký hộ. William
Jackson, thư ký của Đại hội, đã chứng kiến việc ký kết. Các đại biểu gồm cả
những người từng trải và yêu nước nhất của nền cộng hòa mới. George Washington
làm Chủ tịch cho Đại hội. Benjamin
Franklin ở tuổi 81 đã tham dự với tư cách là Đại biểu của bang Pennsylvania . Nhân vật
xuất chúng Alexander Hamilton đại diện cho New York . James Madison của bang Virginia đã nhận danh
hiệu “Cha đẻ của Hiến pháp” nhờ những bài diễn văn, các cuộc thương thuyết và
những nỗ lực thỏa hiệp của ông. James Madison đã phát biểu với các đại biểu
rằng họ “đang xem xét một kế hoạch sẽ quyết định mãi mãi vận mệnh của chính phủ
cộng hòa”. Ông đã ghi lại những cuộc tranh luận và các quyết định của đại biểu.
Những người khác cũng
liên quan nhiều đến việc soạn thảo Hiến pháp Mỹ là John Dickinson, Gouverner
Morris, Edmund Randolph, Roger Sherman, James Wilson và George Wythe. G. Morris
có lẽ là đại biểu có ảnh hưởng nhất sau J. Madison và G. Washington. Ông được giao nhiệm
vụ tổng hợp tất cả các nghị quyết và quyết định của Đại hội thành văn bản hoàn
chỉnh. G. Morris thực sự là người “chấp bút” cho Hiến pháp. Bản gốc của văn
kiện này hiện nay được lưu giữ bởi
Viện Lưu trữ Quốc gia ở Washington , D. C.
Một số nhân vật quan
trọng thời đó không tham dự Đại hội. John Adams và Thomas Jefferson vắng mặt do
đi nước ngoài làm một số nhiệm vụ khác của chính phủ. Samuel Adams và John Jay
không được bang của mình cử làm đại biểu. Patrick Henry từ chối sau khi được cử
vì ông chống lại việc trao thêm quyền cho chính phủ quốc gia. Ba thành viên
hàng đầu của đại hội – Elbridge Gerry, George Mason và Edmund Randolph – từ
chối việc ký vào Hiến pháp vì họ bất đồng với một số nội dung trong đó.
BỐI CẢNH CỦA HIẾN PHÁP.
Các đại biểu dự Đại hội
Lập hiến chủ yếu dựa vào kinh nghiệm khi xây dựng nên một chính phủ mới. Họ nhớ lại nhiều sự kiện
quan trọng trong quá trình phát triển của chính phủ hợp hiến, trong đó có việc công
nhận Magna Carta, văn kiện hiến pháp của Anh, vào năm 1215, và Đại hội Đại biểu ở Jamestown vào năm 1619. Một số thuộc
địa cũng được
lấy
làm những ví dụ điển hình về chính phủ hợp hiến.
Các chính quyền thuộc địa tuy còn khiếm khuyết nhưng đã phát triển hơn các
chính quyền khác cùng thời trong việc xây dựng quyền tự do theo luật.
Khoảng cùng thời gian
với Chiến tranh Cách mạng, một số bang ở Mỹ đã thành lập chính phủ hợp hiến.
Năm 1777, John Jay của bang New York
đã giúp soạn thảo hiến pháp cho bang mình. John Adams của bang Massachusetts đã giúp soạn thảo Hiến pháp Massachusetts vào năm 1780. Các đại biểu tham dự Đại hội Lập hiến ở Philadelphia đã sử dụng
nhiều ý tưởng và câu chữ trong các hiến pháp của những bang này và các bang
khác.
Các đại biểu cũng dựa
vào những kinh nghiệm của bản thân. Ví dụ: Benjamin Franklin đã đề xuất một kế
hoạch tại Đại hội Albany
vào năm 1754 để thống nhất
các thuộc địa dưới một chính quyền trung ương. G. Washington nhớ lại những khó
khăn của ông trong chiến tranh khi còn làm Tổng Tư lệnh, ông đã phải làm việc
với Chính phủ Hợp bang còn rất yếu kém. Hầu hết tất cả
các đại biểu tham dự Đại hội Lập hiến đã
từng tham gia quân đội hoặc làm cán bộ quản lý trong chính phủ. Các đại biểu
thường bất đồng về chi tiết nhưng thống nhất muốn có chính phủ mới đủ mạnh để
lãnh đạo đất nước mà không quá mạnh để đe dọa đến những quyền tự do của các
bang và người dân.
CÁC THỎA HIỆP.
Nhiệm vụ xây dựng một
chính phủ mới không dễ hoàn thành. Sự tranh chấp giữa các đại biểu đã suýt phá vỡ Đại hội
nhiều lần. Ví dụ, các đại biểu từ những bang lớn có dân số đông hơn bất đồng với những đại
biểu từ các bang nhỏ về sự đại diện trong cơ quan lập pháp quốc gia. Các bang
lớn hơn ủng hộ Kế hoạch Virginia , theo đó số dân sẽ
quyết định số đại diện cho
một bang được bầu vào cơ quan lập pháp. Các bang nhỏ hơn ủng hộ Kế hoạch New Jersey , trong đó đề xuất tất
cả các bang sẽ có số đại diện ngang bằng nhau. Các đại biểu từ bang Connecticut đề xuất một thỏa hiệp giải quyết
vấn đề này. Kế hoạch của họ đề nghị số đại diện ngang nhau trong Thượng Nghị
viện, cùng với số đại diện tương ứng với số dân trong Hạ Nghị viện. Đề xuất này
được gọi là Thỏa hiệp Connecticut hoặc Đại Thỏa hiệp.
Các thỏa hiệp cũng giải
quyết các xung đột về vấn đề nô lệ. Đại biểu từ
các bang miền Bắc muốn Quốc hội có quyền cấm buôn bán nô lệ nước ngoài và cuối
cùng bãi bỏ chế độ nô lệ. Hầu hết các đại biểu từ miền Nam không muốn Quốc hội có quyền
này. Một thỏa hiệp quyết định phải đến năm 1808, Quốc hội mới được phép
kiểm soát buôn bán nô lệ nước ngoài. Một thỏa hiệp khác liên quan đến vấn đề
đếm số nô lệ như thế nào trong việc xác định số nghị sỹ cho một bang. Nô lệ không được coi là công dân, và vì vậy Đại hội Lập
hiến đã nhất trí chỉ tính ba phần năm số nô lệ.
Các đại biểu nhất trí
rằng mỗi bang nên tổ chức một
đại hội đặc biệt để bàn bạc
và bỏ phiếu về Hiến pháp. Họ cũng quyết định rằng chừng nào có chín bang đã phê chuẩn (chấp thuận) Hiến pháp, chừng đó Hiến pháp sẽ có hiệu
lực và họ có thể bắt đầu tổ chức chính phủ mới của mình.
(Trích dẫn từ “Ấn
phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Mỹ, Tháng Bảy 2004. Bản
dịch của Sứ quán Mỹ tại Việt nam”).
C. PHIÊN BẢN ĐẦU TIÊN.
Hiến pháp Mỹ với toàn bộ văn bản được trình bày đầy đủ sau
đây (từ
Chương IV đến Chương VI) phản ánh câu chữ và cách sử dụng nguyên bản.
Các dấu móc vuông [] thể hiện những phần đã bị thay đổi hoặc bị thay thế
bởi các sửa đổi. Các đoạn thêm vào có tiêu đề là “CHÚ THÍCH”, không phải là nội dung của Hiến pháp. Các
đoạn này giải thích nghĩa của một số câu, hoặc mô tả việc áp dụng thực tiễn của
một số đoạn nào đó.
Lời mở đầu
Chúng tôi, nhân dân Mỹ với mục đích xây dựng
một Liên bang Hoàn hảo hơn nữa, thiết lập công lý, bảo đảm an ninh trong nước,
tạo dựng phòng thủ chung, thúc đẩy sự thịnh vượng trong toàn khối, giữ vững nền
tự do cho bản thân và con cháu chúng ta, quyết định xây dựng Hiến pháp này cho
Hợp chúng Quốc Mỹ.
Ðiều luật I, Khoản
1
NGÀNH LẬP PHÁP
Toàn bộ quyền lực lập pháp được thừa nhận
tại đây sẽ được trao cho Quốc hội Mỹ. Quốc hội gồm có Thượng Nghị viện và Hạ
Nghị viện.
CHÚ THÍCH:
Ba điều luật đầu tiên của Hiến pháp
phân chia quyền của Chính phủ Mỹ giữa ba ngành riêng biệt: (1) ngành lập pháp,
đại diện bởi Quốc hội; (2) ngành hành pháp, đại diện bởi Tổng thống; và (3)
ngành tư pháp, đại diện bởi Toà án Tối cao. Sự phân chia theo hiến pháp này,
tức là sự phân chia quyền lực, nhằm tránh làm
cho bất kỳ ngành nào của chính phủ trở nên quá mạnh. Ngoài ra, Hiến pháp thiết
lập sự kiểm soát và cân bằng thông qua cung cấp các phương tiện để mỗi ngành
được yêu cầu phải phối hợp với các ngành khác nhằm thực hiện các chức năng
nhiệm vụ của mình. Ví dụ, Tổng thống bổ nhiệm các thẩm phán liên bang nhưng
Thượng Nghị viện phải khẳng định phê chuẩn họ.
Quốc hội hai viện hoặc quốc hội lưỡng viện là một trong những thỏa hiệp
quan trọng nhất của Đại hội Lập hiến. Các bang nhỏ tại Đại hội đã ủng hộ Kế
hoạch New Jersey ,
theo đó mỗi bang sẽ có số đại diện bằng nhau. Các bang lớn ủng hộ Kế hoạch Virginia với số đại diện
tùy theo số dân. Thỏa hiệp là mỗi viện được lựa chọn
theo mỗi kế hoạch.
Ðiều luật I, Khoản 2
HẠ NGHỊ VIỆN
(1) Hạ Nghị viện sẽ gồm có các thành viên
cứ 2 năm một lần được bầu ra bởi dân chúng ở các
bang. Ðại Cử tri ở mỗi bang phải có phẩm chất cần thiết như phẩm chất của Đại Cử tri ở bang có cơ quan lập pháp đông đảo
nhất.
CHÚ THÍCH:
Thành viên của Hạ Nghị viện được bầu
theo nhiệm kỳ hai năm. Nếu một người đủ tư cách bầu cho “cơ quan có số đông
nhất” của cơ quan lập pháp bang của mình, thì người đó cũng đủ tư cách bỏ phiếu
bầu nghị sỹ Quốc hội. (Tất cả các bang, trừ bang Nebraska , đều có cơ quan lập pháp bang gồm
hai viện). Vấn đề ai có thể bỏ phiếu bầu các nhà lập pháp bang sẽ do bang quyết
định và phải theo các quy định hạn chế của Hiến pháp và luật liên bang, ví dụ
như Đạo luật Về Quyền Bầu cử năm
1965. Các Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 15, 19, 24 và 26, cấm các bang từ chối
hoặc hạn chế quyền bỏ phiếu của công dân với lý do chủng tộc, giới tính, hoặc không trả thuế; hoặc
tuổi tác nếu người đó có ít nhất 18 tuổi.
(2) Những người có thể được bầu làm Hạ Nghị
sỹ phải từ 25 tuổi trở lên và phải là công dân của Mỹ ít nhất 7 năm và vào thời
điểm được bầu phải là cư dân ở bang mà người đó được lựa chọn.
CHÚ THÍCH:
Mỗi bang tự quyết định các yêu cầu về
cư trú hợp pháp, theo các quy định hạn chế của Hiến pháp. Hầu hết các Hạ Nghị
sỹ không chỉ sống trong bang mà còn ở các quận nơi họ được chọn.
(3) Hạ Nghị sỹ và các loại thuế trực thu sẽ
được phân bổ theo các bang [mà có thể tính gộp vào trong Liên bang tùy theo số
lượng tương ứng được xác định bằng cách
tính tổng số gồm những người tự do, kể cả những người làm việc theo thời hạn và
3/5 số những người còn lại, không tính những người da đỏ vốn không nộp thuế].
Công việc thống kê thực sự sẽ tiến hành trong vòng ba năm sau cuộc họp đầu tiên
của Quốc hội Mỹ và 10 năm một lần tiến hành theo luật định. Mỗi Hạ Nghị sỹ sẽ
đại diện cho không quá 30000 người. Nhưng mỗi bang sẽ có ít nhất một Hạ Nghị
sỹ. Và trước khi việc thống kê và điều tra dân số được tiến hành, thì bang New
Hampshire sẽ được quyền bầu ba đại biểu, bang Massachusetts được bầu tám đại
biểu, bang đảo Rhodes và Providence Plantations được bầu một đại biểu, bang
Connecticut được bầu năm đại biểu, bang New York được bầu sáu đại biểu, bang
New Jersey bốn đại biểu, bang Pennsynvania tám đại biểu, bang Delaware một đại
biểu, bang Maryland sáu đại biểu, bang Virginia mười đại biểu, bang Bắc
Carolina năm đại biểu, bang Nam Carolina năm đại biểu và bang Georgia ba đại
biểu.
CHÚ THÍCH:
Tác động của đoạn này đã bị thay đổi
nhiều bởi các Điều luật Bổ sung Sửa đổi và những điều kiện mới. Hiện nay nó chỉ
quy định ba điều: (1) số Hạ Nghị sỹ của mỗi bang phải dựa vào số dân bang đó;
(2) Quốc hội phải biết rằng dân số Mỹ được điều tra 10 năm một lần; (3) và mỗi
bang có ít nhất một Hạ Nghị sỹ.
Những từ “và khoản thuế trực thu” có
nghĩa là thuế bầu cử. Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 16 cho Quốc hội quyền đánh
thuế người dân tùy theo thu nhập của người đó, thay vì theo số dân của bang mà
họ đang sống.
Khi nói đến “ba phần năm tất cả số
những người khác”, “những người khác” có nghĩa là nô lệ. Vì hiện không còn nô
lệ nữa nên nội dung này của đoạn không còn mang ý nghĩa nào. Yêu cầu nên có
không quá một Hạ Nghị sỹ trên 30.000 dân hiện không có hiệu lực thực tế nữa.
Năm 1929, Quốc hội đã cố định tổng số Hạ Nghị sỹ là 435 và con số này vẫn giữ
nguyên kể từ đó.
(4) Khi khuyết ghế dân biểu ở bất cứ một
bang nào thì chính quyền ở đó sẽ ban hành lệnh bầu cử để bổ sung vào những chỗ
trống đó.
CHÚ THÍCH:
Nếu có một ghế bị khuyết trong Hạ
Nghị viện, thống đốc bang phải tổ chức một cuộc bầu cử đặc biệt để bổ sung vị
trí này. Tuy nhiên, nếu cuộc bầu cử theo kế hoạch định kỳ kế tiếp sắp được tổ
chức thì thống đốc có thể để ghế này vẫn khuyết thay vì tổ chức một cuộc bầu cử
đặc biệt.
(5) Hạ Nghị viện sẽ bầu ra Chủ tịch và các
quan chức khác của Viện và họ là những người duy nhất có quyền kết tội các quan
chức.
CHÚ THÍCH:
Hạ Nghị viện chọn ra một viên chức
làm Chủ tịch cho Hạ Nghị viện để điều khiển các cuộc họp. Riêng Hạ Nghị viện có
quyền buộc tội một quan chức liên bang. Hạ Nghị viện đã luận tội 16 quan chức
liên bang, trong đó có hai Tổng thống là Andrew Johnson năm 1868 và William
Jefferson Clinton năm 1998. Thượng Nghị viện sẽ xét xử các vụ luận tội này.
Ðiều luật I, Khoản
3
THƯỢNG NGHỊ VIỆN
(1) Thượng Nghị viện Mỹ sẽ gồm có hai
Thượng Nghị sỹ của mỗi bang [được bầu ra bởi cơ quan lập pháp ở đó] với nhiệm
kỳ 6 năm và mỗi Thượng Nghị sỹ sẽ có một phiếu biểu quyết.
CHÚ THÍCH:
Đầu tiên, Hiến pháp quy định rằng cơ
quan lập pháp mỗi bang nên chọn hai Thượng Nghị sỹ của bang đó. Điều luật Bổ
sung Sửa đổi thứ 17 thay đổi quy định này bằng
cách cho phép cử tri mỗi bang được chọn ra Thượng Nghị sỹ của mình.
(2) Ngay sau khi Thượng
Nghị viện được bầu ra và nhóm họp lần đầu, các Thượng Nghị sỹ sẽ được phân chia
sao cho đồng đều thành ba cấp. Thượng Nghị sỹ cấp 1 sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào
cuối năm thứ hai của nhiệm kỳ, Thượng Nghị sỹ cấp 2 sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào
cuối năm thứ tư, Thượng Nghị sỹ cấp 3 sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ 6,
sao cho sau mỗi hai năm có thể bầu lại một phần ba Thượng Nghị sỹ. [Và khi có chỗ trống do từ chức hoặc nguyên nhân nào khác
trong thời gian ngừng họp của cơ quan lập pháp ở bất cứ bang nào, thì chính
quyền ở đó có thể tạm thời bổ nhiệm cho đến kỳ họp tiếp đó của cơ quan lập pháp
và khi đó sẽ bổ sung vào chỗ trống].
CHÚ THÍCH:
Các Thượng Nghị sỹ được bầu theo
nhiệm kỳ sáu năm. Hai năm một lần, một phần ba số Thượng Nghị sỹ được bầu lại
và hai phần ba lưu nhiệm. Sự sắp xếp này làm cho Thượng Nghị viện trở thành cơ
quan mang tính liên tục, không giống như Hạ Nghị viện khi toàn bộ thành viên
được bầu hai năm một lần. Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 17 thay đổi phương thức
lấp ghế khuyết. Thống đốc chọn ra một Thượng Nghị sỹ cho đến khi cử tri bầu ra
một người mới.
(3) Những người được bầu làm Thượng Nghị sỹ
phải ở độ tuổi 30 trở lên và có 9 năm là công dân Mỹ, đồng thời khi được bầu
phải là cư dân của bang mà người đó được tuyển chọn.
CHÚ THÍCH:
Năm 1806, Henry Clay của bang Kentucky được bổ nhiệm
lấp vào một ghế chưa hết nhiệm kỳ trong Thượng Nghị viện. Ông mới chỉ 29 tuổi,
trẻ hơn một vài tháng so với độ tuổi tối thiểu, nhưng không ai phản đối việc bổ
nhiệm này. Năm 1793, Albert Gallatin được bầu vào Thượng Nghị viện từ bang Pennsylvania . Ông bị cấm
nhậm chức vì chưa đủ chín năm làm công dân Mỹ.
(4) Phó Tổng thống Mỹ sẽ là Chủ tịch Thượng
Nghị viện, nhưng không có quyền bỏ phiếu, trừ trường hợp số phiếu chống ngang
nhau khi biểu quyết.
CHÚ THÍCH:
Phó Tổng thống làm Chủ tịch cho
Thượng Nghị viện. Ông này chỉ bỏ phiếu khi tỷ lệ phiếu ngang bằng nhau. Quyền
phá vỡ thế cân bằng cho Phó Tổng thống có thể rất quan trọng. Ví dụ năm 1789,
Phó Tổng thống John Adams bỏ lá phiếu quyết định Tổng thống có thể cách chức
các thành viên Nội các mà không cần Thượng Nghị viện phê chuẩn.
(5) Thượng Nghị viện lựa chọn những quan
chức khác và cả Chủ tịch Lâm thời khi Phó Tổng thống Mỹ vắng mặt hoặc khi Phó
Tổng thống đảm nhận chức vụ Tổng thống Mỹ.
CHÚ THÍCH:
Thượng Nghị viện bầu ra một quan chức
được gọi là Chủ tịch Lâm thời để chủ trì các cuộc họp khi Phó Tổng thống vắng
mặt.
(6) Thượng Nghị viện là nơi duy nhất có
quyền xét xử tất cả các vụ bị kết tội. Khi nhóm họp để xét xử, Thượng Nghị sỹ
sẽ phải tuyên thệ hoặc thề. Trong trường hợp xét xử Tổng thống, Chánh án Toà án
Tối cao sẽ chủ tọa phiên tòa. Không một ai bị kết án nếu không được sự nhất trí
của hai phần ba các Thượng Nghị sỹ có mặt.
CHÚ THÍCH:
Điều khoản quy định Chánh án, chứ
không phải Phó Tổng thống, sẽ đứng đầu Thượng Nghị viện khi Tổng thống bị xét
xử có lẽ xuất phát từ thực tế là việc Thượng Nghị viện kết tội Tổng thống sẽ
làm cho Phó Tổng thống trở thành Tổng thống thay thế. Cụm từ “tuyên thệ hoặc xác nhận” có nghĩa là các Thượng Nghị sỹ phải
tuyên thệ khi xử các vụ luận tội, cũng như các thành viên ban hội thẩm trong
phiên tòa bình thường.
(7) Mức án áp dụng
trong những vụ buộc tội này không vượt quá sự cách chức và tước quyền của bị
cáo đang đảm nhận một chức tước danh dự, có lợi tức hoặc có lợi lộc trong chính
quyền Hợp chúng Quốc, tuy vậy họ vẫn có thể bị truy tố, xét xử, kết án và trừng
phạt theo luật định.
CHÚ THÍCH:
Nếu một người bị luận tội có tội
thật, người đó có thể bị cách chức và cấm không được giữ các chức vụ liên bang
nữa. Thượng Nghị viện không thể áp đặt bất kỳ hình phạt nào khác, nhưng người
đó cũng có thể bị xét xử trong các phiên tòa bình thường. Thượng Nghị viện đã
kết tội bảy người, tất cả họ đều là thẩm phán. Tất cả những người này đã bị
cách chức, nhưng chỉ có hai trong số này không được giữ bất kỳ chức vụ liên
bang nào.
Ðiều luật I, Khoản
4
TỔ CHỨC CỦA QUỐC
HỘI
(1) Thời gian, địa điểm và cách thức tiến
hành bầu cử Thượng Nghị sỹ và Hạ Nghị sỹ sẽ do cơ quan lập pháp của mỗi bang
quy định. Nhưng vào bất cứ lúc nào Quốc hội cũng có thể dựa theo luật đặt ra
hoặc thay đổi các quy định đó, [chỉ trừ quy định về
địa điểm bầu Thượng Nghị sỹ].
CHÚ THÍCH:
Chừng nào các cơ quan lập pháp bang
còn bầu ra Thượng Nghị sỹ, chừng đó các cơ quan
này sẽ không để cho Quốc hội quyết định nơi bầu cử. Quy
định này có thể sẽ cho Quốc hội quyền ra lệnh cho từng bang phải đặt thủ
phủ ở đâu. Những từ “ngoại trừ những nơi chọn Thượng Nghị sỹ” bị gạt bỏ bởi
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 17.
(2) Quốc hội sẽ họp ít nhất mỗi năm một lần
[và phiên họp này sẽ vào ngày thứ hai đầu tiên của Tháng Chạp], trừ trường hợp
Quốc hội có thể quy định một ngày khác dựa theo luật.
CHÚ THÍCH:
Ở Âu châu, các vị vua có thể ngăn cản hoặc không cho Quốc hội họp, đôi khi trong nhiều
năm liền, đơn giản bằng cách không triệu tập họ. Đây là lý do để yêu cầu Quốc
hội Mỹ phải họp ít nhất một lần một năm. Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 20 đã
thay đổi ngày khai mạc phiên họp sang ngày 03 Tháng Giêng, trừ khi Quốc hội
định ra một ngày khác theo luật.
Ðiều luật I,
Khoản 5
(1) Mỗi viện sẽ có thẩm quyền về cuộc bầu
cử của mình, về kết quả của cuộc bầu cử đó và về việc đánh giá tiêu chuẩn của
các Nghị sỹ. Ða số trong mỗi Viện sẽ tổ chức một nhóm đại biểu theo quy định để
triển khai công việc, còn thiểu số có quyền trì hoãn phiên họp và có thể được
trao quyền buộc những thành viên vắng mặt phải tham gia công việc theo đúng thể
thức và phải nhận một hình thức kỷ luật theo quy chế của mỗi Viện.
CHÚ THÍCH:
Mỗi viện xác định các thành viên của
mình có đủ tư cách phù hợp với Hiến pháp và có được bầu ra theo đúng quy cách
hay không. Khi xem xét tiêu chuẩn của các thành viên, mỗi viện có thể chỉ xem
xét tuổi tác, tư cách công dân và các yêu cầu về nơi cư trú được nêu trong Hiến
pháp. Tuy nhiên khi kiến nghị sa thải một thành viên nào đó, mỗi viện trong
Quốc hội có thể xem xét các vấn đề khác có liên quan đến khả năng làm việc của
thành viên đó. Thảo luận và tranh luận có thể tiếp tục về việc có đủ số đại
biểu cần thiết hay không, chừng nào còn cần đủ số đại biểu để bỏ phiếu cuối
cùng.
(2) Mỗi Viện có thể quy định những quy chế
của mình, thi hành kỷ luật những thành viên có hành vi sai phạm và khai trừ một
thành viên với sự nhất trí của hai phần ba số thành viên.
CHÚ THÍCH:
Mỗi viện đề ra quy định riêng của
mình. Ví dụ, Hạ Nghị viện đề ra giới hạn thời gian chặt chẽ đối với tranh luận
để đẩy nhanh công việc. Chấm dứt tranh luận ở Thượng Nghị viện thường khó hơn
nhiều. Theo quy định của Thượng Nghị viện, một Thượng Nghị sỹ có thể phát biểu
bao lâu tùy ý trừ khi Thượng Nghị viện bỏ phiếu kết thúc, tức là kiến nghị chấm
dứt tranh luận. Đối với hầu hết các vấn đề, việc kết thúc cần có phiếu thuận
của 60 Thượng Nghị sỹ, hoặc ba phần năm tổng số
Thượng Nghị sỹ. Mỗi viện có thể cách chức một thành viên của mình bằng hai phần
ba số phiếu.
(3) Mỗi Viện ấn hành một tờ nội san về công
việc của mình và thông báo theo định kỳ các công việc đó trên tờ nội san, trừ
những việc mà Viện cho là cần phải giữ bí mật. Những phiếu thuận và phiếu chống
của các thành viên thuộc hai Viện về mọi vấn đề sẽ được công bố trên nội san
theo yêu cầu của một phần năm các thành viên có mặt.
CHÚ THÍCH:
Biên bản Hạ Nghị viện và Biên bản
Thượng Nghị viện được xuất bản cuối mỗi kỳ họp Quốc hội. Trong đó có tất cả các
dự luật và nghị quyết được xem xét trong kỳ họp, cũng như mọi cuộc bỏ phiếu.
Tất cả các thông điệp của Tổng thống gửi Quốc hội cũng được đưa vào đây.
Điều quan trọng hơn là Hồ sơ Quốc hội
được xuất bản hàng ngày và đăng tải nguyên văn các cuộc tranh luận.
(4) Trong thời gian khóa họp của Quốc hội,
nếu không được sự đồng ý của Viện kia, thì không một Viện nào có thể nghỉ họp
quá ba ngày hoặc chuyển sang địa điểm khác với địa điểm mà hai Viện đã quyết
định.
Ðiều luật I,
Khoản 6
(1) Các Thượng Nghị sỹ và Hạ Nghị sỹ được
nhận một khoản trợ cấp cho công việc của mình theo
luật định và được thanh toán bởi Ngân khố của
Hợp chúng Quốc. Trong mọi trường hợp, trừ khi có tội phản quốc, trọng tội và
tội vi phạm nền an ninh, họ được hưởng đặc quyền không bị bắt giam trong thời
gian tham dự khóa họp của Viện, trong khi tới cuộc họp và trở về nhà từ cuộc
họp. Ðối với những lời phát biểu và tranh luận của họ trong cả hai Viện này, họ
có quyền không bị chất vấn ở những nơi khác.
CHÚ THÍCH:
Đặc quyền miễn trừ (không bị bắt giữ)
khi đi họp Quốc hội nay hầu như không còn ý nghĩa gì. Thành viên Quốc hội, cũng
như bất kỳ ai khác, có thể bị bắt giữ khi vi phạm luật pháp. Họ có thể bị xét
xử, kết tội và đi tù.
Sự miễn trừ của Quốc hội đối với các
cáo buộc bôi nhọ và vu khống vẫn rất quan trọng. Bôi nhọ là một tuyên bố bằng
văn bản sai sự thật nhằm phá hoại thanh danh của một người. Vu khống là một
phát ngôn cũng nhằm mục đích như vậy. Miễn trừ theo điều khoản phát ngôn và
tranh luận có nghĩa là thành viên Quốc hội có thể nói bất cứ gì theo ý mình về
công việc của Quốc hội mà không sợ bị kiện. Quyền miễn trừ này mở rộng ra bất
cứ lời phát ngôn nào của thành viên trong các cuộc tranh luận, trong báo cáo
chính thức hoặc khi đang bỏ phiếu.
(2) Trong thời gian
được bầu làm Thượng Nghị sỹ hoặc Hạ Nghị sỹ, không một ai sẽ được bổ nhiệm vào
một chức vụ dân sự trong chính quyền Mỹ. Trong thời gian đó tiền lương của họ
sẽ không bị giảm và không một ai đang đảm nhiệm một chức vụ dân sự nào trong
chính quyền Mỹ được bầu vào Quốc hội.
CHÚ THÍCH:
Những điều khoản này nhằm
ngăn chặn các thành viên Quốc hội tạo ra các công việc mà có thể họ sẽ được bổ
nhiệm sau này, hoặc khi đang phục vụ trong Quốc hội thì không được tăng lương
của những công việc mà họ hy vọng sẽ đảm nhận trong tương lai, và không được
giữ chức vụ khác trong các ngành khác của chính phủ.
Năm 1909, Thượng Nghị sỹ
Philander C. Knox rút khỏi Thượng Nghị viện để trở thành Ngoại trưởng. Nhưng
lương của Ngoại trưởng đã được tăng khi Knox còn làm Thượng Nghị sỹ. Để ông
Knox chấp nhận chức vụ mới, Quốc hội đã không tăng lương trong thời gian còn
lại của nhiệm kỳ của ông Knox.
Ðiều luật I, Khoản
7
(1) Tất cả dự luật về tích lũy tổng thu
nhập sẽ được đề xuất bởi Hạ Nghị viện, nhưng
Thượng Nghị viện có quyền đề nghị hoặc chấp thuận những điều sửa đổi trong các
dự luật này cũng như đối với những dự luật khác.
CHÚ THÍCH:
Các dự luật thuế phải xuất phát từ Hạ
Nghị viện. Truyền thống luật thuế xuất phát từ Hạ Nghị viện của cơ quan lập
pháp có từ nước Anh. Ở Anh quốc, Hạ Nghị viện phản ánh chính xác hơn mong muốn
của người dân vì người dân bầu ra các thành viên. Họ không bầu ra các Thượng
Nghị sỹ. Ở Mỹ, kể từ khi thông qua Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 17, quy định
này không còn ý nghĩa vì người dân bầu ra cả Thượng Nghị sỹ và Hạ Nghị sỹ.
Ngoài ra, Thượng Nghị viện có thể sửa đổi một dự luật thuế đến mức trên thực tế
có thể soạn thảo mới lại toàn bộ.
(2) Mỗi dự luật đã được thông qua tại Hạ
Nghị viện và Thượng Nghị viện trước khi trở thành luật đều phải đệ trình lên
Tổng thống Mỹ. Nếu tán thành, Tổng thống sẽ ký nhận, nếu không Tổng thống sẽ
trả lại Viện đưa ra dự luật đó cùng với ý kiến không tán thành. Viện này sẽ
thông báo rộng rãi ý kiến không tán thành trong nội san và tiến hành xem xét
lại dự luật. Nếu sau khi xem xét lại và hai phần ba thành viên của Viện đó đồng
ý thông qua dự luật, thì nó sẽ được gửi cho Viện kia, kèm theo ý kiến không tán
thành. Và Viện đó cũng sẽ xem xét. Nếu được hai phần ba thành viên của Viện đó
phê chuẩn, thì nó sẽ trở thành một đạo luật. Nhưng trong các trường hợp này,
phiếu bầu của cả hai Viện đều phải ghi rõ tán thành hay không tán thành. Tên
của những người tán thành và không tán thành dự luật sẽ được đưa vào nội san
của mỗi Viện. Những dự luật mà Tổng thống không gửi trả lại trong vòng 10 ngày
(không kể chủ nhật) sau khi đệ trình lên sẽ trở thành đạo luật, coi như Tổng
thống đã ký phê chuẩn, trừ trường hợp Quốc hội đang không nhóm họp nên Tổng
thống không thể gửi trả lại cho Quốc hội được và trong trường hợp đó thì dự
luật sẽ không trở thành luật.
CHÚ THÍCH:
Một dự luật đã được thông qua bởi
Quốc hội sẽ được đệ trình lên cho Tổng thống ký. Nếu Tổng thống không đồng ý với
dự luật, ông có 10 ngày không kể chủ nhật để trả lại nơi đệ trình kèm theo văn
bản phản đối. Hành động này được gọi là phủ quyết. Quốc hội có thể thông qua
một điều luật bất chấp Tổng thống phủ quyết với tỷ lệ phiếu bầu là hai phần ba
số thành viên có mặt ở mỗi viện. Tổng thống cũng có thể để cho một dự luật trở
thành luật mà không cần ký sau 10 ngày. Nhưng một dự luật đệ trình lên Tổng
thống trong 10 ngày cuối của một kỳ họp Quốc hội không thể trở thành luật trừ
khi nó được ký. Nếu Tổng thống phản đối một dự luật nào đó mà dự luật đó lại
được gửi đến tay Tổng thống vào cuối kỳ họp, dự luật đó đơn giản có thể bị giữ
lại chưa ký. Khi Quốc hội ngừng họp, dự luật đó bị loại bỏ. Trường hợp này được
gọi là phủ quyết ngầm.
(3) Những mệnh lệnh, nghị quyết hoặc biểu
quyết cần sự nhất trí của Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện (trừ trường hợp Quốc
hội nghỉ họp), sẽ được đệ trình lên Tổng thống Mỹ, và trước khi có hiệu lực,
chúng phải qua sự phê chuẩn của Tổng thống, hoặc nếu Tổng thống không chấp
thuận, cần phải có sự chấp thuận lần thứ hai của hai viện với hai phần ba thành
viên của mỗi viện, theo đúng các quy chế và giới hạn được quy định cho các
trường hợp về dự luật.
Ðiều luật I, Khoản
8
QUYỀN HẠN CỦA
QUỐC HỘI
Quốc hội sẽ có quyền:
(1) Đặt ra và thu các khoản thuế, thuế
quan, thuế môn bài để trả các khoản nợ và chi phí cho quốc phòng và phúc lợi
công cộng của Mỹ. Nhưng các khoản thuế quan và thuế môn bài đều phải thống nhất
trên toàn cõi Mỹ.
CHÚ THÍCH:
Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào hàng
hóa nhập khẩu vào Mỹ. Thuế nội địa là thuế đánh vào việc buôn bán, sử dụng hoặc
sản xuất, và đôi khi đánh vào các quy trình kinh doanh hoặc
các đặc quyền. Ví dụ, thuế doanh nghiệp, thuế thuốc lá và thuế giải trí là thuế
nội địa. Thuế hải quan là thuật ngữ chung bao gồm cả thuế nhập khẩu và thuế nội
địa.
(2) Vay tiền theo tín dụng cho Mỹ.
(3) Quy định về thương mại với ngoại quốc,
giữa các bang và với các bộ lạc da đỏ.
CHÚ THÍCH:
Phần này, được gọi là điều khoản
thương mại, quy định một số quyền hạn cao nhất của Quốc hội. Toà án Tối cao đã
giải thích thương mại không chỉ là buôn bán mà còn là tất cả các dạng hoạt động
thương mại khác. Toà án Tối cao quy định rằng “thương mại giữa các bang” –
thương mại liên bang – không chỉ là các giao dịch qua ranh giới giữa các bang
mà còn là bất cứ hoạt động nào ảnh hưởng đến thương mại của hơn một bang. Quyền
quản lý thương mại là quyền khuyến khích, xúc tiến, cấm hoặc hạn chế thương
mại. Do vậy, Quốc hội có thể thông qua các điều luật và cung cấp tài chính để
nâng cấp đường thủy, quy định các biện pháp an toàn đường không và cấm vận
chuyển giữa các bang một số hàng hóa nhất định. Quốc hội có thể quy định việc
đi lại của người dân, sự di chuyển của tàu hỏa, dòng chuyển dịch của cổ phiếu
và trái phiếu và tín hiệu truyền hình cũng như Internet. Quốc hội có thể quy
định việc chạy trốn khỏi cảnh sát bang hoặc địa
phương qua các đường ranh giới bang để sử dụng thương mại liên bang cho các
hành vi phạm tội khác nhau là tội phạm liên bang. Quốc hội cũng cấm những người
vận hành các phương tiện liên bang hoặc phục vụ
các hành khách liên bang đối xử bất công với khách hàng do chủng tộc, giới
tính, dân tộc, tuổi già hoặc sự tàn tật của họ.
(4) Xây dựng đạo luật thống nhất về việc
nhập quốc tịch và luật thống nhất trong toàn lãnh thổ Mỹ về các vấn đề phá sản.
(5) Ðúc và in tiền, quy định giá trị của
đồng tiền trong nước và đồng tiền nước ngoài, xác định tiêu chuẩn cân đo.
CHÚ THÍCH:
Từ phần này, cùng với phần cho phép
Quốc hội quản lý thương mại và vay tiền, Quốc hội đã có quyền thành lập các
ngân hàng quốc gia và thiết lập Hệ thống Dự trữ Liên bang.
(6) Trừng phạt những vụ làm giả trái phiếu
và đồng tiền đang lưu hành ở Mỹ.
CHÚ THÍCH:
Công trái là trái phiếu chính phủ.
(7) Xây dựng các trạm bưu điện và mạng lưới
bưu điện.
(8) Thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học và các
nghệ thuật hữu ích bằng cách bảo đảm quyền sở hữu của các tác giả và nhà phát
minh đối với các tác phẩm và phát minh trong thời gian hạn định.
CHÚ THÍCH:
Sách, âm nhạc, tranh ảnh, băng video,
đĩa video kỹ thuật số (DVD), và phim có thể đăng ký bản quyền theo luật này.
(9) Thiết lập các tòa án dưới quyền của Toà
án Tối cao.
CHÚ THÍCH:
Các Tòa án Liên bang “dưới Toà án Tối
cao” bao gồm các tòa án cấp hạt của Mỹ và các Tòa án Phúc thẩm Mỹ.
(10) Xác định rõ và trừng phạt các tội cướp
biển và trọng tội xẩy ra trên biển và những sự vi phạm luật pháp quốc tế.
CHÚ THÍCH:
Quốc hội, chứ
không phải các bang, có quyền xét xử các tội phạm xảy ra tại các vùng
biển.
(11) Tuyên chiến, ban bố văn bản trao quyền
cho các tầu tư nhân được phép tấn công các tầu nước ngoài và soạn thảo những
luật liên quan tới sự chiếm dụng đất và nguồn nước.
CHÚ THÍCH:
Chỉ có Quốc hội mới có thể tuyên bố
chiến tranh. Tuy nhiên, Tổng thống, với tư cách là Tổng Tư lệnh, có thể đưa Mỹ
vào chiến tranh mà không cần có tuyên bố chính thức từ Quốc hội. Các cuộc chiến
không được tuyên bố chính thức là Chiến tranh Triều tiên (1950–1953), Chiến
tranh Việt nam (1957–1975) và các cuộc chiến tranh Vùng Vịnh (1991, 2003).
Giấy phép chặn bắt và trả đũa là các
tài liệu cho phép các tàu tư nhân có thể tấn công tàu địch. Những giấy tờ này
hiện nay không còn được ban hành nữa.
(12) Nuôi dưỡng và cung cấp cho quân đội,
nhưng việc chi tiêu khoản tiền này chỉ trong thời hạn không quá hai năm.
(13) Thiết lập và duy trì quân chủng hải
quân.
(14) Soạn thảo các luật lệ và các quy chế
về lực lượng lục quân và hải quân.
(15) Trù liệu việc xây dựng lực lượng dự bị
nhằm thực thi luật pháp của Liên bang, trấn áp các cuộc phiến loạn và đẩy lùi
xâm lăng.
CHÚ THÍCH:
Quốc hội trao cho Tổng thống quyền
quyết định lúc nào được coi là lúc có sự xâm chiếm hoặc
khởi nghĩa (nổi loạn) của một bang. Lúc đó, Tổng thống có thể kêu gọi lực lượng
dân quân của bang, nay là Lực lượng Phòng vệ Quốc gia, cũng như các lực lượng
vũ trang thường trực khác.
(16) Trù liệu sự tổ chức, vũ trang và duy
trì kỷ luật các lực lượng dự bị của các bang, và trù liệu việc lãnh đạo các lực
lượng này khi nào được huy động vào lực lượng liên bang Mỹ, trong khi vẫn giành
cho các bang cụ thể quyền bổ nhiệm sỹ quan và quyền huấn luyện lực lượng dự bị
của mỗi bang theo chuyên ngành mà Quốc hội đã quy định.
CHÚ THÍCH:
Chính phủ liên bang hỗ trợ các bang
duy trì quân đội, còn được coi là Lực lượng Phòng vệ Quốc gia. Cho đến năm
1916, các bang vẫn được quyền kiểm soát hoàn toàn lực lượng dân quân của mình.
Năm đó, Đạo luật Quốc phòng ra đời quy định về tài chính cho Lực lượng Phòng vệ
ở các bang và để biệt phái các lực lượng này tham gia vào quân đội quốc gia
trong những hoàn cảnh nhất định.
(17) Thực thi quyền lập pháp đặc biệt trong
mọi trường hợp đối với những quận huyện (diện tích không quá 10 hải lý vuông)
bằng cách Quốc hội tiếp nhận sự nhượng quyền của các bang đặc biệt, trở thành
cơ quan lãnh đạo của Chính phủ Mỹ và thực thi quyền lãnh đạo đối với tất cả
những địa điểm đã được mua lại theo sự đồng ý của cơ quan lập pháp của bang và
cũng theo cách như vậy xây dựng các pháo đài, kho vũ khí, xưởng chế tạo vũ khí,
kho cảng và các cơ sở cần thiết khác.
CHÚ THÍCH:
Phần này quy định Quốc hội là cơ quan
lập pháp không chỉ cho Quận Columbia, mà còn cho các khu vực thuộc sở hữu liên
bang nơi tọa lạc các pháo đài, căn cứ hải quân, kho vũ khí và các công trình
hoặc các tòa nhà liên bang khác.
(18) Soạn thảo mọi điều luật cần thiết và
đúng đắn để thực thi những quyền lực nói trên, cũng như tất cả những quyền lực
khác đã được trao cho Chính phủ Mỹ, hoặc cho bất cứ một
cơ quan và quan chức nào khác bởi Hiến pháp này.
CHÚ THÍCH:
Phần này, chính là điều khoản “cần
thiết và thích hợp” nổi tiếng, cho phép Quốc hội giải quyết nhiều vấn đề không
được nêu cụ thể trong Hiến pháp này. Sự linh hoạt này giải thích vì sao Hiến
pháp này là một trong những hiến pháp thành văn lâu đời nhất và vì sao nó cần
ít sự sửa đổi chính thức như vậy.
Ðiều luật I, Khoản 9
CÁC QUYỀN KHÔNG
CHO PHÉP ĐỐI VỚI QUỐC HỘI
(1) Việc nhập cư hoặc nhập khẩu của những
người hiện đang sống ở bất cứ bang nào sẽ được cân nhắc để chấp nhận, sẽ không bị cấm đoán bởi Quốc hội trước năm 1808, nhưng sẽ đánh
thuế không quá 10 đôla cho mỗi người nhập cư.
CHÚ THÍCH:
Đoạn này liên quan đến việc buôn bán
nô lệ. Những người buôn bán nô lệ, cũng như một vài chủ nô, muốn chắc chắn rằng
Quốc hội không thể ngăn cản bất kỳ ai đem nô lệ từ Phi châu vào đất nước trước
năm 1808. Năm 1808, Quốc hội đã cấm việc nhập khẩu nô lệ.
(2) Quyền được thẩm
định lý do bắt giam bởi tòa án sẽ không bị tước đoạt, trừ trường hợp có
phiến loạn và xâm lược và do yêu cầu nhằm bảo đảm nền an ninh chung.
CHÚ THÍCH:
Lệnh về đình quyền giam giữ là lệnh
của tòa án yêu cầu các nhà chức trách đang giam giữ một người nào đó phải đưa
người đó ra xét xử tại tòa án. Các nhà chức trách phải giải thích cho quan tòa
vì sao người kia lại bị giam giữ. Nếu họ không giải thích thỏa đáng thì quan
tòa có thể yêu cầu phòng thích tù nhân.
(3) Lệnh tước quyền công dân và tử hình
không cần xét xử sẽ không được thông qua.
CHÚ THÍCH:
Lệnh tước quyền công dân và tử hình
không cần xét xử là một đạo luật đã được thông qua bởi một cơ quan lập pháp
nhằm trừng phạt một người mà không cần xét xử. Luật hồi tố là luật khiến một
hành động phạm tội trở thành một hành động không bất hợp pháp khi nó đã diễn ra.
Luật này cũng bao gồm một đạo luật nhằm tăng hình phạt đối với một hành động
phạm tội của quá khứ.
(4) Sẽ không đặt ra loại thuế thân [hoặc
các loại thuế trực thu khác], nếu không tương ứng với cuộc điều tra dân số kể
trên trong điều luật này.
CHÚ THÍCH:
Thuế thân là thuế thu quân bình đối
với tất cả mọi người. Nó còn được gọi là thuế thân hoặc thuế bầu cử. Toà án Tối
cao cho rằng phần này nghiêm cấm thuế thu nhập, tuy nhiên Điều luật Bổ sung Sửa
đổi thứ 16 đã hủy bỏ hiệu lực quyết định của tòa án.
(5) Sẽ không đặt ra loại thuế hoặc thuế
nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu từ bất cứ bang nào.
CHÚ THÍCH:
Trong câu này, xuất khẩu có nghĩa là
được gửi đến các bang khác hoặc ra nước ngoài. Các bang miền Nam lo sợ rằng chính phủ mới sẽ
đánh thuế vào các hàng hóa xuất khẩu của họ và khiến nền kinh tế của họ bị
thiệt hại. Câu này ngăn cấm loại thuế như vậy. Tuy nhiên, Quốc hội có thể ngăn
cấm việc vận chuyển một số mặt hàng nhất định cũng như quy định các điều kiện
vận tải của các mặt hàng.
(6) Trong những quy chế về thương mại và
thu nhập sẽ không có sự ưu tiên nào đối với bến cảng của bất cứ bang nào so với
những bang khác. Tầu thuyền từ một bang nào đó sẽ không bị bắt buộc phải cập
bến, chịu sự kiểm tra và nộp thuế ở một bang khác.
CHÚ THÍCH:
Quốc hội không được thiết lập các bộ
luật liên quan đến thương mại bênh vực một bang này hơn bang khác. Tàu đi từ
một bang này đến một bang khác không cần phải trả thuế.
(7) Sẽ không được rút bất cứ khoản tiền nào
từ Ngân khố, trừ trường hợp pháp luật cho phép.
Bản báo cáo tài chính thu chi thường kỳ của những khoản tiền công cộng phải
được công bố thường xuyên.
CHÚ THÍCH:
Không được sử dụng tiền của chính phủ
mà không được sự cho phép của Quốc hội. Quốc hội phải chuẩn bị đầy đủ số liệu
để phát hành các báo cáo tài chính định kỳ.
(8) Mỹ sẽ không ban tặng các tước hiệu quý
tộc. Những người đảm nhận những chức vụ có lợi tức nếu không được sự đồng ý của
Quốc hội thì sẽ không được phép nhận bất cứ quà
tặng, lương bổng, hoặc bất cứ danh hiệu, tước vị nào được
trao tặng bởi vua chúa hoặc chính phủ nước ngoài nào.
CHÚ THÍCH:
Quốc hội không được phép trao cho bất
cứ người nào danh hiệu quý tộc, như bá tước hoặc
công tước. Các quan chức liên bang không được phép nhận quà tặng, văn phòng,
các khoản thanh toán hoặc các chức danh của nước
ngoài mà không được sự đồng ý của Quốc hội.
Ðiều luật I, Khoản
10
CÁC QUYỀN KHÔNG
CHO PHÉP ĐỐI VỚI CÁC BANG
(1) Không một bang nào được phép tham gia
vào bất cứ một hiệp ước, khối đồng minh hoặc liên hiệp nào; không được phép cấp
giấy phép trưng dụng, bắt giữ tàu thuyền nước ngoài; không được đúc tiền hoặc
phát hành trái phiếu; hoàn toàn không được dùng các đồng tiền vàng và bạc để
thanh toán các khoản nợ; không được thông qua luật trừng phạt con người mà
không qua xét xử và luật trừng phạt con người về một hành vi không vi phạm pháp
luật hoặc một đạo luật nào phương hại đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng; không
được ban tặng các tước hiệu quý tộc.
(2) Nếu không được sự đồng ý của Quốc hội, thì không một bang nào được đặt ra thuế và thuế quan
đánh vào hàng nhập khẩu và xuất khẩu, trừ trường hợp hết sức cần thiết cho việc
thực hiện các điều luật về thanh tra, và hệ thống thuế đánh vào hàng nhập khẩu
hoặc xuất khẩu được đặt ra bởi một bang nào đó
sẽ phải đóng góp cho Ngân khố Mỹ, đồng thời tất cả các điều luật này đều phải
đệ trình lên để Quốc hội xét duyệt và kiểm soát.
CHÚ THÍCH:
Nếu không có sự đồng ý của Quốc hội,
một bang không được đánh thuế vào các hàng hóa xuất hoặc nhập vào bang trừ các
khoản phí nhỏ để thanh toán chi phí kiểm tra.
(3) Nếu không được sự đồng ý của Quốc hội, thì không một bang nào được đánh thuế tàu, duy trì các
đội quân và tàu chiến trong thời kỳ hòa bình, ký kết hiệp định hoặc thỏa ước
với một bang khác hoặc với lực lượng nước ngoài hoặc tham gia vào cuộc chiến
tranh, trừ trường hợp thực sự bị xâm lược hoặc lâm vào tình trạng sắp xẩy ra
nguy biến và không thể trì hoãn.
CHÚ THÍCH:
Chỉ có chính phủ liên bang có quyền
lập hiệp ước hoặc đàm phán với các quốc gia nước ngoài.
Ðiều luật II,
Khoản 1
NGÀNH HÀNH PHÁP
(1) Quyền lực
hành pháp sẽ được trao cho Tổng thống Mỹ 12). Tổng thống giữ chức vụ của mình trong
nhiệm kỳ 4 năm và cùng với Phó Tổng thống cũng được bầu ra theo cùng một nhiệm
kỳ và được bầu cử theo thể thức sau đây:
(2) Theo thể thức mà cơ quan lập pháp ở đó
quy định, mỗi bang sẽ cử ra một số Đại Cử tri bằng tổng số Thượng Nghị sỹ và Hạ
Nghị sỹ mà bang sẽ bầu ra trong Quốc hội. Nhưng không một Thượng Nghị sỹ, Hạ
Nghị sỹ hoặc một quan chức nào đảm nhiệm chức vụ có lợi tức sẽ được bầu chọn làm Đại Cử tri.
CHÚ THÍCH:
Phần này thiết lập Đại Cử tri Đoàn,
là một nhóm người được lựa chọn trong mỗi bang theo cách thức luật pháp bang đó
quy định. Tất cả các bang hiện tại đều quy định rằng các cử tri bầu ra các Đại
Cử tri. Các Đại Cử tri sẽ bầu ra Tổng thống và Phó Tổng thống.
(3) [Các Đại Cử
tri sẽ họp ở bang của mình và bỏ phiếu bầu hai người và ít nhất một trong hai
người không phải là cư dân trong cùng một bang với người kia. Họ sẽ lập bản
danh sách về những người đi bầu và số phiếu bầu của mỗi người, ký và xác nhận
vào danh sách, gắn xi niêm phong và chuyển lên cơ quan Chính phủ Mỹ, đệ trình
lên Chủ tịch Thượng Nghị viện. Với sự có mặt của Thượng Nghị viện và Hạ Nghị
viện, Chủ tịch Thượng Nghị viện sẽ mở tất cả cứ liệu đã được xác nhận và sẽ đếm
số lượng phiếu bầu. Người có phiếu bầu nhiều
nhất sẽ là Tổng thống, nếu như số phiếu bầu này
chiếm đa số trong tổng số các Đại Cử tri được bầu ra, và nếu từ hai người trở
lên có đa số phiếu bầu và có số phiếu bầu bằng nhau, thì Hạ Nghị viện sẽ ngay
lập tức bỏ phiếu để bầu một trong những người đó làm Tổng thống. Nếu không
người nào có đa số phiếu bầu, thì Hạ Nghị viện cũng theo thể thức như vậy, chọn
5 người có số phiếu bầu nhiều nhất trong danh sách để bầu ra Tổng thống. Nhưng
trong việc bầu chọn Tổng thống, công việc bầu cử được
tiến hành ở các bang, Hạ Nghị sỹ ở mỗi bang có một
phiếu bầu. Số đại biểu tiến hành công việc này sẽ gồm một thành viên hoặc những
thành viên thuộc hai phần ba số bang và điều cần thiết cho cuộc bầu cử phải gồm
đại biểu của đa số các bang. Trong mọi trường hợp, sau khi bầu Tổng thống,
người có số phiếu nhiều nhất được bầu cho bởi
các Đại Cử tri sẽ là Phó Tổng thống. Nhưng nếu từ hai
người trở lên có số phiếu bầu bằng nhau, thì Thượng Nghị viện sẽ chọn trong số
đó để bỏ phiếu bầu ra Phó Tổng thống].
CHÚ THÍCH:
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 12 của
Hiến pháp đã thay đổi thủ tục bầu cử Tổng thống và Phó Tổng thống.
(4) Quốc hội có thể quyết định cả thời gian bầu các Đại Cử tri lẫn ngày mà các Đại Cử tri sẽ bỏ phiếu để bầu cử, và thời gian bầu các Đại Cử tri sẽ cùng một ngày với ngày mà các Đại Cử tri sẽ bỏ phiếu để
bầu cử trên toàn lãnh thổ Mỹ.
(5) Người có đủ tiêu chuẩn được bầu làm
Tổng thống phải là công dân sinh ra tại bản địa hoặc là công dân Mỹ trong thời
gian thực hiện Hiến pháp này, từ 35 tuổi trở lên và đã có 14 năm cư trú ở Mỹ.
(6) Trong trường hợp Tổng thống bị cách
chức hoặc qua đời, từ chức hoặc không đủ năng lực trong việc thực thi quyền lực
và nhiệm vụ của mình, thì mọi quyền lực và nhiệm vụ sẽ được
chuyển giao cho Phó Tổng thống. Quốc hội sẽ căn cứ vào luật bổ khuyết một quan
chức vào ghế trống trong các trường hợp truất quyền, tử vong, từ chức hoặc
không đủ năng lực của cả Tổng thống và Phó Tổng thống; quan chức nào thay quyền
Tổng thống hoặc Phó Tổng thống sẽ thi hành nhiệm vụ cho đến khi chấm dứt tình
trạng không đủ năng lực và khi đã bầu được Tổng thống mới.
CHÚ THÍCH:
Vào ngày 09 Tháng Tám 1974, Tổng
thống Richard M. Nixon đã từ chức Tổng thống và Phó Tổng thống Gerald R. Ford
đã kế nhiệm. Cho đến nay, chỉ có cái chết mới có thể rút ngắn nhiệm kỳ của một
Tổng thống Mỹ. Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 25 quy định rằng Phó Tổng thống kế
nhiệm chức Tổng thống nếu Tổng thống bị tàn phế, và xác định cụ thể các điều
kiện áp dụng cho sự kế nhiệm này.
(7) Trong nhiệm kỳ của mình, Tổng thống sẽ
được nhận một khoản tiền lương trả cho công việc của mình, khoản tiền này sẽ
không tăng và cũng không giảm trong suốt nhiệm kỳ này và Tổng thống cũng không
có quyền được nhận bất cứ một khoản tiền nào khác của Mỹ hoặc bất cứ một bang
nào.
CHÚ THÍCH:
Hiến pháp cho phép một người nghèo có
thể trở thành Tổng thống bằng cách trả lương cho chức vị đó. Lương của Tổng
thống không thể tăng hoặc giảm trong suốt thời
gian đương nhiệm của ông ta/bà ta. Tổng thống có thể không nhận bất cứ khoản
thanh toán nào từ chính phủ liên bang hoặc các bang, nhưng dĩ nhiên vẫn được
trả bằng rất nhiều dịch vụ khác.
(8) Trước khi bắt đầu điều hành văn phòng
của mình, Tổng thống sẽ tuyên thệ hoặc thề như sau: “Tôi trân trọng tuyên thệ
(hoặc thề) rằng tôi sẽ giữ chức vụ Tổng thống Mỹ với lòng trung thành và tận
dụng hết khả năng của mình để duy trì, giữ gìn và bảo vệ Hiến pháp Mỹ”.
CHÚ THÍCH:
Hiến pháp không quy định ai sẽ thực
hiện lễ tuyên thệ cho Tổng thống mới được bầu. Robert R. Livingston, sau này là
một quan chức bang New York ,
làm lễ tuyên thệ cho Tổng thống George Washington. Sau đó việc Chánh án Toà án
Tối cao của Mỹ điều hành buổi lễ tuyên thệ cho Tổng thống trở thành thông
lệ. Calvin Coolidge thực hiện lễ tuyên thệ tại quê nhà Vermont nhờ bố của ông,
một thẩm phán hòa giải, nhưng C. Coolidge phải thực hiện lại lễ tuyên thệ trước
Thẩm phán Adolph A. Hoehling của Toà án Tối cao ở Quận Columbia.
Ðiều luật II, Khoản
2
(1) Tổng thống sẽ là Tổng Tư lệnh các lực
lượng lục quân và hải quân Mỹ và của lực lượng dự bị ở một số bang. Khi bắt đầu
thực sự bắt tay vào công việc, Tổng thống có thể yêu cầu các quan chức phụ
trách các cơ quan hành pháp đề xuất ý kiến bằng văn bản về bất cứ vấn đề nào
liên quan tới nhiệm vụ của những cơ quan đó. Tổng thống có quyền hủy bỏ bản án
hoặc ân xá đối với những hành vi chống lại Mỹ, trừ những trường hợp xét xử các
vụ trọng tội.
CHÚ THÍCH:
Quyền hạn của Tổng thống trong vai
trò Tổng Tư lệnh rất rộng lớn. Tuy nhiên, kể cả trong thời chiến, Tổng thống
vẫn phải tuân thủ luật pháp của đất nước.
(2) Theo thỏa thuận và sự đồng ý của Thượng
Nghị viện – với sự nhất trí của hai phần ba số Thượng Nghị sỹ có mặt, Tổng
thống có quyền ký kết các điều ước. Và cũng theo thỏa thuận, đồng ý của Thượng
Nghị viện, Tổng thống sẽ bổ nhiệm các đại sứ, các công sứ, lãnh sự, các quan
tòa của Toà án Tối cao và những quan chức khác của Mỹ. Những việc bổ nhiệm này
không làm trái với những quy định và sẽ được thực hiện theo luật định, nhưng
Quốc hội có thể căn cứ vào các điều luật mà thực hiện quyền bổ nhiệm các quan
chức cấp dưới trong các tòa án hoặc các vụ viện mà họ cho là phù hợp.
CHÚ THÍCH:
Các quy định trong Hiến pháp cho rằng
trong một vài vấn đề Thượng Nghị viện sẽ hoạt động như cơ quan cố vấn của Tổng
thống, ở một mức độ nào đó cũng giống như Thượng Nghị viện Anh cố vấn cho nhà
vua tại Vương quốc Anh.
Tổng thống có thể ký kết các hiệp ước
và bổ nhiệm nhiều quan chức chính phủ. Tuy nhiên hai phần ba đại diện có mặt
của Thượng Nghị viện phải phê duyệt trước khi hiệp ước được xác nhận. Ngoài ra,
các trường hợp bổ nhiệm cao cấp cần có sự chấp thuận của quá nửa số Thượng Nghị
sỹ có mặt.
(3) Tổng thống sẽ có quyền bổ sung vào
những chỗ trống có thể xẩy ra trong thời gian giữa hai kỳ họp của Thượng Nghị
viện bằng cách cấp giấy ủy nhiệm có thời hạn đến cuối kỳ họp sau của Thượng
Nghị viện.
CHÚ THÍCH:
Khi Thượng Nghị viện đang không trong
kỳ họp, Tổng thống có thể tạm thời bổ nhiệm các chức vụ cần có sự chấp thuận
của Thượng Nghị viện.
Ðiều luật II,
Khoản 3
Theo thường lệ, Tổng thống sẽ thông báo
thường kỳ cho Quốc hội về tình hình của Liên bang và đề nghị Quốc hội xem xét những
biện pháp mà Tổng thống thấy cần thiết và thích hợp. Trong trường hợp cần
thiết, Tổng thống có quyền triệu tập hai Viện hoặc một trong hai Viện. Trong
trường hợp bất đồng giữa hai Viện về thời gian hoãn họp, Tổng thống sẽ quyết
định về thời gian cuộc họp sẽ hoãn đến bao giờ mà Tổng thống cho là thích hợp.
Tổng thống sẽ tiếp kiến các đại sứ và các công sứ. Tổng thống đôn đốc việc thi
hành pháp luật một cách đúng đắn và sẽ giao phó nhiệm vụ cho tất cả các quan
chức của Mỹ.
CHÚ THÍCH:
Hàng năm Tổng thống phát biểu Thông
điệp Liên bang trước Quốc hội. Tổng thống George Washington và John Adams tự
mình trực tiếp phát biểu các thông điệp. Trong hơn 100 năm sau đó, hầu hết các
Tổng thống đều thực hiện thông điệp bằng văn bản và đọc trước Quốc hội. Tổng
thống Woodrow Wilson
đã phát biểu thông điệp trực tiếp, cũng như Tổng thống Franklin D. Roosevelt và
tất cả các Tổng thống sau Franklin D. Roosevelt. Thông điệp trước Quốc hội nổi
tiếng nhất là Học thuyết Monroe và Tuyên bố
“Mười bốn Điểm” của Tổng thống W. Wilson .
Trong suốt thế kỷ XIX, Tổng thống
thường triệu tập phiên họp Quốc hội. Ngày nay, Quốc hội tổ chức họp thường
xuyên. Chưa có Tổng thống nào từng yêu cầu ngừng họp Quốc hội.
Trách nhiệm “quan tâm sao cho các bộ
luật được thực thi một cách trung thực” đưa Tổng thống lên thành người đứng đầu
quản lý việc thực thi luật pháp của chính phủ quốc gia. Mọi quan chức liên
bang, dân sự hoặc quân sự, đều nhận quyền hạn
của mình từ Tổng thống.
Ðiều luật II,
Khoản 4
Tổng thống, Phó Tổng thống và các quan chức
dân sự của Mỹ sẽ bị cách chức khi bị buộc tội phản quốc, tội nhận hối lộ cùng
những tội nghiêm trọng khác.
Ðiều luật
III, Khoản 1
NGÀNH TƯ PHÁP
Quyền lực tư pháp của Mỹ sẽ được trao cho
Toà án Tối cao và những tòa án cấp dưới mà Quốc hội có thể thiết lập trong một số
trường hợp. Các quan tòa của Toà án Tối cao và các tòa án cấp dưới sẽ giữ chức
vụ của mình đến suốt đời nếu luôn luôn có hành vi chính đáng, và trong thời
gian đã nêu trên, họ được nhận khoản tiền lương cho công việc của mình và khoản
tiền này sẽ không bị giảm đi trong suốt thời gian đó.
CHÚ THÍCH:
Hiến pháp trao cho các tòa án liên
bang một sự độc lập đáng kể đối với cả Quốc hội và Tổng thống. Việc bảo đảm cho
các quan tòa duy trì nhiệm vụ của mình với “tư cách đạo đức tốt” có nghĩa là
chỉ cần họ không bị tố cáo và kết tội thì họ có thể đương nhiệm suốt đời. Quy định này bảo vệ các quan tòa khỏi bất cứ nguy cơ
sa thải nào từ phía Tổng thống đã bổ nhiệm họ hoặc
bất cứ Tổng thống nào trong suốt cuộc đời họ. Quy định không được giảm lương
của thẩm phán đã bảo vệ các thẩm phán khỏi áp lực của Quốc hội, cơ quan có thể
đe dọa cố định mức lương của họ ở mức thấp đến nỗi họ buộc phải từ chức.
Ðiều luật
III, Khoản 2
(1) Quyền lực tư pháp căn cứ vào Hiến pháp
này sẽ có hiệu lực đối với tất cả các vụ việc trên phương diện luật pháp và
công lý, các điều luật của Mỹ, các hiệp ước đã hoặc sẽ được
ký dưới thẩm quyền của Chính phủ; đối với các trường hợp liên quan tới các đại
sứ, các công sứ và các lãnh sự, đối với các trường hợp liên quan tới luật pháp
hàng hải và hải quân; đối với các tranh chấp mà Mỹ là một bên, đối với các cuộc
tranh chấp giữa hai bang trở lên, giữa một bang với các công dân của bang khác,
giữa các công dân của các bang khác nhau, giữa các công dân trong một bang
tranh chấp đất đai được cấp bởi các bang khác
nhau, giữa một bang hoặc các công dân của bang đó với các bang khác [hoặc các công dân và đối tượng của bang khác].
CHÚ THÍCH:
Quyền giải quyết “các vụ việc nảy
sinh từ Hiến pháp” của các tòa án liên bang là cơ sở cho quyền của Toà án Tối
cao có thể tuyên bố các bộ luật của Quốc hội không phù hợp với Hiến pháp. Quyền
“xem xét lại của tòa án” là một quyết định lịch sử của Chánh án Toà án Tối cao
John Marshall trong vụ Marbury kiện Madison
năm 1803.
Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 11 đã
xóa cụm từ “giữa một bang và các công
dân của bang khác” và loại bỏ các vụ tố tụng của các công dân chống lại một
bang khỏi phạm vi giải quyết của các tòa án liên bang.
(2) Trong các trường hợp liên quan tới các
đại sứ, các công sứ và các lãnh sự, và các trường hợp mà một bang thuộc về một
bên, thì Toà án Tối cao phải mở phiên tòa sơ thẩm. Trong những trường hợp khác,
căn cứ vào luật pháp, vụ việc và cả những ngoại lệ và tuân theo những quy chế được đề xuất bởi Quốc hội, Toà án Tối cao sẽ mở phiên
tòa phúc thẩm.
CHÚ THÍCH:
Tuyên bố rằng Toà án Tối cao có quyền
lực pháp lý đầu tiên trong các vụ việc ảnh hưởng đến các chính phủ nước ngoài
và các đại diện của họ và trong các vụ việc mà chính quyền của một bang là một
trong các bên tham gia, có nghĩa là các vụ việc
thuộc dạng này sẽ được tống đạt trực tiếp lên Toà án Tối cao. Trong các trường
hợp khác, Toà án Tối cao có thẩm quyền chống án. Quy
định này có nghĩa là các vụ việc được xét xử đầu tiên tại một tòa án thuộc cấp thấp hơn và có thể được
gửi lên đến Toà án Tối cao để xem xét lại nếu Quốc hội cho phép kháng
cáo đối với các vụ việc thuộc
dạng này. Quốc hội không được tước bỏ hoặc
sửa đổi quyền lực pháp lý đầu tiên của Toà án Tối cao, tuy nhiên nó có thể tước
bỏ quyền kháng cáo gửi lên đến tòa án đó hoặc sửa đổi các điều kiện mà một bên
phải đáp ứng để thực hiện kháng án.
(3) Trừ những trường hợp bị buộc trọng tội,
việc xét xử các tội sẽ phải thông qua Bồi thẩm Đoàn và phiên tòa xét xử sẽ mở
tại bang đã xẩy ra vụ việc phạm tội. Nhưng nếu vụ việc không xẩy ra trong bất
cứ bang nào, thì phiên tòa sẽ họp ở một nơi mà Quốc hội căn cứ vào luật để
quyết định.
Ðiều luật
III, Khoản 3
(1) Tội phản quốc chống lại Mỹ bao gồm hành
vi gây chiến tranh tấn công nước này hoặc ủng hộ kẻ thù, trợ giúp và úy lạo
chúng. Không một ai bị phán quyết về tội phản quốc, trừ phi có hai người làm
chứng về hành vi phạm tội hoặc có sự thú tội công khai trước tòa.
CHÚ THÍCH:
Không ai có thể bị buộc tội phản quốc
chống lại Mỹ trừ khi ông ta/bà ta thú nhận điều đó trong một tòa án công khai,
hoặc trừ khi có hai nhân chứng chứng nhận rằng ông ta hoặc bà ta đã thực hiện
một hành động phản quốc. Nói chuyện hoặc suy nghĩ về một hành động phản quốc
không phải là tội phản quốc.
(2) Quốc hội có quyền xác định hình phạt
cho tội phản quốc. Nhưng không một sự trừng phạt nào hoặc
việc tịch thu tài sản lại thực hiện đối với những người thân của kẻ phạm tội,
mà chỉ thực hiện đối với bản thân họ mà thôi.
CHÚ THÍCH:
Cụm từ “việc tịch thu tài sản và
quyền công dân đối với một người phản quốc sẽ không ảnh hưởng đến thân nhân” có
nghĩa là gia đình của một kẻ phản bội không phải chịu chung tội lỗi đó. Trước
đây, gia đình của một tội phạm cũng có thể bị trừng phạt.
Ðiều luật IV*
(*Hầu hết nội
dung của điều luật này đều lấy nguyên bản từ các Điều khoản Hợp bang cũ).
Ðiều luật IV,
Khoản 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA
CÁC BANG
Mỗi bang đều phải tin tưởng tuyệt đối vào
các điều luật, hồ sơ và thủ tục tố tụng của các bang khác. Quốc hội bằng những
luật có tính chất chung quy định cách thức chứng thực các điều luật, hồ sơ và
thủ tục tố tụng đó, cũng như hiệu lực của chúng.
CHÚ THÍCH:
Phần này yêu cầu các bang tôn trọng
các đạo luật, hồ sơ và quy tắc xử án của các bang khác.
Ðiều luật IV,
Khoản 2
(1) Công dân của
mỗi bang sẽ được hưởng mọi đặc quyền và quyền bất khả xâm phạm như công dân của
các bang khác.
CHÚ THÍCH:
Quy định này có nghĩa là các công dân đi lại
giữa các bang có quyền được hưởng tất cả các đặc quyền và sự miễn trừ được tự
động áp dụng với công dân của các bang đó. Một vài đặc quyền như quyền bầu cử
không được tự động áp dụng đối với quyền công dân mà yêu cầu một thời gian cư
trú và có thể các tiêu chí khác nữa. Từ “công dân” trong điều khoản này không
bao gồm các tập đoàn.
(2) Cá nhân bị truy
tố về tội phản quốc, trọng tội hoặc một tội nào khác mà trốn tránh pháp luật và
bị tìm thấy ở một bang khác, thì theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của
bang mà người đó chạy trốn, sẽ bị trao trả lại và dẫn độ về bang có thẩm quyền
xét xử.
CHÚ THÍCH:
Nếu một người phạm tội tại một bang
và chạy trốn sang bang khác, thống đốc của bang nơi phạm nhân đó thực hiện hành
vi phạm tội có thể yêu cầu trao trả kẻ chạy trốn đó. Quá trình trao trả một
người bị buộc tội được gọi là dẫn độ. Trong một vài trường hợp, một thống đốc
có thể từ chối dẫn độ. Thống đốc có thể làm như vậy do việc phạm tội đã cách
đây nhiều năm, hoặc do ông ta hoặc bà ta tin rằng người bị buộc tội có thể đã
không được xét xử công bằng tại bang kia.
(3) [Không một cá
nhân nào vốn bị giam cầm, quản thúc, khổ sai ở một bang chạy trốn sang một bang
khác lại có thể dựa vào luật lệ và quy chế ở địa phương mới để trốn tránh những
hình phạt nói trên, ngược lại cá nhân đó phải được trao trả lại theo yêu cầu
của bên mà cá nhân đó buộc phải làm việc và lao động].
CHÚ THÍCH:
Một “người được giữ để phục vụ hoặc
lao động” là một nô lệ hoặc một nô bộc khế ước (một người bị ràng buộc bởi một
hợp đồng phục vụ cho một ai đó trong nhiều năm). Hiện tại không một ai tại Mỹ
bị ràng buộc vào tình trạng nô lệ, do vậy phần này của Hiến pháp đã được loại
bỏ trong Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 13 và hiện không còn hiệu lực.
Ðiều luật IV,
Khoản 3
MỐI QUAN HỆ GIỮA
BANG VÀ LIÊN BANG
(1) Những bang mới có thể được chấp nhận
gia nhập vào Liên bang này bởi Quốc hội; nhưng
không một bang mới nào sẽ được thành lập hoặc dựng nên dưới thẩm quyền của bất
cứ bang nào khác; cũng không một bang nào sẽ được hình thành bằng cách sáp nhập hai bang trở lên hoặc các vùng của các bang
khác nếu không được sự đồng ý của cơ quan lập pháp ở các bang có liên quan cũng
như của Quốc hội.
CHÚ THÍCH:
Các bang mới không được phép hình
thành bằng cách chia cắt hoặc sáp nhập vào các bang khác mà không được sự tán thành
của các cơ quan lập pháp bang và Quốc hội. Trong suốt cuộc Nội chiến 1861 –
1865, bang Virginia
đấu tranh cho phe Liên minh, tuy nhiên nhân dân miền Tây của bang lại ủng hộ
Liên bang. Sau khi miền Tây Virginia tách khỏi
Virginia , Quốc hội đã chấp nhận một bang mới
trên vùng đất mà Virginia
đã nổi dậy.
(2) Quốc hội có quyền hoạch định và xây
dựng các luật lệ và quy chế cần thiết liên quan tới lãnh thổ hoặc sở hữu khác
thuộc về Mỹ; và không một điều luật nào trong
Hiến pháp này sẽ được giải thích làm tổn hại đến bất cứ tuyên bố nào của Mỹ hoặc của bất cứ một bang cụ thể nào khác.
Ðiều luật IV,
Khoản 4
Mỹ sẽ bảo đảm cho mỗi bang trong Liên bang
này một thể chế chính quyền cộng hoà; và sẽ bảo vệ mỗi bang chống lại sự xâm
lược; và theo yêu cầu của cơ quan lập pháp hoặc hành pháp (khi cơ quan lập pháp
không thể nhóm họp) để chống lại tình trạng bạo lực trong nước.
CHÚ THÍCH:
Phần này yêu cầu Chính phủ Liên bang
bảo đảm rằng mọi bang đều có “tổ chức chính quyền cộng hòa”. Một chính quyền
cộng hòa là một chính quyền trong đó nhân dân bầu ra các đại diện để quản lý
bang. Toà án Tối cao quy định rằng Quốc hội, chứ không phải các tòa án, phải
quyết định xem một chính quyền bang có tính chất cộng hòa hoặc không. Nếu Quốc hội chấp nhận các Thượng Nghị sỹ
và Hạ Nghị sỹ của một bang thì hành động đó biểu thị rằng Quốc hội cho rằng
chính quyền bang đó có tính chất cộng hòa.
Cơ quan lập pháp hoặc thống đốc của
một bang có thể yêu cầu sự trợ giúp của liên bang trong việc giải quyết các
cuộc nổi loạn hoặc các dạng tội ác nội bộ khác.
Tuy nhiên Tổng thống không cần sự chấp thuận của một bang trong việc gửi các
lực lượng liên bang, bao gồm cả các lực lượng quân đội để thực hiện các đạo
luật liên bang. Trong cuộc bãi công Pullman vào
năm 1894, Chính phủ Liên bang đã gửi các sư đoàn tới Illinois mặc dù thống đốc bang không muốn.
Năm 1957 Tổng thống Eisenhower đã quốc hữu hóa Lực lượng Phòng vệ bang Arkansas
nhằm tước bỏ quyền chỉ huy của Thống đốc bang Arkansas Orval Faubus và gửi Quân
đội Mỹ đến Arkansas để giúp đỡ họ thực hiện các mệnh lệnh của tòa án hạt liên
bang nhằm xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc tại trường Little Rock.
Ðiều luật V
SỬA ĐỔI HIẾN
PHÁP
Khi hai phần ba thành viên của cả hai Viện
đều xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của các cơ quan lập pháp ở hai phần ba
các bang, Quốc hội sẽ đưa ra những điều luật sửa
đổi đối với Hiến pháp này và sẽ triệu tập Ðại hội để đề xuất những điều luật sửa đổi; cả trong hai trường hợp chúng đều
có hiệu lực như một bộ phận của Hiến pháp khi được phê chuẩn bởi các cơ quan
lập pháp của ba phần tư các bang, hoặc bởi Ðại hội của ba phần tư các bang,
theo một thể thức phê chuẩn được đề nghị bởi Quốc hội
với điều kiện là không một điều luật sửa đổi nào
có thể được đề xuất trước năm 1808 theo một cách thức ảnh hưởng đến đoạn 1 và
đoạn 4 trong khoản 9 của Ðiều luật I; và không một bang nào, nếu bản thân không
đồng ý, lại có thể bị tước đoạt quyền bỏ phiếu bình đẳng trong Thượng Nghị
viện.
CHÚ THÍCH:
Hiến pháp có thể được đề nghị sửa đổi
nếu có hai phần ba phiếu bầu của mỗi viện trong Quốc hội hoặc nếu có một hội
nghị quốc gia được triệu tập bởi Quốc hội theo yêu cầu của hai phần ba các
bang. Để trở thành một phần của Hiến pháp, các Điều luật Bổ sung Sửa đổi phải
được thông qua (phê chuẩn) bởi các cơ quan lập pháp hoặc các hội nghị trong ba
phần tư các bang.
Ý tưởng của những người soạn thảo
Hiến pháp là thiết lập điều luật này nhằm gây khó khăn cho việc thông qua một
Điều luật Bổ sung Sửa đổi. Quốc hội đã xem xét hơn 9.000 Điều luật Bổ sung
Sửa đổi nhưng chỉ đề xuất 33 bản và đệ trình cho các bang. Trong số này, chỉ có
27 Điều luật Bổ sung Sửa đổi được phê
chuẩn. Chỉ có một Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 21 được phê chuẩn bởi các hội
nghị ở các bang. Tất cả các Điều luật Bổ sung Sửa đổi khác đều được phê chuẩn
bởi các cơ quan lập pháp ở các bang.
Hiến pháp không giới hạn thời gian
quy định các bang phê chuẩn một Điều luật Bổ sung Sửa đổi được đề xuất. Tuy
nhiên, tòa án quy định rằng các Điều luật Bổ sung Sửa đổi phải được thông qua
trong một “thời gian hợp lý” và Quốc hội phải quyết định thời gian hợp lý như
thế nào, như trường hợp xảy ra khi Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 27 ngày 07
Tháng Năm 1992 được phép ban hành – hơn 202 năm sau khi được đề xuất. Từ đầu
những năm 1900, hầu hết các Điều luật Bổ sung Sửa đổi được đề xuất đều yêu cầu
phê chuẩn trong vòng bảy năm.
Ðiều luật VI
CÁC KHOẢN NỢ
QUỐC GIA
(1) Mọi khoản nợ đã được ký kết và những cam kết có trước khi thông qua Hiến pháp này
vẫn có hiệu lực đối với Liên bang được thành lập trong khuôn khổ Hiến pháp này
cũng như đối với Liên minh cũ.
CHÚ THÍCH:
Phần này cam kết rằng tất cả các
khoản nợ và các nghĩa vụ Mỹ thực hiện trước khi ban hành Hiến pháp này sẽ được
tôn trọng.
QUYỀN TỐI CAO
CỦA CHÍNH PHỦ QUỐC GIA
(2) Hiến pháp này, các đạo luật của Mỹ được
ban hành theo Hiến pháp này, mọi điều ước đã hoặc sẽ được ký kết dưới thẩm
quyền của Mỹ sẽ là luật tối cao của quốc gia. Quan tòa ở các bang đều phải tuân
theo những luật này; bất cứ một điều gì trong Hiến pháp hoặc luật của các bang
mà trái ngược với Hiến pháp Liên bang đều không có giá trị.
CHÚ THÍCH:
Phần này, được xem là điều khoản tối
cao, được gọi là then chốt của Hiến pháp – tức là phần giữ cho toàn bộ kết cấu
ổn định nguyên vẹn. Nó đơn giản nghĩa là nếu các đạo luật của bang mà xung đột
với các đạo luật của quốc gia thì các đạo luật của quốc gia có hiệu lực cao
hơn. Nó cũng có nghĩa là các đạo luật của quốc gia muốn có hiệu lực phải phù
hợp với Hiến pháp.
(3) Các Thượng Nghị sỹ và Hạ Nghị sỹ, các
thành viên của cơ quan lập pháp ở các bang, các
quan chức trong cơ quan hành pháp của cả Liên
bang lẫn tiểu bang đều phải tuyên thệ hoặc xác nhận sự ủng hộ Hiến pháp này.
Nhưng không một điều kiện tôn giáo nào bị coi là bắt buộc như tiêu chuẩn để bổ
nhiệm vào các chức vụ, công sở của Mỹ.
CHÚ THÍCH:
Phần này yêu cầu các quan chức của
bang và liên bang phải tuyệt đối trung thành đối với Hiến pháp của Mỹ chứ không
phải hiến pháp của bất kỳ bang nào. Phần này
cũng nghiêm cấm bất cứ hình thức kiểm tra tín ngưỡng nào có mục đích xem xét
việc trao quyền cho các quan chức liên bang. Điều khoản này chỉ áp dụng đối với
chính quyền quốc gia, tuy nhiên Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 14 áp dụng cùng
một nguyên tắc này đối với các chính quyền bang và địa phương.
Ðiều luật VII
PHÊ CHUẨN HIẾN
PHÁP
Việc các đại hội của 9 bang phê chuẩn là đủ
điều kiện để thiết lập hiến pháp giữa các bang (vốn cũng tham gia phê chuẩn
Hiến pháp này).
(Tuyên bố sau
đây cho thấy những sửa chữa của người sao chép đối với tài liệu gốc).
Từ “the” viết xen vào giữa dòng thứ bảy và
thứ tám của trang thứ nhất, từ “thirty” được viết một phần vào phần xóa bỏ
trong dòng thứ 15 của trang thứ nhất, từ “is tried” được viết xen vào giữa dòng
thứ 32 và 33 của trang thứ nhất và từ “the” được viết xen vào giữa dòng thứ 43
và 44 của trang thứ hai.
–– Thư ký William Jackson chứng thực.
Hiến pháp được nhất trí thông qua bởi đại biểu các bang có mặt trong Đại
hội Lập hiến vào ngày 17 Tháng Chín 1787 Thiên Chúa Giáng sinh, vào năm độc lập
thứ 12 của Mỹ. Ðể chứng thực, chúng tôi có mặt tại đây đồng ý và ký tên.
Go.
Washington – Tổng thống, Ðại biểu Bang Virginia
Bang Delaware
Geo. Read
Gunning Bedford Jun
John Dickinson
Richard Bassett
Jaco. Broom
Bang Maryland
James McHenry
Dan Of St Thos.
Jenifer
Danl Carroll
Bang Virginia
John Blair –
James Madison
Jr.
Bang Bắc
Carolina
Wm. Blount
Richd. Dobbs
Spaight
Hu. Williamson
Bang Nam Carolina
J. Rutledge
Charles
Cotesworth Pinckney
Charles Pinckney
Pierce Butler
Bang Georgia
William Few
Abr. Baldwin
Bang New Hampshire
John Langdon
Nicholas Gilman
Bang Massachusetts
Nathaniel Gorham
Rufus King
Bang Connecticut
Wm. Saml.
Johnson
Roger Sherman
Bang New York
Alexander
Hamilton
Bang New Jersey
Wil. Livingston
David Brearley
Wm. Paterson
Jona. Dayton
Bang Pennsylvania
B. Franklin
Thomas Mifflin
Robt. Morris
Geo. Clymer
Thos. Fitzsimons
Jared Ingersoll
James Wilson
Gouv. Morris.
(Trích dẫn từ “Ấn
phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Mỹ, Tháng Bảy 2004. Bản
dịch của Sứ quán Mỹ tại Việt nam”).
II. PHÊ CHUẨN HIẾN PHÁP.
Chưa đầy ba tháng sau
khi ký kết Hiến pháp, Delaware
trở thành bang đầu tiên phê chuẩn Hiến pháp vào ngày 07 Tháng Chạp 1787. New Hampshire là bang
thứ chín, và Hiến pháp có hiệu lực từ ngày 21 Tháng Bảy 1788. Nhưng những Nhà
Sáng lập không thể chắc chắn rằng Hiến pháp được chấp nhận rộng rãi cho đến khi
những bang quan trọng là New York và Virginia phê chuẩn nó.
Sự chống đối mạnh mẽ có tổ chức chống lại Hiến pháp đã hình thành ở hai bang
này và các bang khác. Những người như Elbridge Gerry, Patrick Henry, Richard
Henry Lee và George Mason đã lên tiếng phản đối việc phê chuẩn.
Những người chỉ trích phản
đối việc không đưa Tuyên ngôn Về Nhân quyền vào Hiến pháp, Tổng
thống có quá nhiều sự độc lập, và Thượng Nghị viện quá nặng về tính chất quý tộc. Họ cũng cho rằng Quốc
hội có quá nhiều quyền và chính quyền quốc gia có quá nhiều quyền lực. Những
người ủng hộ Hiến pháp thì ủng hộ việc phê chuẩn. Họ được biết đến là những người theo Chủ nghĩa Liên bang. Những người chống đối
họ được gọi là những người chống Chủ nghĩa
Liên bang.
Hai nhóm này khuếch trương đường lối của mình trên báo chí, bằng các cuốn sách
nhỏ, và trong các cuộc tranh luận tại các hội nghị phê chuẩn. Các nhóm này phát
triển thành những đảng phái chính trị đầu
tiên
ở Mỹ.
(Trích dẫn từ “Ấn
phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Mỹ, Tháng Bảy 2004. Bản
dịch của Sứ quán Mỹ tại Việt nam”).
III. CÁC MÂU THUẪN ĐỐI KHÁNG HOẶC
CÁC YẾU TỐ BÀI TRỪ NHAU TRONG PHIÊN BẢN ĐẦU TIÊN.
A. CÁC MÂU THUẪN ĐỐI KHÁNG BIỂU HIỆN QUA PHÁC THẢO ĐẦU TIÊN.
Thứ Hai, ngày 06 Tháng Tám 1787, Hội nghị Lập hiến
nhóm họp lại sau kỳ nghỉ và nhận được dự thảo đầu tiên về Hiến pháp được đệ trình bởi Ủy ban Chi
tiết. Ðây là văn bản được trình bày rất sáng sủa và hơn
nữa, còn bổ sung thêm một số điều như: “Quốc hội không được ban hành bất cứ loại thuế hoặc phí nào đối với bất kỳ loại hàng hóa nào từ bất
kỳ tiểu bang nào và tất cả các tiểu bang đều phải chấp thuận sự di cư và định
cư của bất kỳ người dân nào từ tiểu bang này sang tiểu bang khác”. John Rutledge, Chủ tịch Ủy ban
Chi tiết, trao cho từng đại biểu
bản dự thảo với 23 điểm được
xếp theo số thứ tự La mã bao gồm 7 trang chữ to dễ đọc, có lề
rộng để các đại biểu có những ghi chú cần thiết. Từ bản thảo này sẽ hình thành Hiến
pháp chính thức sau đó 5 tuần. Hội nghị Lập hiến dự định hoãn lại hai ngày để các đại biểu có thời gian
nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng bị bác bỏ. Các đại biểu chỉ nghỉ ngày hôm đó và hôm
sau lại tiếp tục họp. Khi mà các thành viên bắt đầu xem xét từng điều khoản, thì sự sẵn lòng thỏa hiệp
trước đó lập tức biến mất. Vấn đề gây tranh cãi mạnh mẽ nhất là các quy định về
thương mại. Các tiểu bang miền Nam, nơi xuất khẩu các sản phẩm thô, gạo, thuốc
nhuộm và thuốc lá, lo sợ Quốc hội với các tiểu bang vùng New England (các bang miền Bắc) chiếm đa số có thể
thông qua thuế xuất khẩu và sẽ phá hỏng nền kinh tế của họ. Ðại biểu C. C. Pinckney tuyên bố
rằng: nếu Quốc hội có quyền
lực áp đặt các quy định này thì các tiểu bang miền Nam sẽ chẳng làm được gì,
ngoài việc đứng nhìn các bang miền Bắc. Ngày 21 Tháng Tám, cuộc tranh cãi về thương mại đã dẫn đến
một vấn đề nóng bỏng khác: nô lệ. Khi đại biểu Luther Martin
của tiểu bang Maryland đề xuất một biểu thuế đối với việc nhập khẩu nô lệ, ngay
lập tức, Hội nghị Lập hiến rơi vào một cuộc tranh cãi rất căng thẳng về thể chế nô lệ, về tính đạo
đức của vấn đề này và về mối quan hệ kinh tế với chính phủ mới. Ðại biểu John
Rutledge của tiểu bang Nam Carolina cho rằng tình trạng nô lệ chẳng liên quan gì đến đạo đức, và tuyên bố: “Chỉ riêng lợi ích mới là nguyên tắc điều hành các tiểu bang”. Ðại
biểu Roger Sherman của tiểu bang Connecticut ủng hộ việc từ bỏ vấn đề nhạy cảm này
trước khi nó gây nguy hiểm cho Hội nghị Lập hiến. Ðại biểu George Mason của tiểu bang Virginia thể
hiện mối lo ngại đối với việc nhập
khẩu không hạn chế nô lệ, nhưng sau đó đã nói rằng ông cũng ủng hộ việc liên bang bảo vệ quyền sở hữu đối với các nô lệ đã
có hiện nay. Cái vấn đề lằng nhằng về khả năng can thiệp của liên bang
trong việc buôn bán nô lệ mà Roger Sherman và các đại biểu khác lo sợ sẽ gây chia rẽ mãi mãi giữa các đại
biểu của các bang miền Nam với các bang miền Bắc đã được thu xếp ổn thỏa trong “một sự mặc cả”, như câu ví von của George Mason. Ðể đổi lấy sự ủng hộ của các bang
vùng New England cho việc tiếp tục nhập khẩu nô lệ trong vòng 20 năm, các bang
miền Nam đã chấp nhận một điều khoản quy định rằng để phê chuẩn các dự luật về
thương mại và hàng hải chỉ cần sự chấp thuận của đa số quá bán các phiếu tại
Nghị viện. Ðó là thuận lợi lớn đối với các bang miền Bắc bởi các đạo luật liên
quan đến hàng hải và thương mại, những thế mạnh của miền Bắc, sẽ khó lòng được
phê chuẩn nếu Hiến pháp đòi hỏi phải đủ đa số phiếu tuyệt đối, tức là trên 2/3
phiếu bầu. Sự thỏa hiệp này là một đòn
chí mạng đánh vào
những người đòi bãi bỏ chế độ nô lệ. Sau này, khi công bố kết quả của Hội nghị Lập hiến, những
người đã đấu tranh không mỏi mệt đòi bãi bỏ chế độ nô lệ trên toàn quốc cảm thấy
cực kỳ thất vọng. Họ coi Hội nghị Lập hiến đã phản bội lại những nguyên tắc tự
do cơ bản nhất của con người đã từng được hân hoan
ghi nhận bởi hết thảy dân chúng trong Tuyên ngôn Độc lập trước
đó 11 năm. Nhiều người
coi Hiến pháp này như một thứ văn bản đáng
bị đem đốt đi. Vấn đề rằng Tuyên ngôn Về Nhân quyền có nên được đưa vào Hiến pháp hay
không cũng gây tranh cãi kịch liệt.
Ngày 31 Tháng Tám, George
Mason, người trước đó ba tháng đã viết cho con trai đầy hy vọng về “một công việc kỳ vĩ và lớn lao đang ở ngay
trước mắt cha”, giờ đây, trong một tâm trạng cực kỳ mỏi mệt và thất vọng,
đã buộc phải kêu lên đầy cay đắng rằng “cha
thà chặt cánh tay phải của cha còn hơn ký vào Hiến pháp này”. George Mason cảm thấy cực kỳ thất vọng, khi Hội
nghị Lập hiến đang đổ
hết trách nhiệm gánh vác đất nước cho một chính quyền trung ương khờ khạo, rất
dễ dẫn cả nước Mỹ đến sự sụp đổ. Lo ngại Tuyên
ngôn Về Nhân quyền bảo đảm tự do cá nhân không thể trở thành một phần của Hiến
pháp, George
Mason kêu gọi tổ chức một hội nghị khác xem xét lại toàn bộ việc hình
thành một chính quyền mới. Mặc dù Hội nghị Lập hiến bỏ phiếu bác bỏ hoàn toàn sự vận động của George Mason nhưng những người chống đối Hiến pháp vẫn không từ bỏ ý tưởng về một Hội nghị Mới. Trong suốt hai năm sau đó, đề nghị
này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng không đi đến kết quả nào. Tới
những ngày họp cuối cùng, một trong những vấn đề vướng mắc còn lại vẫn chưa
được giải quyết là phương pháp lựa chọn
người đứng đầu cơ quan hành pháp, tức là Tổng
thống. Một loạt đề nghị được đưa
ra xem xét như việc bầu cử trực tiếp bởi người
dân, bởi cơ quan lập pháp của tiểu
bang, bởi thống đốc các tiểu bang
và bởi cơ quan lập pháp liên bang.
Giải pháp cuối cùng được chấp nhận là một
Cử tri Đoàn, một sự thỏa hiệp có vẻ kỳ quặc và lạ
lùng, nhưng lại là một thủ đoạn chính trị
khôn ngoan tuyệt
vời. Các bang lớn đông
dân có sức mạnh nhờ số lượng các đại biểu đông đảo; cơ quan lập pháp tiểu bang
có quyền lựa chọn các Đại Cử
tri; còn Hạ Nghị viện có quyền quyết định Tổng thống trong trường hợp không có
ứng cử viên nào chiếm đa số phiếu. Sau đó, George Mason đã dự đoán rằng cứ
20 lần bầu chọn Tổng thống có lẽ sẽ có tới 19 lần Hạ Nghị viện sẽ phải bỏ phiếu quyết định cuối cùng.
(Trích dẫn từ “Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào?”
được biên soạn bởi Nguyễn Cảnh Bình.
Nhà xuất bản Tri thức, Hà nội 2009, từ trang 36 đến trang 39).
B. CÁC MÂU THUẪN ĐỐI KHÁNG BIỂU HIỆN QUA VẬN DỤNG THỰC TẾ.
1. Các yếu tố dân chủ hoặc tính chất cộng hòa.
a. Quy chế phân lập tam quyền.
Một Hiến pháp
thật sự có giá trị dân chủ phải quy định ít nhất ba thiết chế cơ bản: 1/ Nhà nước dân chủ phải được tổ chức theo quy chế phân lập tam quyền, theo đó nhà
nước này phải được phân chia thành ba
cơ quan khác nhau để thực hiện độc lập ba
loại quyền lực tương ứng: cơ quan lập pháp thực hiện quyền lực lập pháp, cơ
quan hành pháp thực hiện quyền lực hành pháp và cơ quan tư pháp thực hiện quyền
lực tư pháp; sự phân chia quyền lực như vậy làm cho các nhà cầm quyền không thể
lạm dụng được quyền lực nhà nước; 2/ Nhà nước dân chủ phải được làm chủ theo nguyên tắc đa nguyên bình đẳng bởi toàn thể nhân dân, theo đó nhà nước này
phải bị kiểm sát chặt chẽ bởi nhiều tổ
chức độc lập để ngăn ngừa các điều
luật bất công dẫn đến tai hoạ cho dân chúng, cũng như phương tiện giao thông phải có phanh hãm thật tốt để phòng tránh tai nạn giao thông; 3/ Nhà
nước dân chủ phải được bảo tồn theo chế
độ bầu cử tự do hoặc phải hoạt động theo nhiệm kỳ; sau mỗi nhiệm kỳ nhất định, nhà nước này phải thay đổi nhân sự thông qua bầu cử tự do, theo đó mọi cá nhân đều
phải được tham gia lựa chọn những người có cả tài năng lẫn đức hạnh làm người
lãnh đạo đồng thời cũng đều phải được ứng cử làm người lãnh đạo, nhưng chỉ được
ứng cử vào một trong ba cơ quan khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, nếu
ứng cử vào cơ quan này thì không được ứng cử vào hai cơ quan kia hoặc nếu đắc
cử vào cơ quan này thì phải từ bỏ chức vụ ở hai cơ quan kia để người đắc cử chỉ
nắm được một trong ba loại quyền lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quy
chế phân lập tam quyền ngăn ngừa được các nhà cầm quyền lạm dụng quyền lực nhà
nước. Nguyên tắc đa nguyên bình đẳng bảo đảm cho nhân dân làm chủ được các nhà
cầm quyền. Chế độ bầu cử tự do làm cho nhà nước dân chủ phải phụ thuộc vào nhân
dân mà phục vụ nhân dân; chế độ bầu cử đó phải tuân thủ cả quy chế phân lập tam
quyền lẫn nguyên tắc đa nguyên bình đẳng để thực hiện được triệt để cả hai
thiết chế đó, tức là ba điều kiện đó bổ sung cho nhau đồng thời cùng nhau bảo
tồn pháp luật 13).
Giá trị dân chủ
trong phiên bản đầu tiên đã thể hiện tổng
thể qua ba điều luật đầu tiên (I,
II và III) quy định sự phân chia quyền lực giữa ba cơ quan khác nhau hợp thành
nhà nước dân chủ, tức là nhà nước dân chủ phải được tổ chức theo quy chế phân
lập tam quyền. Sự độc lập về nhân sự giữa ba cơ quan khác nhau hợp thành nhà
nước dân chủ được thể hiện rõ ràng qua Điều luật I, khoản 6, mục 2, quy định
rằng: “Trong
thời gian được bầu làm Thượng Nghị sỹ hoặc Hạ Nghị sỹ, không một ai sẽ được bổ
nhiệm vào một chức vụ dân sự trong chính quyền Mỹ. Trong thời gian đó tiền
lương của họ sẽ không bị giảm và không một ai đang đảm nhiệm một chức vụ dân sự
nào trong chính quyền Mỹ được bầu vào Quốc hội”. Mục này đã được chú
thích như sau: “Những điều khoản này ngăn không cho các thành
viên Quốc hội tạo ra các công việc mà có thể họ sẽ được bổ nhiệm sau này, hay
khi đang phục vụ trong Quốc hội thì không được tăng lương của những công việc
mà họ hy vọng sẽ đảm nhận trong tương lai, và không được giữ chức vụ khác trong
các ngành khác của chính phủ. Năm 1909, Thượng Nghị sỹ Philander C. Knox rút
khỏi Thượng Nghị viện để trở thành Ngoại trưởng. Nhưng lương của Ngoại trưởng
đã được tăng khi Knox còn làm Thượng Nghị sỹ. Để ông Knox chấp nhận chức vụ
mới, Quốc hội đã không tăng lương trong thời gian còn lại cho nhiệm kỳ của ông
Knox”.
Tuy nhiên, quy
chế phân lập tam quyền ở đây vẫn thiên lệch về tính chất quý tộc trong lĩnh
vực tư pháp, theo đó Thượng Nghị viện
xét xử các quan chức nhà nước có dấu hiệu vi phạm pháp luật, kể cả những người làm Thẩm phán có dấu hiệu đó,
với án phạt nhẹ hơn so với án phạt
được dành cho các công dân bình thường
vi phạm pháp luật; còn Toà án xét xử các
công dân bình thường có dấu hiệu vi phạm pháp luật với án phạt nặng hơn so với án phạt được dành cho các quan chức nhà nước vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, quan hệ tư pháp giữa Toà án với
Thượng Nghị viện cũng có vấn đề nghiêm trọng, theo đó người làm Thượng Nghị
sỹ nếu phạm trọng tội thì sau khi bị
cách chức vẫn còn có thể bị xét xử bởi Toà án, tức là hai cơ quan đó có thể xét xử lẫn nhau, làm cho khó mà tránh khỏi sự liên kết bất chính giữa hai cơ quan
đó biểu hiện cụ thể qua việc để lọt tội phạm. Đó có lẽ là nguyên nhân sâu xa đã dẫn đến bảy vụ xét xử kỳ quặc trong lịch sử của
nước Mỹ: “Thượng Nghị viện đã kết tội bảy
người, tất cả họ đều làm thẩm phán.
Tất cả những người này đã bị cách chức,
nhưng chỉ có hai trong số này không được
giữ bất kỳ chức vụ liên bang nào” (xem chú
thích cho mục 7 thuộc về khoản 3 trong Điều luật I vốn quy định rằng: “Mức án áp dụng trong những vụ buộc tội này
không vượt quá sự cách chức và tước quyền của bị cáo đang đảm nhận một chức
tước danh dự, có lợi tức hoặc có lợi lộc trong chính quyền Hợp chúng Quốc, tuy
vậy họ vẫn có thể bị truy tố, xét xử, kết án và trừng phạt theo luật định”).
Nếu không có nguyên tắc đa nguyên bình đẳng
trong phiên bản thứ hai hình thành từ năm 1789 đến năm 1791 thì mối quan hệ
tư pháp như vậy giữa Toà án với Thượng Nghị viện chắc chắn sẽ còn dẫn đến nhiều hậu quả khôn lường. Sự thể này đã
cho thấy một sự thật quan trọng: nguyên
tắc đa nguyên bình đẳng có vai trò quan trọng hơn so với quy chế phân lập tam
quyền cũng như quy chế phân lập tam
quyền trong Hiến pháp Mỹ vẫn chưa được thực hiện triệt để. Chính vì Hiến
pháp Mỹ phải có nguyên tắc đa nguyên bình đẳng từ năm 1791 (phiên bản thứ hai) đến nay nên quy chế
phân lập tam quyền mới được thực hiện triệt để, đồng thời cho phép nhân dân Mỹ
dựa vào đó mà lựa chọn được những công dân ưu tú có tài đức ngày càng cao vào
chính quyền để càng về sau càng tránh được các vụ xét xử kỳ quặc.
Thế nhưng, thật
đáng tiếc, phiên bản đầu tiên còn thiếu vắng hẳn cả thiết chế thứ hai (nguyên
tắc đa nguyên bình đẳng) vốn cần thiết
nhất cho chính thể dân chủ.
Hơn nữa, tiết 3 trong tiểu mục này
sẽ chứng minh được rằng, thiết chế thứ ba (chế độ bầu cử tự do) trong
phiên bản này chưa được hoàn chỉnh, theo đó quyền
ứng cử bị cắt xén triệt để theo quyền
bầu cử vốn chỉ được trao cho Đại Cử
tri.
b. Chi trả thù lao cho quan chức nhà nước.
Thoạt tiên,
việc chi trả thù lao cho quan chức nhà nước có vẻ đơn giản hoặc không có ý
nghĩa gì về mặt chính trị nhưng thực
chất lại có ý nghĩa quan trọng đặc biệt
về mặt đó. Nếu không chi trả thù lao cho quan chức nhà nước thì chắc chắn chỉ
có các nhà giàu mới dám ứng cử để làm quan chức nhà nước làm cho quyền lực nhà
nước chỉ thuộc về các nhà giàu mà thôi. Như vậy dân chủ chỉ tồn tại trên danh
nghĩa. Trên danh nghĩa, nhà giàu không nhận thù lao theo pháp luật quy định
không chi trả thù lao cho quan chức nhà nước, nhưng với bản tính vị kỷ: ích kỷ,
tư lợi và tham lam, như mọi cá nhân khác,
họ sẽ dùng cả quyền lực nhà nước lẫn tài sản tư nhân để cướp bóc kiệt quệ nhà nghèo, làm cho bất công xã hội càng trầm
trọng hơn nữa rồi đẩy xã hội vào tình trạng chiến tranh giữa nhà giàu với nhà
nghèo. Vậy muốn bảo đảm công bằng xã hội, Hiến pháp phải quy định chi trả thù
lao cho quan chức nhà nước để nhà nghèo cũng có thể trở thành quan chức nhà
nước như nhà giàu làm cho quyền lực nhà nước luôn luôn thuộc về toàn thể nhân
dân. Hiến pháp Mỹ đã thỏa mãn được yêu cầu này ngay trong phiên bản đầu tiên.
Giá trị dân chủ trong phiên bản này đã thể hiện rõ ràng qua Điều luật I, khoản
6, mục 1; Điều luật II, khoản 1, mục 7; Điều luật III, khoản 1. Tuy nhiên, thù
lao được chi trả như thế nào lại là một vấn đề khác vốn chưa có câu trả lời
chính xác trong phiên bản này, mặc dù James
Madison (1751 – 1836) đã đề xuất được câu trả lời đó rồi được thông qua vào
năm 1789 bởi Nghị viện Mỹ nhưng lại bị bác bỏ bởi hầu hết các bang ở Mỹ. Mãi
đến ngày 07 Tháng Năm 1992 mới được phê chuẩn có hiệu lực thành Điều luật Bổ
sung Sửa đổi thứ 27 bởi 38 bang cần thiết theo Hiến pháp Mỹ quy định bằng Điều
luật V 14).
c. Quyền ứng cử.
Quyền ứng cử là
một trong các quyền quan trọng nhất trong chính thể dân chủ. Phiên bản đầu tiên
đã quy định quyền ứng cử được trao cho mọi
cá nhân mà không phân biệt về bất cứ
phương diện nào làm cho bất cứ cá nhân nào chỉ cần có cả tài năng lẫn đức
hạnh cũng có thể được bầu chọn làm quan chức nhà nước. Ý kiến này có thể bị bác
bỏ thẳng thừng bởi một thực tế hiển nhiên rằng, suốt nhiều năm trước khi có
phiên bản hoàn chỉnh cho Hiến pháp Mỹ, nước Mỹ chưa thực thi được đầy đủ quyền
này khiến ít người nghèo hoặc người da màu được bầu chọn làm quan chức nhà
nước. Nhưng lỗi đó không thuộc về quyền ứng cử mà chỉ thuộc về quyền bầu cử vốn chỉ được quy định mập mờ trong Hiến pháp Mỹ làm cho quyền ứng cử bị
cắt xén nhiều.
2. Các yếu tố nửa vời hoặc tính chất quý tộc.
a. Đại Cử tri.
Không một hiến pháp nào lại có một khái niệm kỳ cục như Đại
Cử tri trong Hiến pháp Mỹ. Đại Cử tri là một khái niệm mù mờ nhất được diễn
dịch như thế nào phụ thuộc hoàn toàn vào chủ
thể vận dụng theo xu hướng nào
nhằm mục đích nào trong hoàn cảnh nào. Ngay tại thời điểm hoàn
tất phiên bản đầu tiên, Đại Cử tri chỉ bao hàm các nhà giàu da trắng vốn chỉ chiếm một số ít trong xã hội Mỹ mà thôi. Nó
loại trừ hoàn toàn cả nô lệ, người nghèo, người da màu, v. v.. Đó chính là
nguyên nhân sâu xa nhất làm cho quyền ứng cử bị cắt xén triệt để. Các nhà giàu
da trắng sẽ chỉ bỏ phiếu bầu chọn cho những người đồng đẳng với mình làm quan
chức nhà nước mà thôi, làm cho quyền ứng cử chỉ thuộc về các nhà giàu da trắng.
Mặc dù có thể có nhiều thành phần khác
nhau tham gia ứng cử nhưng vì quyền bầu cử chỉ thuộc về các nhà giàu da
trắng nên quyền ứng cử bị lôi cuốn theo quyền bầu cử để rồi bị tập trung cả vào
các nhà giàu da trắng. Nói chung, quyền ứng cử luôn luôn thống nhất với quyền
bầu cử: nếu quyền này được bảo đảm cho mọi cá nhân thì quyền kia cũng phải được
bảo đảm cho mọi cá nhân mới bảo đảm sự cân bằng quyền lực trong xã hội, cũng
như phải vỗ tay bằng cả hai bàn tay
mới tạo nên tiếng vỗ; hoặc ngược lại,
nếu quyền này bị cắt xén hoặc chỉ được trao cho một số ít người thì quyền kia
cũng bị cắt xén hoặc cũng chỉ được trao cho một số ít người làm cho sự xiêu
lệch quyền lực trong xã hội càng trầm trọng hơn nữa mà không thể bảo đảm sự cân
bằng quyền lực trong xã hội, cũng như vỗ tay bằng một bàn tay sẽ không thể tạo
nên tiếng vỗ. Đó cũng là lý do quan trọng nhất đã giải thích được chính xác tại
sao nước Mỹ chỉ có hầu hết các nhà giàu da trắng được bầu chọn làm quan chức
nhà nước trong suốt nhiều năm sau khi có Hiến pháp với phiên bản đầu tiên. Phải
mãi đến thế kỷ XX, tình trạng đó mới bị thay đổi.
b. Quyền bầu cử.
Do Đại Cử tri
có tính chất mập mờ như trên nên đương nhiên quyền bầu cử phải bị lạm dụng
triệt để bởi các nhà giàu da trắng vốn chỉ chiếm một số ít trong xã hội Mỹ làm
cho quyền ứng cử ắt phải bị cắt xén tàn nhẫn nhất giống y hệt một chùm nho chín
mọng ngon lành trên giàn cao làm cho những kẻ thấp cổ bé họng không sao với tới
được.
Chính thể dân chủ đòi hỏi phải trao cả quyền
ứng cử lẫn quyền bầu cử cho mọi cá nhân mới bảo đảm cho quyền lực nhà nước
thuộc về mọi cá nhân. Nếu làm khác thì chính thể dân chủ sẽ không thể tồn tại
được. Quả thật, do quyền bầu cử luôn luôn thống nhất với quyền ứng cử cũng như
quyền ứng cử luôn luôn cân bằng với quyền bầu cử nên nếu quyền này mà bị cắt
xén thì quyền kia cũng bị cắt xén: nếu quyền bầu cử được trao cho mọi cá nhân
mà quyền ứng cử lại chỉ được trao cho một số ít cá nhân nào đó thì sẽ làm cho
quyền bầu cử cũng chỉ được trao cho một số ít cá nhân đó rồi làm cho quyền lực
nhà nước chỉ thuộc về một số ít cá nhân đó mà thôi; ngược lại cũng dẫn đến hệ
quả như vậy, nếu quyền ứng cử được trao cho mọi cá nhân mà quyền bầu cử chỉ
được trao cho một số ít cá nhân nào đó thì sẽ làm cho quyền ứng cử cũng chỉ
được trao cho một số ít cá nhân đó rồi làm cho quyền lực nhà nước cũng chỉ
thuộc về một số ít cá nhân đó mà thôi. Tình trạng này chỉ thuộc về chính thể quý tộc mà không thuộc về
chính thể dân chủ.
Với quyền bầu
cử được trao cho Đại Cử tri vốn rất thiếu sót trong phiên bản đầu tiên, Hiến
pháp Mỹ với phiên bản đó đã đặt để nước Mỹ vào chính thể quý tộc chứ không đặt để nước Mỹ vào chính thể dân chủ.
Căn cứ vào phiên bản này, các nhà giàu da trắng ở nước Mỹ sẽ chỉ bầu chọn nhà
giàu da trắng làm quan chức nhà nước, làm cho quyền lực nhà nước chỉ rơi vào
một bộ phận dân chúng ở nước Mỹ mà không thuộc về toàn thể dân chúng ở nước Mỹ.
Việc bổ nhiệm
người làm Thẩm phán cho Toà án cũng có vấn đề quan trọng cần phải được xem xét.
Tổng thống đề cử cho Thượng Nghị viện phê chuẩn. Đó chính là thủ tục chính trị chỉ thuộc về chính thể quý
tộc vốn quy định rằng cơ quan hành pháp phải đề cử cho cơ quan lập pháp lựa
chọn hoặc phê chuẩn, tức là người làm Thẩm phán chỉ được đề cử bởi cơ quan
hành pháp rồi được phê chuẩn bởi cơ quan lập pháp mà không phải được bầu chọn
trực tiếp bởi dân chúng. Tuy nhiên, vì chính thể dân chủ đòi hỏi cơ quan tư
pháp phải độc lập với cả cơ quan lập pháp lẫn cơ quan hành pháp nên Hiến pháp
Mỹ phải quy định Thẩm phán có nhiệm kỳ
bất định tuỳ thuộc vào khả năng làm
việc ở người được bổ nhiệm (nhiệm kỳ
suốt đời) làm cho Thẩm phán hoạt động độc lập với cả Tổng thống lẫn Nghị
viện, tức là quy định này mặc dù bảo đảm tính chất dân chủ cho Hiến pháp Mỹ
nhưng Hiến pháp Mỹ vẫn có thể thiếu vắng
thủ tục quy định bầu chọn trực tiếp
cho cơ quan tư pháp.
c. Thượng Nghị viện.
Phiên bản đầu
tiên quy định tại Điều luật I, khoản 3, mục 1, rằng: “Thượng Nghị viện Mỹ sẽ gồm có hai Thượng Nghị sỹ của mỗi bang [được bầu ra bởi cơ quan lập pháp ở đó] với nhiệm kỳ 6 năm và mỗi Thượng Nghị sỹ sẽ
có một phiếu biểu quyết”. Mục này đã được chú thích như sau: “Đầu
tiên, Hiến pháp quy định rằng cơ quan lập pháp mỗi bang nên chọn hai Thượng
Nghị sỹ của bang đó. Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 17 thay đổi quy định này bằng cách cho phép cử tri mỗi bang được
chọn ra Thượng Nghị sỹ của mình”, tức là trước khi sửa đổi Hiến pháp
vào năm
1913, người làm Thượng Nghị sỹ chỉ được bầu chọn bởi cơ quan lập pháp ở cấp dưới mà không
phải được bầu chọn bởi dân chúng. Quy định này bắt nguồn từ một quan niệm đặc
thù cho tầng lớp quý tộc ở Âu châu vào thời đại trung cổ, tầng lớp này quan niệm rằng Hạ Nghị viện chỉ làm
đại diện cho dân chúng nhưng Thượng Nghị viện phải làm đại diện cho chính quyền (hoặc Hoàng gia) mới bảo đảm được sự cân bằng quyền lực giũa dân chúng
với chính quyền (hoặc Hoàng gia). Đó chính là quan niệm quý tộc về Nghị viện. Về sau, Charles de Secondat Montesquieu (1689 – 1755) ở nước Pháp vào thế kỷ XVIII đã căn cứ vào quan niệm đó mà đưa ra một quan niệm tương tự cho rằng Thượng
Nghị viện phải làm đại diện cho một số ít
người ưu việt về mặt nào đó, như dòng
dõi hoặc tài sản, tức là tầng lớp quý tộc. Đây chính là “quan niệm tư sản” về Nghị viện. Quan
niệm này đương nhiên phải dẫn đến các lý
thuyết cực đoan về cả phân chia giai
cấp lẫn đấu tranh giai cấp cho
phép hậu thế quy chụp võ đoán C. S.
Montesquieu thành triết gia tư sản,
tức là người phát ngôn cho giai cấp tư sản, mặc dù sự thật không phải như vậy. Sự thật cho thấy C. S. Montesquieu chỉ
mong muốn thiết lập một trật tự công bằng nhằm bảo đảm sự cân bằng quyền lực
giữa các thành phần khác nhau trong xã hội. Hơn nữa, sự thật cũng cho thấy rằng
cả tầng lớp quý tộc lẫn C. S. Montesquieu đều không hề biết
quyền lực lập pháp bao hàm cả quyền lực hành pháp lẫn quyền lực tư pháp làm cho
cơ quan lập pháp phải bị phân chia thành hai thiết chế khác nhau: Thượng Nghị
viện phân biệt với Hạ Nghị viện, đòi hỏi cả hai thiết chế đó đều phải làm đại
diện cho toàn thể nhân dân. Sự thật này làm nên quan niệm khoa học hoặc quan
niệm dân chủ về Nghị viện.
Thật đáng tiếc
rằng: phiên bản đầu tiên không dựa vào quan niệm khoa học đồng thời cũng không
dựa vào quan niệm tư sản mà chỉ dựa vào quan
niệm quý tộc. Đó cũng chính là lý do đích thực làm cho phiên bản này đã bị
chống đối dữ dội bởi những người chủ trương Tuyên
ngôn Về Nhân quyền. Cũng chính lý do đó đã làm cho Hiến pháp Mỹ bị quy kết chính xác thành một văn kiện pháp
lý chỉ thể hiện ý chí cho giai cấp tư sản trong suốt thế kỷ XIX 15). Mãi đến đầu thế kỷ XX, vào năm 1913,
sau khi sửa đổi mục này làm cho Thượng
Nghị viện phải làm đại diện cho dân chúng, Hiến pháp Mỹ mới có
thể loại bỏ được yếu tố nửa vời hoặc tính chất quý tộc cho Thượng Nghị
viện. Tuy nhiên, nếu Thượng Nghị viện cũng phải làm đại diện cho
dân chúng theo đúng nguyên tắc dân chủ y như Hạ Nghị viện phải làm đại diện
cho dân chúng theo đúng nguyên tắc đó
thì tại
sao Thượng Nghị viện lại không có số lượng thành viên tỷ lệ thuận
với dân số cho các khu vực dân cư khác nhau như Hạ Nghị viện có số
lượng thành viên tỷ lệ thuận với dân số cho các khu vực dân cư khác nhau mà chỉ
có số lượng thành viên bằng nhau cho các khu vực dân cư khác nhau? Đây
chính là một vấn đề thú vị nhất cần phải được đặt ra cho Hiến
pháp Mỹ về tư tưởng hoặc nhận thức! Theo vấn đề đó, việc phân
chia cơ quan lập pháp thành hai thiết chế khác nhau: Thượng Nghị viện phân biệt
với Hạ Nghị viện, phải tuân theo quan niệm nào về cơ quan lập pháp?
Nếu tuân theo quan niệm quý tộc hoặc quan niệm tư sản thì phải chấp nhận Kế
hoạch New Jersey .
Nếu tuân theo quan niệm khoa học hoặc quan niệm dân chủ thì phải chấp nhận
Kế
hoạch Virginia .
Nhưng cả hai kế hoạch đó đều chỉ được
chấp nhận một nửa đồng thời đều chỉ
bị bác bỏ một nửa hoặc được định đoạt bởi Thỏa hiệp Connecticut hoặc Đại Thỏa hiệp, theo đó Kế
hoạch Virginia chỉ được áp dụng cho Hạ Nghị viện cũng như Kế
hoạch New Jersey chỉ được áp dụng cho Thượng Nghị viện làm cho Thượng
Nghị viện dù có tất cả các thành viên được bầu chọn trực tiếp bởi dân chúng từ
năm 1913 đến nay vẫn nghiêng về tính chất quý tộc nhiều hơn nghiêng về tính
chất dân chủ. Hệ quả này dẫn đến một vấn đề khác: Thỏa hiệp Connecticut hoặc Đại
Thỏa hiệp có
chính đáng hay không chính đáng? Sự xung đột giữa Kế
hoạch Virginia với Kế hoạch New Jersey có nhất thiết hay không nhất thiết phải dẫn đến thoả hiệp
đó? Thoả hiệp đó có thể thích hợp với Chính quyền Mỹ nhưng liệu có
thích hợp hay không thích hợp với các
chính quyền khác? Nếu cần phải thiết lập một chính quyền khác thật
sự dân chủ mà bao trùm cả Chính quyền Mỹ như một bộ phận cấu thành trong
chính quyền đó thì Thượng Nghị viện thuộc về chính quyền đó sẽ lựa chọn Kế hoạch New Jersey hay sẽ lựa chọn Kế hoạch Virginia ?
3. Các yếu tố chuyên chế hoặc tính chất độc đoán.
a. Hình thức thể hiện.
Với các mâu
thuẫn đối kháng được trình bày trên đây, Hiến pháp Mỹ với phiên bản đầu tiên
chắc chắn phải có các yếu tố chuyên chế hoặc tính chất độc đoán nhưng các yếu
tố này không hề thể hiện lộ liễu qua bất cứ một câu chữ nào trong phiên bản đó
mà chỉ thể hiện ẩn ngầm qua hệ quả thực
tế từ việc vận dụng phiên bản đó mà thôi. Đó là tình trạng nô lệ cho người da màu trên khắp nước Mỹ cùng với quyền
lực chuyên chế của chính quyền liên bang thể hiện qua sự bất lực kéo dài của
chính quyền đó đối với tình trạng lạm dụng phát triển lan tràn ở một số bang
không muốn bãi bỏ chế độ nô lệ được áp đặt cho người da đen.
b. Công dân ở đâu?
Với phiên bản
đầu tiên, Hiến pháp Mỹ chỉ quy định cả quyền lẫn nghĩa vụ cho chính quyền mà
không hề nhắc đến cả quyền lẫn nghĩa vụ cho công dân làm cho công dân chỉ thể hiện leo lét qua Điều luật IV, khoản
2 bao gồm ba mục. Mục 1 quy định rằng: “Công dân của mỗi
bang sẽ được hưởng mọi đặc quyền và quyền bất khả xâm phạm như công dân của các
bang khác”. Mục này được chú thích như sau: “Quy định
này có nghĩa là các công dân đi lại giữa các bang có quyền được hưởng tất cả
các đặc quyền và sự miễn trừ được tự động áp dụng với công dân của các bang đó.
Một vài đặc quyền như quyền bầu cử không được tự động áp dụng đối với quyền
công dân mà yêu cầu một thời gian cư trú và có thể các tiêu chí khác nữa. Từ “công dân” trong điều khoản này không bao gồm các tập đoàn”. Mục 2 quy định rằng: “Cá nhân bị truy tố
về tội phản quốc, trọng tội hoặc một tội nào khác mà trốn tránh pháp luật và bị
tìm thấy ở một bang khác, thì theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của bang
mà người đó chạy trốn, sẽ bị trao trả lại và dẫn độ về bang có thẩm quyền xét
xử”. Mục này được chú thích như sau: “Nếu một người phạm tội tại một
bang và chạy trốn sang bang khác, thống đốc của bang nơi phạm nhân đó thực hiện
hành vi phạm tội có thể yêu cầu trao trả kẻ chạy trốn đó. Quá trình trao trả
một người bị buộc tội được gọi là dẫn độ. Trong một vài trường hợp, một thống
đốc có thể từ chối dẫn độ. Thống đốc có thể làm như vậy do việc phạm tội đã
cách đây nhiều năm, hoặc do ông ta hoặc bà ta tin rằng người bị buộc tội có thể
đã không được xét xử công bằng tại bang kia”. Mục 3 quy định rằng “[Không một cá nhân nào vốn bị giam cầm, quản thúc, khổ sai ở
một bang chạy trốn sang một bang khác lại có thể dựa vào luật lệ và quy chế ở
địa phương mới để trốn tránh những hình phạt nói trên, ngược lại cá nhân đó
phải được trao trả lại theo yêu cầu của bên mà cá nhân đó buộc phải làm việc và
lao động]”. Mục này được chú thích như sau: “Một “người được giữ để phục vụ hoặc lao động” là một nô lệ hoặc một nô bộc khế ước (một người bị ràng buộc bởi một hợp đồng phục vụ cho một ai đó trong
nhiều năm). Hiện tại không một ai tại
Mỹ bị ràng buộc vào tình trạng nô lệ, do vậy phần này của Hiến pháp đã được
loại bỏ trong Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ 13 và hiện không còn hiệu lực”.
Quả thật, do có mâu thuẫn đối kháng
nên theo logic vận hành trong phiên bản này, “công dân” sẽ không có quyền gì hết ngoài các nghĩa vụ bắt buộc đối
với chính quyền để rồi vẫn chỉ làm nô lệ hoặc thần dân cho chính quyền mà thôi,
nếu không làm nô lệ hoặc thần dân cho chính quyền thì ít nhất cũng làm nô lệ
hoặc thần dân cho một số ít nhà giàu da
trắng được quy định thành công dân
theo phiên bản đó. Thực tế đã cho thấy người da màu ở nước Mỹ trước khi có
phiên bản hoàn chỉnh cho Hiến pháp đã có một số phận bi đát như vậy. Đó chính
là lý do chính đáng để mục 3 phải bị huỷ bỏ bởi Điều luật Bổ sung Sửa đổi thứ
13.
c. Một thiếu sót nguy hiểm.
Nền tảng cơ bản
nhất cho chính thể dân chủ chính là nguyên
tắc đa nguyên bình đẳng, tức là nguyên
tắc chính trị làm chủ chính quyền đòi hỏi mỗi cá nhân nhất định phải chấp nhận
nhiều quan điểm khác nhau tương ứng với nhiều lợi ích khác nhau thuộc về nhiều
loại người khác nhau cùng tồn tại bình đẳng theo pháp luật, nguyên tắc này
thể hiện trực tiếp qua một hệ thống chính
trị bao gồm nhiều đảng phái khác nhau cùng tồn tại bình đẳng trước pháp luật để
nhân dân làm chủ chính quyền. Nhưng với phiên bản đầu tiên, Hiến
pháp Mỹ đã thiếu vắng hẳn nguyên tắc này. Các nhà lập quốc của nước Mỹ đã suy
nghĩ giản đơn rằng một chính phủ tốt nhất sẽ không nên theo bất kỳ một đảng
phái nào. Thật ra ý nghĩ này chỉ đúng đắn đối với một hệ thống chính trị có
nhiều đảng phái khác nhau cùng tồn tại mà thôi, theo đó chính quyền phải đứng
thẳng theo ý chí chung mà không được
ngả nghiêng theo bất cứ một đảng phái nào. Nhưng đối với một hệ thống chính trị
chỉ có một đảng phái duy nhất tồn tại, một ý nghĩ chân thật như vậy sẽ không có
chỗ an toàn để dung thân 16).
Chính vì có một
thiếu sót nguy hiểm như vậy nên phiên bản đầu tiên đã làm phát sinh một nhu cầu
sâu rộng nhất về sự cần thiết phải có các quy định chắc chắn về công dân, bao
gồm các quyền cơ bản bất khả xâm phạm, đồng thời thiếu sót đó cũng làm cho
phiên bản đầu tiên bị chống đối dữ dội bởi những người chủ trương Tuyên ngôn Về Nhân quyền, đòi hỏi Hiến
pháp phải ghi nhận các quyền cơ bản bất khả xâm phạm cho mọi cá nhân để toàn
thể nhân dân làm chủ được chính quyền hoặc vẫn được sống tự do theo một chính
quyền mạnh mẽ.
Chính vì có mâu thuẫn đối kháng giữa các yếu tố trái
ngược nhau như đã được trình bày ở trên nên phiên bản đầu tiên đã gặp rất nhiều
nguy nan trên con đường đi vào cuộc sống
thực tế. Hiến pháp Mỹ được tạo ra nhằm khắc phục các mâu thuẫn đối kháng
trong cuộc sống thực tế nhưng vì có các mâu thuẫn đối kháng trong bản thân nó
nên chính Hiến pháp Mỹ đã tạo ra lực cản cho chính mình. Lực cản đã xuất hiện
ngay trong quá trình phê chuẩn mà nếu không có tinh thần dân chủ thì Hiến pháp
này chắc chắn đã bị tiêu diệt.
J. B. Hàvăn Huytoàn
(Viêt vào Tháng Sáu 2007)
12) Việc quy định một cá nhân duy nhất đứng
đầu cơ quan hành pháp đã cho thấy Hiến pháp Mỹ dựa trên quan niệm đúng đắn về
quyền lực hành pháp, rằng quyền lực này luôn
luôn cần đến một hành động nhất thời khiến
một người làm ắt phải tốt hơn nhiều người cùng nắm.
13) C. S. Montesquieu đã xác lập được quy
chế phân lập tam quyền nhưng không xác lập thêm hai thiết chế khác, bao gồm cả nguyên
tắc đa nguyên bình đẳng lẫn chế độ
bầu cử tự do, làm điều kiện cần thiết
cho quy chế đó tồn tại. Đó là thiếu sót cơ bản trong triết lý chính trị của
ông.
14) Việc chi trả thù lao cho quan chức nhà
nước đã cho thấy Hiến pháp Mỹ quan niệm rằng quan chức nhà nước chỉ làm thuê
cho dân chúng mà thôi.
15) Chủ nghĩa Marx có giá trị hiện thực với cả chính
thể chuyên chế lẫn chính thể quý tộc
vốn làm cho đối kháng giai cấp gia tăng
trầm trọng thành sự xung đột khốc liệt giữa người với người. Chính thực tại
đó đã cho phép các nhà marxist không chỉ phê phán gay gắt chế độ chuyên chế mà
còn đả kích kịch liệt cả nền dân chủ tư
sản rồi quy kết đúng đắn nền dân chủ đó thành nền chuyên chế giai cấp cho giai
cấp tư sản để giai cấp này thống trị các giai cấp khác. Có thể xác quyết rõ
ràng hơn rằng, chính tính chất nửa vời trong Hiến pháp Mỹ đã trở thành một trong các nguyên nhân sâu xa nhất
làm cho Karl Marx cùng các đồng sự quy kết mọi nhà nước thành công cụ
chính trị cho giai cấp này thống trị
giai cấp khác để rồi họ chủ trương
xoá bỏ mọi nhà nước. Vậy nếu (tôi
xin nhấn mạnh rằng: nếu!) Chủ nghĩa
Marx sai lầm với chủ trương xoá bỏ mọi
nhà nước thì những người thông minh phải biết quy kết một phần trách nhiệm cho tính
chất nửa vời trong Hiến pháp Mỹ
vào thế kỷ XIX!
16) Trước đây dựa vào C. S. Montesquieu, người ta tin tưởng chắc chắn rằng, quy chế phân lập tam quyền làm nền tảng cơ
bản nhất cho chính thể dân chủ, nhưng thực tế đã cho thấy rằng, quy chế phân lập tam quyền chỉ tồn tại được
với ít nhất hai thiết chế khác (bao gồm cả nguyên tắc đa nguyên bình đẳng lẫn chế độ bầu cử tự do) làm điều
kiện cần thiết cho quy chế kia tồn tại. Sự thể này cho thấy thực tế đã vượt qua C. S. Montesquieu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét