Thứ Hai, 17 tháng 12, 2012

CHÍNH THỂ DÂN CHỦ VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Tác giả
I – CHÍNH THỂ DÂN CHỦ QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ĐỜI SỐNG KINH TẾ.

Do chính thể dân chủ xác lập bằng pháp luật sự bình đẳng giữa các cá nhân khác nhau làm cho mỗi cá nhân nhất định phải biểu hiện thành một công dân nên mọi công dân đều được tự do, tự do hành động mà không bị ép buộc phải làm bất cứ việc gì có hại cho mình hoặc có hại cho người khác. Ở đây mỗi công dân được tự do lao động để kiếm sống hoặc được tự do kinh doanh để làm giàu mà không sợ bị bóc lột hoặc bị tước đoạt bởi bất cứ một thế lực nào. Pháp luật bảo vệ nhà giàu khỏi bị cướp bóc đồng thời bảo vệ người nghèo khỏi bị giết chóc, mọi hành vi làm hại người khác đều bị trừng phạt thích đáng bởi pháp luật.
Tự do cá nhân tất yếu phải dẫn đến kinh tế đổi chác hoặc kinh tế hàng hoá: do mỗi cá nhân nhất định cần tiêu dùng nhiều loại sản phẩm khác nhau để kéo dài đời sống nhưng lại chỉ sản xuất được rất ít loại sản phẩm để tự thoả mãn mình nên nhân loại nói chung tất yếu phải sống bằng kinh tế hàng hoá, theo đó các cá nhân khác nhau sản xuất rồi trao đổi với nhau theo quy luật giá trị để được thoả mãn nhu cầu. Ở đây nhờ có chính thể dân chủ bảo đảm tự do cho mình mà tất cả các công dân đều tham gia trao đổi tự do, thuận mua vừa bán, làm cho quy luật giá trị luôn luôn được tuân thủ nghiêm ngặt chặt chẽ, không ai được phép áp đặt giá cả cho ai. Chính thể dân chủ chỉ có hoà bình giữa người với người làm cho quy luật giá trị luôn luôn phát huy được tác dụng tích cực đối với xã hội, tức là kích thích lực lượng sản xuất phát triển đồng thời bảo đảm sự cân bằng xã hội.
Trong chính thể dân chủ, mỗi công dân làm việc cho mình khiến mọi công dân đều làm việc với ý thức mình làm cho mình chứ không phải làm cho người khác. Do có ý thức như vậy nên công dân nào cũng làm việc say mê với thái độ nghiêm túc để đạt được năng suất cao với chất lượng tốt, từ đó họ làm giàu rất dễ dàng, tức là chính thể dân chủ kích thích kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ theo xu hướng vừa lành mạnh vừa nhân đạo. Ở đây bản tính vị kỷ chỉ thúc đẩy người ta làm việc tốt với những hành động vị tha hoặc thúc đẩy người ta ra sức sáng tạo làm cho công nghệ phát triển nhanh chóng, qua đó làm cho lực lượng sản xuất phát triển vừa nhanh chóng vừa mạnh mẽ.
            Do chính thể dân chủ có pháp luật nghiêm minh nên nhất thiết phải phát hành tiền tệ bằng giấy, mà thực tế chính thể này đã kích thích mạnh mẽ việc phát hành tiền tệ bằng giấy, ở đây không một công dân nào dám lạm dụng quyền lực nhà nước để phá hoại lưu thông tiền tệ. Sự thể này bảo đảm cho lưu thông tiền tệ diễn biến tự nhiên theo đúng quy luật giá trị, mỗi đơn vị tiền tệ bằng giấy luôn luôn có giá trị ổn định làm cho đời sống kinh tế cũng luôn luôn ổn định. Pháp luật nghiêm minh giữ được lòng tin khiến người ta tin tưởng mà gửi tiền bạc của mình cho các ngân hàng mà ít khi giữ lại trong nhà, nếu có giữ lại thì chỉ giữ lại rất ít để tiêu dùng hàng ngày.
            Cũng do có pháp luật nghiêm minh nên chính thể dân chủ kích thích tín dụng phát triển mạnh mẽ theo xu hướng lành mạnh, thậm chí chính thể này còn làm cơ sở pháp lý cho chế độ tín dụng tồn tại bền vững nữa kia! Ở đây những người có tài sản sẵn sàng chuyển giao tài sản của mình cho người khác sử dụng để lấy lợi tức mà không lo sợ bị chiếm đoạt mất làm cho các nhà kinh doanh rất dễ dàng thu hút tín dụng để kinh doanh mà làm giàu cho bản thân, tức là ở đây chỉ có tín dụng lành mạnh chứ không có tín dụng lừa đảo, nếu có dấu hiệu lừa đảo trong hoạt động tín dụng thì cũng rất dễ dàng bị ngăn chặn bởi pháp luật nghiêm minh, làm cho việc làm giàu trở nên dễ dàng. Chỉ cần có những ý tưởng vừa mới lạ vừa nhân đạo cũng có thể giúp người ta làm giàu rất dễ dàng. Sự thể này giúp chúng ta hiểu được tại sao các nước dân chủ tự do lại giàu có quá sức tưởng tượng của những thần dân trong chính thể chuyên chế.
Pháp luật nghiêm minh bảo đảm cho người lao động mua được nhiều chứng khoán được phát hành bởi nhiều doanh nghiệp khác nhau, qua đó người lao động lấy lại được một phần hoặc tất cả lao động vật hoá của mình có thể đã bị chiếm hữu bởi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, tức là chính thể dân chủ đã xoá bỏ hoàn toàn các quan hệ tư bản. Vậy về mặt kinh tế, tác dụng tốt đẹp của chính thể dân chủ đã thể hiện ở chính điểm này: nó không chỉ bảo tồn mà còn phát triển cái nguồn gốc quan trọng nhất cho mọi của cải trên đời, nó không chỉ bảo vệ lao động khỏi mọi sự bóc lột mà còn lấy lao động làm đối tượng phục vụ cho mọi hoạt động kinh tế, nó không chỉ can chặn các hoạt động kinh tế phục vụ một số ít người mà còn định hướng cho mọi hoạt động kinh tế vào phục vụ mọi người.
Với hệ thống pháp luật nghiêm minh, chính thể dân chủ làm thay đổi cả phương thức sản xuất; từ các phương thức sản xuất được thực hiện rời rạc hoặc riêng lẻ bởi những người chủ sở hữu tư liệu sản xuất độc lập cạnh tranh với nhau theo nguyên tắc “một mất một còn” hoặc “khôn sốngmống chết” trong chính thể chuyên chế, theo đó mỗi quá trình sản xuất nhất định được thực hiện độc lập bởi một chủ sở hữu nhất định, nền kinh tế chuyển sang phương thức sản xuất được thực hiện phối hợp hoặc hợp tác bởi tất cả các cá nhân khác nhau cùng tham gia quá trình sản xuất làm cho quá trình này phải diễn biến theo xu hướng hợp tác đồng thời làm cho tất cả các cá nhân đó phải hợp tác với nhau hoặc cạnh tranh lành mạnh với nhau, theo đó mỗi quá trình sản xuất nhất định cũng như mọi quá trình sản xuất khác nhau luôn luôn được thực hiện phối hợp bằng cách này hay cách khác bởi tất cả các cá nhân khác nhau. Khi đã làm thay đổi phương thức sản xuất, chính thể dân chủ còn đồng thời làm thay đổi luôn cả phương thức trao đổi, qua đó làm đơn giản hoá quá trình lưu thông để đạt được hiệu quả cao hơn. Một trong những hiện tượng đặc sắc nhất nói lên sự thay đổi vừa to lớn vừa sâu rộng như vậy chính là việc tiêu thụ hàng hoá theo mạng lưới tiêu dùng mở rộng (Network Marketing, v. v.) mà tôi đã đề cập trong quyển thứ nhất, phần thứ tư, chương XII. Trong việc tiêu thụ hàng hoá theo mạng lưới tiêu dùng mở rộng, nhà sản xuất trực tiếp bán hàng hoá cho nhiều người tiêu dùng khác nhau, những người này liên kết với nhau thành một mạng lưới liên tục mở rộng: người tiêu dùng trước giới thiệu với người tiêu dùng sau để hưởng lợi ích bội tăng, mạng lưới tiêu dùng nào càng khôn ngoan sẽ thu được lợi ích càng lớn (chi phí lưu thông được dùng để chi trả thù lao cho việc giới thiệu) theo đúng nguyên tắc tự nhiên làm nền tảng chính trị cho chính thể dân chủ: Tự doBình đẳngBác ái. Nhờ đó mà việc tiêu thụ hàng hoá theo mạng lưới tiêu dùng mở rộng bảo đảm cho sản xuất phát triển bền vững, cho phép lĩnh vực sản xuất làm chủ hoặc chi phối lĩnh vực lưu thông (thị trường) chứ không phải lĩnh vực lưu thông làm chủ hoặc chi phối lĩnh vực sản xuất, tức là chính thể dân chủ đã khôi phục được địa vị làm chủ cho lĩnh vực sản xuất trong toàn bộ đời sống kinh tế, đồng thời nó cũng đẻ ra những người tiêu dùng khôn ngoan, v. v.. Điều tất yếu này đã giải thích được tại sao từ những năm cuối thế kỷ XX đến nay, thế giới đang chuyển biến dần dần từ xu thế đối đầu để gây hấn sang xu thế đối thoại để hợp tác. Nhưng chính việc tiêu thụ hàng hoá theo mạng lưới tiêu dùng mở rộng sẽ ngấm ngầm đục thủng mọi giới hạn nghiệt ngã làm nền tảng vững chắc nhất cho chính thể chuyên chế. Toàn bộ quá trình này sẽ không thể hình dung nổi đối với các nhà marxist!
Nhờ có pháp luật nghiêm minh mà chính thể dân chủ trở nên thích hợp với quy luật giá trị. Nếu trong chế độ chính trị, mọi công dân đều bình đẳng hoặc như nhau trước pháp luật thì trong chế độ kinh tế, mọi cá nhân đều được phán xét như nhau bởi quy luật giá trị. Dù được nắm giữ bởi bất cứ cá nhân nào, hàng hoá vẫn luôn luôn có giá trị cố định. Sự thể này làm cho lưu thông chứng khoán diễn biến tự nhiên theo đúng quy luật giá trị mà không bị biến dạng bởi các nhân tố chính trị, rồi nhờ đó mà phát triển lành mạnh làm cho mọi công dân đều giàu có rất nhanh chóng. Dù các nhân tố chính trị diễn biến như thế nào cũng không ảnh hưởng gì hoặc chỉ ảnh hưởng rất ít đến đời sống kinh tế. Sự tương thích giữa chính thể dân chủ với kinh tế hàng hoá biểu hiện rõ rệt nhất ở chính điểm này! Khác hẳn chính thể chuyên chế, nơi mà đời sống kinh tế diễn biến như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn ngông cuồng của nhà cầm quyền chuyên chế.
Quy luật giá trị tác động làm cho kinh tế hàng hoá vận động theo chu kỳ: tăng trưởng đến một mức độ nhất định sẽ bị suy thoái mà nếu được định hướng bởi chính thể dân chủ thì sẽ né tránh được khủng hoảng. Với một hệ thống pháp luật nghiêm minh, chính thể dân chủ vừa thúc đẩy dân chúng lựa chọn được những người có tài năng làm người lãnh đạo vừa đòi hỏi nhà nước dân chủ phải được lãnh đạo bởi chính những người có tài năng, làm cho nhà nước này hiểu biết được các quy luật kinh tế hoạt động như thế nào, từ đó bắt buộc nhà nước này phải dự trữ tiền tệ thực tế, tức là tiền tệ làm phương tiện lưu thông, bao gồm cả tiền tệ bằng giấy lẫn kim loại quý (vàng hoặc bạc, nhưng vàng có tầm quan trọng hơn), với một khối lượng đủ lớn để đưa vào lưu thông hàng hoá mỗi khi xuất hiện các dấu hiệu cho thấy sắp sửa xảy ra khủng hoảng kinh tế, chính nhờ có tiền tệ thực tế được dự trữ như vậy mà nền kinh tế hàng hoá né tránh được khủng hoảng. Vậy trong chính thể dân chủ, nền kinh tế có thể bị suy thoái nhưng khó có thể hoặc thậm chí không thể bị khủng hoảng. Kết luận này đã được chứng minh rất thực tế bởi lịch sử kinh tế từ năm 1933 đến nay. Vào năm đó, Chính phủ Mỹ đã thiết lập Cục Dự trữ Liên bang (FED) để điều tiết nền kinh tế ở Mỹ; chính nhờ FED mà từ đó đến nay, nền kinh tế ở Mỹ chỉ bị suy thoái mà không bị khủng hoảng như trước đó.
Hệ thống pháp luật nghiêm minh bắt buộc người ta phải khai thác tài nguyên theo một kế hoạch khoa học, nhờ đó mà người ta bảo vệ được tài nguyên đồng thời cũng ngăn ngừa được rất nhiều thiên tai. Chúng ta thấy thiên tai xảy ra rất ít ở các nước dân chủ, trừ các nước dân chủ ở gần các nước chuyên chế đành bị vạ lây mà phải chịu đựng vô số thiệt hại tai ác được gây nên bởi chính các hành động phá hoại xảy ra rất phổ biến ở các nước chuyên chế, vì địa cầu quay xung quanh trục của chính nó trong khi di chuyển xung quanh thái dương nên hành vi phá hoại môi sinh ở các nước chuyên chế sẽ lập tức gây ra những hậu quả hết sức tai ác cho các nước dân chủ. Ví dụ Nhật bản vốn có rất nhiều địa chấn nhưng nhờ khai thác tài nguyên theo các kế hoạch rất khoa học mà đã hạn chế được rất nhiều trận địa chấn hoặc ít nhất cũng né tránh được rất nhiều tai hoạ được gây nên bởi những trận địa chấn khủng khiếp, nhưng nó cũng dễ bị tổn thương bởi các hành động phá hoại môi sinh ở Tàu quốc cũng như Bắc Triều tiên, v. v.. Chính thể dân chủ không chỉ có hoà bình giữa người với người mà còn có cả hoà bình giữa người với thiên nhiên nữa, ở đây nhân loại sống hoà đồng với thiên nhiên khiến việc nuôi thú vật trong nhà (gà, chó, lợn, mèo, chim, v. v.) trở nên rất phổ biến.
Chính thể dân chủ thúc đẩy người ta phải hành xử theo đạo đức, mà đạo đức lại kích thích người ta làm từ thiện đồng thời cũng khuyến khích người ta sống theo nếp sống thanh đạm. Sự thể này đã được chứng minh rất thực tế bởi thực tế đang diễn ra hàng ngày tại các nước dân chủ. Ở đó, người ta thường để lại di sản thừa kế cho tha nhân cũng như nhà nước thường khuyến khích các nhà giàu hoặc các tập đoàn kinh tế lớn thiết lập các Quỹ Từ thiện để giúp đỡ nhà nghèo có ý muốn vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, hoặc dân chúng rất ham thích nếp sống thanh đạm: ở đây, việc tiêu dùng dù có nhiều đến mấy cũng không xa hoa, trái lại việc tiêu dùng nhiều chỉ biểu hiện việc sản xuất nhiều mà thôi. Sản xuất nhiều dẫn đến tiêu dùng nhiều, có thế thôi, mà việc sản xuất nhiều lại chỉ được kích thích bởi chính chính thể dân chủ.
Tóm lại, chính thể dân chủ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển vừa nhanh chóng vừa mạnh mẽ đồng thời làm cho dân chúng giàu có nhanh chóng hoặc rất dễ dàng làm giàu, nó hạn chế hoặc khắc phục sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội làm cho sự phân hoá này không tiến triển thái quá. Do bảo đảm tự do cho cá nhân bằng pháp luật nghiêm minh nên chính thể dân chủ thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ; trước hết nó làm nảy nở nhu cầu, từ đó thúc đẩy mở rộng sự phân công xã hội đồng thời thúc đẩy thương mại phát triển, kích thích việc tích luỹ tài sản tư nhân làm cho nhân dân giàu có nhanh chóng. các nước dân chủ, việc làm giàu không hề khó khăn như ở các nước chuyên chế mặc dù vẫn có bóc lột nhưng chỉ bóc lột có giới hạn, chỉ bóc lột theo tất yếu kinh tế chứ không bóc lột theo tất yếu chính trị, tức là nó loại bỏ sự tước đoạt bằng bạo lực. Vì chỉ đòi hỏi phải có ý chí đồng thời phải loại trừ bạo lực nên chính thể dân chủ loại trừ hoặc hạn chế mọi sự tước đoạt hoặc cướp bóc, nó làm cho cả nhà giàu lẫn nhà nghèo đều được tự do đồng thời đều được bảo đảm an ninh. Nhà giàu được sống an toàn còn nhà nghèo lại được sống vui vẻ.
Bằng những điều luật quy định sự bình đẳng giữa người với người, chính thể dân chủ kích thích người ta sống theo nếp sống thanh đạm. Hệ quả này đã từng được phát hiện rất tự phát bởi C. S. Montesquieu. Trong “Tinh thần Pháp luật”, ông đã viết những dòng tuyệt đẹp như sau:
Đối với nếp sống thanh đạm, muốn yêu mến nó phải có cái gì để hưởng thụ trong nếp sống đó. Vậy nếp sống thanh đạm phải có cái gì để hưởng thụ mới làm cho người ta yêu mến nếp sống đó”, tức là phải có những điều luật thích hợp với chính thể dân chủ.
Thật vậy, trong chính thể dân chủ mọi công dân đều được đối xử như nhau trước pháp luật làm cho mọi công dân đều bình đẳng với nhau về cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ. Điều luật này làm cho mọi công dân đều yêu mến sự bình đẳng, mà yêu mến sự bình đẳng tức là cả nhà giàu lẫn nhà nghèo đều yêu mến nếp sống thanh đạm, ở đây mọi hiện tượng biểu hiện sự xa hoa đều bị lên án.
C. S. Montesquieu lại nói rất đúng rằng: “Mặc dù trong chính thể dân chủ, sự bình đẳng thực tế phải trở thành linh hồn của nhà nước, nhưng thật khó mà thiết lập được chính xác tuyệt đối sự bình đẳng đó. Chỉ cần một cách định mức tương đối để san bằng bớt sự chênh lệch, ví dụ yêu cầu nhà giàu phải đóng góp nhiều hơn nhà nghèo đồng thời phải có chính sách cụ thể để nâng đỡ nhà nghèo. Chỉ những nhà trung lưu mới thoả mãn với chính sách đó, còn những người cực kỳ giàu có mà nếu không được hưởng lợi ích gì hoặc vinh dự hơn người thì họ sẽ nguyền rủa những chính sách đó”. Rằng “mọi sự bất bình đẳng trong chính thể dân chủ đều phải tương đối phù hợp với bản chất của nền dân chủ. Ví dụ những người nào cần có việc làm thường xuyên để không bị nghèo túng quá, họ phải chăm chỉ trong công việc, người thợ cả không được lên mặt kiêu ngạo (...) Như vậy vẫn tồn tại một phần chưa bình đẳng, tồn tại theo lợi ích của nền dân chủ, nhưng đó chỉ là chưa bình đẳng về bề ngoài mà thôi”. Nói như thế tức là C. S. Montesquieu muốn nói rằng: mọi sự bất bình đẳng trong chính thể dân chủ đều phải thể hiện sự bình đẳng chân chính hoặc sự công bằng tất yếu chứ tuyệt đối không được thể hiện sự bình đẳng cực đoan hoặc sự công bằng hình thức, tức là phải loại trừ mọi sự bình đẳng cực đoan cùng với mọi sự công bằng hình thức.
Ở đây, hầu như mọi cá nhân đều thực hiện được như nhau cái tất yếu này: chi phí ít nhất để thu hoạch nhiều nhất! Sự thể này khiến các nhà lãnh đạo ở các nước dân chủ luôn luôn khuyến khích cải cách chính trị ở các nước chuyên chế.

II – CHÍNH THỂ DÂN CHỦ QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ.

Chính thể dân chủ bảo đảm cho mọi công dân đều được tham gia bộ máy nhà nước thông qua chế độ bầu cử tự do, không phân biệt về giới tính, sắc tộc, giai cấp, đảng phái, tư tưởng, v. v., đồng thời đều được kiểm sát bộ máy nhà nước theo nguyên tắc đa nguyên bình đẳng, tức là đều được kiểm sát bộ máy đó thông qua nhiều đảng phái khác nhau hoạt động bình đẳng theo nguyên tắc đa nguyên. Ở đây, không phải ai cũng muốn tham gia bộ máy nhà nước bằng cơ thể của mình đâu, chỉ những người nào có khả năng chỉ dẫn người khác mới ham thích việc đó thôi còn lại đại đa số nhân dân đều tham gia bộ máy nhà nước bằng ý chí của mình. Ý chí của nhân dân được thể hiện qua bầu cử, báo chí, biểu tình, v. v., khiến nhà nước phải tiếp nhận để thực hiện ý chí của họ. Khác hẳn với các nước chuyên chế, nơi mà đa số nhân dân đều ham thích quyền lực nhà nước nhưng chỉ thông qua việc bon chen chui luồn mà kết quả chẳng được bao nhiêu, phần nhiều chỉ nhờ may mắn chứ không phải nhờ tài năng mà đạt được mục đích; khi đã đạt được mục đích rồi, người ta chỉ muốn áp đặt ý chí của mình cho nhân dân mà thôi. Trái lại, ở các nước dân chủ, quyền lực nhà nước luôn luôn thuộc về nhân dân, công dân nào cũng được vận dụng quyền lực đó theo nhiều phương pháp khác nhau tuỳ theo khả năng của mình: nếu có khả năng chỉ dẫn người khác thì tham gia bộ máy nhà nước bằng cơ thể thông qua bầu cử tự do, nếu không có khả năng đó thì tham gia quản lý nhà nước bằng ý chí như đã nói ở trên. Tình hình này khác hẳn chính thể chuyên chế, nơi mà quyền lực nhà nước trở thành một cái gì đó cao vời vợi mà muốn với tới được nhiều khi người ta phải hy sinh cả cuộc đời để bon chen chui luồn. Nếu chính thể chuyên chế chỉ gây nên sự tuyệt vọng cho nhân dân thì trái lại, chính thể dân chủ lại luôn luôn gây nên hy vọng cho nhân dân.
Nguyên tắc đa nguyên bình đẳng biểu hiện thành nhiều đảng phái khác nhau hoạt động bình đẳng theo nguyên tắc đa nguyên làm cho ba cơ quan quyền lực khác nhau cấu thành nhà nước dân chủ: lập pháp, hành pháp và tư pháp, thật sự độc lập với nhau, từ đó chỉ thừa hành ý chí chung, đồng thời làm cho mọi quan chức nhà nước đều phải tận tình phục vụ dân chúng mới giữ được địa vị cho mình. Mỗi quan chức nhà nước luôn luôn bị giám sát chặt chẽ bởi các nhóm đại diện đối lập bình đẳng với mình làm cho quan chức này phải giữ mình trong khi làm việc, chớ lạm dụng quyền lực mà chuốc lấy tai hoạ cho mình. Ở đây bản tính vị kỷ: ích kỷ, tư lợi và tham lam, chỉ thúc đẩy người ta làm việc tốt hoặc phải thực hiện những hành động vị tha mới có thể tồn tại được hoặc mới đạt được mục đích tư riêng của mình, tức là chính thể dân chủ làm cho bản tính vị kỷ chỉ thúc đẩy những hành động vị tha.
Chế độ bầu cử tự do có tác dụng hai mặt, một mặt chế độ này cho phép dân chúng lựa chọn được những công dân ưu tú, vừa có tài năng vừa có đức hạnh, làm quan chức nhà nước để thừa hành ý muốn của dân chúng, chỉ những công dân nào có cả tài năng lẫn đức hạnh mới có thể đắc cử vào các cơ quan nhà nước để làm quan chức mà phục vụ dân chúng. Cái tất yếu này lại dẫn đến cái tất yếu khác, theo đó chỉ những công dân nào có cả tài năng lẫn đức hạnh mới dám ứng cử vào các cơ quan kia; mặt khác chế độ này cũng làm cho những công dân ưu tú được bầu chọn làm quan chức phải phụ thuộc vào dân chúng để mà chỉ phục vụ dân chúng chứ không thể trục lợi được, nếu quan chức nào mà làm trái ngược yêu cầu này thì quan chức đó sẽ bị phế truất bởi chính dân chúng, dân chúng sẽ biểu tình để bãi miễn các quan chức này hoặc thậm chí nếu cần thiết thì dân chúng sẽ phản kháng bằng ý chí, tức là phản kháng theo đúng pháp luật, để lật đổ các quan chức này.
Trong chính thể dân chủ, quyền lực nhà nước luôn luôn thuộc về nhân dân. Ở đây, nguyên tắc đa nguyên bình đẳng hoặc xã hội dân sự hoạt động bình đẳng theo nguyên tắc đa nguyên trở thành phương tiện chính trị để nhân dân loại trừ được mọi âm mưu thoán đoạt, tuyệt đối không hề có những âm mưu nguy hiểm nhằm tước đoạt quyền lực của nhân dân. Nhân dân đã ngăn chặn tất cả những âm mưu này bằng một cơ chế rất thông minh mà chúng ta đã thấy trên đây.
Tóm lại chính thể dân chủ làm cho đời sống chính trị diễn biến lành mạnh, nó không cho phép người ta bày đặt âm mưu để thoán đoạt quyền lực của dân chúng, nó bắt buộc các chính khách phải có cả tài năng lẫn đức hạnh mới có thể giữ được mình, nó thúc đẩy mọi công dân, cả quan chức lẫn dân chúng, đều phải sống theo đạo đức làm cho đạo đức trở thành động cơ tuyệt đối cần thiết đối với chính thể dân chủ đồng thời trở thành nền tảng tuyệt đối cần thiết đối với nguyên tắc đa nguyên bình đẳng. Ở đây, mọi hành động trái ngược với đạo đức hoặc trái ngược với nguyên tắc đa nguyên bình đẳng đều có thể bị trừng phạt ngay lập tức bởi ý chí chung.
Nếu chính thể chuyên chế chỉ làm cho các cá nhân đối đầu nhau rồi rời xa nhau, từ đó làm cho ngay cả các cộng đồng chặt chẽ nhất cũng phải tan rã thành nhiều mảng khác nhau biểu hiện thành các phong trào ly khai, thì ngược lại: chính thể dân chủ lại làm cho các cá nhân xích lại gần nhau hoặc liên kết với nhau thành một cộng đồng chặt chẽ, trong đó tất cả luôn luôn sẵn sàng phục vụ lẫn nhau để tất cả đều được thoả mãn.

III – CHÍNH THỂ DÂN CHỦ QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ĐỜI SỐNG TINH THẦN.

Chính thể dân chủ bảo đảm tự do cho mọi công dân làm cho mọi công dân đều được tự do suy nghĩ sáng tạo. Sự thể này lại củng cố vững chắc hơn nữa nguyên tắc đa nguyên bình đẳng cho chính thể dân chủ, theo đó mỗi công dân có quyền phát biểu đồng thời bảo vệ một quan điểm riêng phù hợp với lợi ích cá nhân của mình.
Bình đẳng tức là giống nhau hoặc như nhau về cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ biểu hiện thành tự do thực hiện quyền lợi đồng thời tự do thực hiện nghĩa vụ dẫn đến tự do như nhau. Vì được tự do như nhau nên mọi công dân đều phải suy nghĩ đúng đắn đồng thời phải nói năng đứng đắn, nếu công dân này mà suy nghĩ sai lầm rồi nói năng hồ đồ hoặc xấc xược thì sẽ bị công kích ngay lập tức bởi các công dân khác. Chẳng hạn, một kẻ chuyên lợi dụng tự do ngôn luận để phê phán bừa bãi gây nên nhiều hậu quả tai hại như Avram Noam Chomsky ở Mỹ, luôn luôn bị phê phán nghiêm khắc bởi nhiều học giả chân chính như William F. Buckley Jr., Lionel Abel, Stephen Morris, Arthur Schlesinger Jr., David Horowitz, v. v.. Nếu có những kẻ quá khích thuộc loại Chomskist thì tất yếu sẽ lại phải có những người chín chắn thuộc loại Anti–Chomskist! Cái tất yếu này kích thích người ta sáng tạo làm cho văn hoá phát triển lành mạnh. Điều tất yếu này sẽ được chứng minh ngay sau đây.

1. Khoa học.

Trong chính thể dân chủ, mỗi công dân làm chủ chính mình. Muốn làm chủ chính mình, mỗi công dân phải hiểu biết chính mình. Yêu cầu này đòi hỏi mỗi công dân phải nâng cao tri thức cho mình. Cái tất yếu này làm cho khoa học phát triển mạnh mẽ trong chính thể dân chủ. Do được tự do nên mọi công dân đều tự do nói năng, do đều được tự do nói năng nên mọi công dân đều phải suy nghĩ đúng đắn để nói năng đứng đắn: nói đúng, nói hay, nói đẹp; nếu một công dân nào đó mà suy nghĩ sai lầm để rồi nói năng sai lạc thì sẽ bị phản bác ngay lập tức bởi các công dân khác. Điều tất yếu này kích thích trí tuệ phát triển mạnh mẽ để mỗi công dân làm chủ lấy mình.
Ở đây kinh tế hàng hoá chỉ có sự cạnh tranh bình đẳng, sự cạnh tranh này thúc đẩy các nhà sản xuất phải cách mạng hoá công nghệ của mình. Nhưng muốn cách mạng hoá như vậy lại cần phải có khoa học. Yêu cầu này kích thích khoa học phát triển mạnh mẽ khiến một bộ phận ngày càng lớn dân chúng chuyên tâm vào hoạt động sáng tạo để trở thành các nhà khoa học, vừa sáng tạo vừa truyền lại tri thức cho người khác thông qua giáo dục, làm cho xã hội công dân trở thành xã hội trí thức.
Vả lại, chính thể dân chủ đòi hỏi mọi công dân phải có hiểu biết mới tồn tại được, phải có hiểu biết mới có thể làm ra pháp luật rồi sử dụng pháp luật đồng thời bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp luật chẳng qua chỉ bảo vệ chính mình mà thôi, tóm lại là mọi công dân đều phải có hiểu biết mới có thể sống theo pháp luật. Nếu không có hiểu biết thì không thể sống theo pháp luật. Nhưng muốn có hiểu biết lại cần phải có khoa học hoặc phải dựa vào khoa học. Yêu cầu này thúc đẩy khoa học phát triển mạnh mẽ trong chính thể dân chủ. Ở đây bản tính vị kỷ: ích kỷ, tư lợi và tham lam, thúc đẩy công dân sáng tạo để thỏa mãn mình.
Trước hết, do chính thể dân chủ làm cho kinh tế hàng hoá chỉ có sự cạnh tranh lành mạnh nên mọi công dân đua nhau sáng tạo để làm giàu cho bản thân, qua đó làm cho khoa học phát triển. Ở đây bản tính vị kỷ: ích kỷ, tư lợi và tham lam, thúc đẩy người ta sáng tạo. Nếu các nhà sản xuất mà không trực tiếp sáng tạo những phát minh hoặc những phát kiến thì họ sẽ sáng tạo theo cách khác. Họ sẽ sáng tạo các ngành nghề mới với các giải pháp mới đồng thời chi trả tiền bạc cho các nhà khoa học sáng tạo thay họ. Họ có thể chi trả trực tiếp thông qua các Quỹ Tư nhân mà cũng có thể chi trả gián tiếp thông qua việc đóng góp thuế khoá hoặc đóng góp tiền bạc vào ngân khố nhà nước để nhà nước chi trả thay họ.
Do chỉ hoạt động nhằm xác lập chân lý, mà chân lý phải có giá trị như nhau đối với mọi người, nên rất tự nhiên, khoa học nói chung đóng vai trò quyết định tuyệt đối đối với việc củng cố chính thể dân chủ làm cho chính thể này ngày càng bền vững hơn, nó xác lập sự bình đẳng vĩnh cửu giữa người với người, nó định hướng cho mỗi cá nhân nhất định hành xử theo nguyên tắc bình đẳng vốn được lấy làm nền tảng chính trị cho xã hội công dân. Sự thể đó lại một lần nữa cho ta thấy được chính thể dân chủ có tác dụng mạnh mẽ như thế nào đối với việc thúc đẩy khoa học nói chung phát triển, làm cho khoa học nói chung phát triển mạnh mẽ liên tục trong chính thể này.
Ngay từ thời đại cổ xưa, nền dân chủ chủ nô ở Hy lạp cũng như La mã đã thúc đẩy khoa học phát triển mạnh mẽ ở đó với những vĩ nhân kiệt xuất, có đầu óc uyên bác về nhiều lĩnh vực khác nhau, như Aristote, v. v.. Nói đến Hy lạp vào thời đại cổ xưa, người ta hình dung ngay cái nôi văn hóa đã trực tiếp đẻ ra tất cả các khoa học hiện đại, từ các khoa học phàm tục nhất đến các khoa học thiêng liêng nhất với những vĩ nhân có ảnh hưởng sâu đậm đến toàn bộ khoa học. Toán họcThalès (thế kỷ VI trước Công nguyên) đã dự đoán đúng nhật thực xảy ra vào ngày 28 Tháng Năm (năm 585 trước Công nguyên); Pythagoras (580 – 500 trước Công nguyên) đã phát kiến được định lý về tam giác vuông: bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh kia; ví dụ: một tam giác vuông có ba cạnh (a, b, c), trong đó a vuông góc với b, vậy c2 = a2 + b2; Méton (thế kỷ V trước Công nguyên) đã tính được một năm có 365 5/19 ngày, v. v.; Euclide (thế kỷ III trước Công nguyên) đã xây dựng được hình học mang tên của mình, đứng đầu Học phái Alexandrie với lý thuyết vô hạn; Eratosthène đã tính được chu vi của địa cầu xấp xỉ 39700 kilomètre, vân vân. Vật lý họcArchimède (285 – 212 trước Công nguyên) đã xây dựng được lực học cùng với thủy lực học, ông đã tính được khá chính xác số p, vân vân. Y họcHypocrate (660 – 377 trước Công nguyên), vân vân. Sử họcHérodote (484 – 425 trước Công nguyên), cha đẻ của sử học, quan niệm rằng sử học phải lưu ký công lao của nhân loại trong ký ức của chúng ta; Thucidite (460 – 359 trước Công nguyên) đã viết “Lịch sử Chiến tranh Péloponèse”; Xénophon (430 – 353 trước Công nguyên) đã viết “Lịch sử Hy lạp” có tư tưởng chống chế độ dân chủ đồng thời ủng hộ chế độ chuyên chế, vân vân. Triết họcThalès (thế kỷ VI trước Công nguyên, đã được đề cập ở trên); Anaximandre (610 – 540) đề xuất tư tưởng về Apeyrol, tức là tư tưởng quy mọi cái về Apeyrol; Anaximen (588 – 525 trước Công nguyên) đã quy mọi cái về không khí; Héraclite (530 – 470 trước Công nguyên) đã quan niệm thế giới như một quá trình biến dịch liên tục; Pythagoras (580 – 500 trước Công nguyên, đã được đề cập ở trên), ông đã quy mọi cái về con số; Leucipe (khoảng 500 – 440 trước Công nguyên) đã đề xuất nguyên tử luận, quy vật chất về nguyên tử; Démocrite (460 – 370 trước Công nguyên) đã hoàn thiện nguyên tử luận, phát triển nguyên tử luận lên đến đỉnh cao rồi dựa vào đó, ông bảo vệ chế độ dân chủ bằng quan niệm cho rằng: “nghèo túng trong chế độ dân chủ cũng đáng thích hơn giàu có trong chế độ chuyên chế, y như tự do tốt hơn nô lệ vậy!”; Epicure (341 – 270 trước Công nguyên) đã bảo vệ Démocrite; Protagoras (481 – 411 trước Công nguyên) quan niệm rằng: “nhân loại là thước đo đối với mọi vật”, nhân vật này có thể được xem như Ernest Mach hoặc Albert Einstein trong thế giới cổ xưa. Ngoài ra còn có Ampèdocle (495 – 435 trước Công nguyên); Anaxagoras (50 – 428 trước Công nguyên); Socrate (469 – 399 trước Công nguyên); Platon (427 – 347 trước Công nguyên); Xénophon (430 – 353 trước Công nguyên); Parménite, Zénon, vân vân. La mã vào thời đại cổ xưa, dưới chính thể dân chủ chủ nô, khoa học cũng đã từng phát triển rực rỡ với những nhân vật nổi bật. Triết họcLucrèce (99 – 55 trước Công nguyên) đã viết “Bàn về bản chất của sự vật”; Cycéron (106 – 43 trước Công nguyên); ÉpictesMarc Orèl; Philon (25 – 40 sau Công nguyên), một trong những người đã đặt nền tảng tư tưởng cho Chúa giáo; Vật lýPline đã viết “Lịch sử Tự nhiên”; Thiên văn họcPtolémé; Y họcGalen; Sử họcFabius (từ thế kỷ III đến thế kỷ II trước Công nguyên); Caton (234 – 149 trước Công nguyên); Polibus (205 – 125 trước Công nguyên) đã viết “Thông sử” gồm bốn quyển; CycéronCésar (thế kỷ I trước Công nguyên) đã viết “Ký sự về cuộc chiến tranh ở xứ Gaule” và “Ký sự về cuộc nội chiến”; Tite Live (sinh năm 59 trước Công nguyên, mất năm 17 sau Công nguyên) đã viết 142 quyển về Lịch sử của La mã; Tacite đã viết “Lịch sử” và “Lịch sử Biên niên”; Plutarque, người Hy lạp tỵ nạn ở La mã, đã viết “Tiểu sử So sánh”; Appian đã viết “Lịch sử của các khu vực bị chinh phục bởi La mã”, vân vân.
Đến thời đại cận đại, nền dân chủ tư sản (hoặc nền dân chủ hữu sản) đã thúc đẩy khoa học phát triển mạnh mẽ với những vĩ nhân kiệt xuất, những vĩ nhân này đã để lại dấu ấn sâu đậm cho nền văn minh hiện đại mà ở đây tôi xin liệt kê một số nhân vật tiên phong: Isaac Newton, Michael Faraday, James Clark Maxwell, William Thompson (tức Huân tước Kelvin), Ernest Rutherford, Edward Williams Morley, Albert Abraham Michelson, Albert Einstein, Charles Darwin, T. H. Morgan, F. H. C. Crick, James D. Watson, v. v..
Ở nước Anh, nền dân chủ tư sản xuất hiện từ sau cuộc Cách mạng 1642 đã thúc đẩy khoa học phát triển rực rỡ với những vĩ nhân kiệt xuất, như Isaac Newton, Michael Faraday, James Clark Maxwell, William Thompson (tức Huân tước Kelvin), Ernest Rutherford, Charles Darwin, v. v.. Ở Mỹ, nền dân chủ tư sản xuất hiện từ sau cuộc Cách mạng 1776 đã tạo lập được những điều kiện cực kỳ thuận lợi cho khoa học nảy nở rực rỡ với rất nhiều vĩ nhân xuất chúng, trong đó có Edward Williams Morley, Albert Abraham Michelson, George Francis Fitzgerald, T. H. Morgan, F. H. C. Crick, James D. Watson, v. v.. Ở Pháp có Henry Poincaré, v. v.. Ở Thụy sỹ có Albert Einstein, v. v. (A. Einstein xuất thân từ Đức, nhưng nền chuyên chế nghiệt ngã ở đây đã khiến A. Einstein phải di cư sang Thụy sỹ, nơi có nền dân chủ thịnh vượng nhất ở Âu châu vào đầu thế kỷ XX, rồi sau đó do bị truy nã bởi chính quyền fascist ở Đức nên A. Einstein lại phải di cư sang Mỹ, nơi có nền dân chủ thịnh vượng nhất trên thế giới).
Đến thời đại hiện nay, nền dân chủ tự do hoặc nền dân chủ nhân dân đã làm cho khoa học phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy. Chúng ta không thể liệt kê được hết số nhà khoa học xuất sắc, hầu như quốc gia tự do nào cũng có rất nhiều nhà khoa học kiệt xuất làm cho phát minh nọ nối tiếp phát minh kia tạo thành một dòng tri thức bao la tuôn trào như thác lở. Điển hình nhất thuộc về nước Mỹ, đang bước những bước rất dài trên con đường khám phá vũ trụ.
Tóm lại, nếu không có nền dân chủ nói chung thì khoa học không thể phát triển vừa nhanh chóng vừa mạnh mẽ như chúng ta đã thấy.

2. Nghệ thuật.

Việc mua hoặc bán hàng hoá đòi hỏi phải có nghệ thuật mới có thể thực hiện được vừa dễ dàng vừa nhanh chóng. Yêu cầu này làm cho nghệ thuật chân chính nảy nở xum xuê trong chính thể dân chủ.
Vả lại, chính thể dân chủ bảo đảm tự do cho mọi công dân làm cho mỗi công dân tha hồ suy nghĩ sáng tác để thể hiện cá tính của mình. Ở đây, bất cứ công dân nào có khả năng sáng tạo cũng đều có thể có những phương tiện cần thiết để biến khả năng đó thành tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật phát triển lại củng cố cho nguyên tắc đa nguyên bình đẳng ngày càng bền vững.
Ở Hy lạp vào thời đại cổ xưa, nghệ thuật đã phát triển rực rỡ. Bi kịchEschile (525 – 456 trước Công nguyên) đã sáng tác được “Oreste”, “Promété bị trói”, “Quân Ba tư”, v. v.. Sophocle (497 – 406 trước Công nguyên) đã sáng tác được “Eudipe làm vua”, “Antigole”, v. v.. Euripide (484 – 406 trước Công nguyên) đã sáng tác được “Electre”, “Bellerophon”, vân vân. Hài kịch có Aristophane (446 – 385 trước Công nguyên) đã sáng tác được “Kỵ sỹ”, “Hoà bình”, “Chim”, “Lisistruta”, “Ếch”, v. v.. Điêu khắcKiến trúcPolignote, Miron, Phidiate, Policlès, vân vân.
La mã vào thời đại cổ xưa dưới chính thể dân chủ chủ nô cũng có nền nghệ thuật phát triển rực rỡ với những danh nhân nổi tiếng: Livius Andronicus đã dịch “Odyssée” sang tiếng Latin; Nevius viết “Cuộc Chiến tranh Punicus”; Ennius (239 – 169 trước Công nguyên) viết “Sử biên niên” bằng thơ sáu âm; Titus Maxius Plotus (254 – 184 trước Công nguyên) đã sáng tác được “Anh lính khoe khoang”, “Cái bình”, “Bóng ma”, v. v.; Trencius (190 – 159 trước Công nguyên, người Carthage) cảm thấy “mọi cái thuộc về nhân loại đều quen thuộc đối với tôi”; Catullus (khoảng 87 – 45 trước Công nguyên); Cycéron (106 – 43 trước Công nguyên) vừa viết văn hay vừa diễn thuyết giỏi; Câu lạc bộ MecelVirgile (70 – 19 trước Công nguyên) đã sáng tác “Những bài ca của người chăn nuôi”, “Giáo huấn ca về nông nghiệp”, Sử thi “Énéiste”; Horace (65 – 08 trước Công nguyên) đã xây dựng được lý thuyết phê bình cho văn học; Ovide (sinh năm 43 trước Công nguyên, mất năm 18 sau Công nguyên) đã sáng tác “Biến hình”, “Nghệ thuật Yêu đương”, vân vân.
Chính thể dân chủ tư sản ở Tây Âu châu cũng như Bắc Mỹ châu đều có rất nhiều tài năng xuất chúng nảy nở mà ở đây tôi cũng chỉ xin liệt kê một số nhân vật tiêu biểu: Charles Dickens, George Bernard Shaw, Honoré de Balzac, Victor Hugo, Harriett Stowe, Mac Twen, Marcel Proust, James Joyce, Pablo Picasso, Charlot Chaplin, Rabindranat Tagore (xuất thân từ Ấn độ), v. v..
Ngày nay, nền dân chủ tự do đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho nghệ thuật chân chính phát triển với nhiều loại hình khác nhau, trong đó mỗi loại hình nhất định lại phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau với nhiều tài năng chân chính nảy nở. Chẳng hạn, âm nhạc hiện đại có rất nhiều loại hình khác nhau, như Jazz, Rock, Pop, Tecno, Hip – Hop, v. v.. Nói chung, tôi cần phải có thêm cả một cuộc đời thật nhàn rỗi nữa mới có thể nói được thêm về nghệ thuật hiện đại.

3. Tôn giáo và giáo dục.

Trong chính thể dân chủ, tôn giáo có một cơ sở xuất phát hoàn toàn mới, đó không phải là nỗi khiếp sợ mà lại là niềm hy vọng, tôn giáo nào cũng hy vọng những điều tốt đẹp sẽ đến với nhân loại hoặc ước nguyện cho chính thể dân chủ tồn tại bền vững. Với tôn giáo, người ta luôn luôn cầu mong cho nhau hạnh phúc: ai cũng được tự do, ai cũng được sung túc, ai cũng có nhân tính, v. v.. Như thế chẳng qua người ta chỉ cầu mong cho chính thể này tồn tại mãi mãi mà thôi.
Trong chính thể chuyên chế, tôn giáo làm tăng thêm nỗi khiếp sợ; nhưng trong chính thể dân chủ, tôn giáo lại làm giảm bớt nỗi khiếp sợ. Thực tế, tôn giáo trong chính thể nào cũng gây nên hoặc thậm chí làm gia tăng nỗi khiếp sợ nhưng tôn giáo trong chính thể dân chủ luôn luôn gây nên nỗi khiếp sợ tích cực, nỗi khiếp sợ này khuyến khích người ta làm điều tốt đẹp để tồn tại; còn tôn giáo trong chính thể chuyên chế lại luôn luôn gây nên nỗi khiếp sợ tiêu cực, nỗi khiếp sợ này kích thích người ta làm điều xấu xa để tồn tại! Hiện tượng này tồn tại đặc biệt phổ biến ở cái tôn giáo được lấy làm hệ tư tưởng chính thống cho nhà nước chuyên chế.
Nói như thế tức là tôi muốn nói rằng: chỉ trong chính thể dân chủ, tôn giáo mới phát huy được tác dụng tích cực đối với nhân loại, làm cho tôn giáo trở nên cần thiết đối với xã hội. Do chỉ cầu mong cho chính thể dân chủ tồn tại bền vững nên các tôn giáo luôn luôn đối xử thân thiện với nhau theo nguyên tắc đa nguyên bình đẳng dẫn đến loại trừ mọi sự xung đột tôn giáo. Ở đây chỉ có hoà bình bác ái mà thôi: anh gõ mõ tụng kinh niệm Phật, còn tôi khớp nhạc hát thánh ca mừng Chúa, cùng cầu mong cho nhau hạnh phúc.
Trong chính thể dân chủ, tôn giáo phục vụ giáo dục chứ không phải ngược lại như trong chính thể chuyên chế mà tôi xin nhắc lại ở đây: trong chính thể chuyên chế, giáo dục phải phục vụ tôn giáo.
Nói đến tôn giáo, tôi phải nói đến hai nền tôn giáo lớn nhất trên thế giới, đó là Phật giáoChúa giáo.
Nền chuyên chế nghiệt ngã cùng cực ở Ấn độ vào thời đại cổ xưa đã làm phát sinh rất nhiều tôn giáo khác nhau làm cho xứ sở này trở thành xứ sở có tôn giáo nhiều nhất trên thế giới, trong đó có Phật giáo.
Phật giáo cho rằng mọi cá nhân đều có Phật tính hoặc đều có khả năng để trở thành Phật, trở thành Phật tức là được siêu thoát hoặc thoát khỏi mọi tội lỗi, mọi đau khổ, mọi nỗi khiếp sợ; nếu biết tu luyện mà vượt qua được sự ngu dốt thì sẽ đắc đạo, tức là trở thành Phật; rằng mọi tội lỗi, mọi đau khổ, mọi nỗi khiếp sợ, đều bắt nguồn từ bản tính vị kỷ, bao gồm tham, sân, sy. Từ đó Phật giáo rút ra kết luận cho rằng muốn đắc đạo hoặc trở thành Phật cần phải diệt dục hoặc phải từ bỏ được cái tham, sân, sy, cũng như mọi khoái lạc trên đời, tức là phải tiêu diệt được bản tính vị kỷ.
Với quan niệm cho rằng mọi cá nhân đều có Phật tính, Phật giáo đã có tư tưởng về sự bình đẳng, mà tư tưởng về sự bình đẳng lại cấu thành một trong những cơ sở tinh thần cho nền dân chủ tự do. Nói như thế tôi muốn khẳng định rằng Phật giáo cũng có tư tưởng cộng hoà hết sức bao la rộng lớn. Tôi đánh giá rất cao Phật giáo ở điểm này. Với tư tưởng cho rằng nếu biết tu luyện mà vượt qua được sự ngu dốt thì sẽ đắc đạo hoặc được siêu thoát, Phật giáo đã có tư tưởng duy lý rất uyên thâm, từ đó tất yếu phải dẫn đến thái độ rất coi trọng đối với việc khai sáng tri thức cho nhân loại, trong đó có giáo dục. Thái độ này làm cho văn hoá nói chung cũng như khoa học nói riêng nảy nở rực rỡ. Tôi cũng đánh giá rất cao Phật giáo ở điểm này, không phải ngẫu nhiên mà A. Einstein đã đánh giá rất cao tôn giáo nói chung cũng như Phật giáo nói riêng. Hình thành từ một bối cảnh chuyên chế cùng cực với hệ tư tưởng có lẽ cũng tối tăm cùng cực, thế mà Phật giáo lại có tư tưởng vượt qua hoặc siêu thoát như vậy quả thật đã làm nên một điều kỳ diệu cho nền Văn minh Ấn độ. Ở đây tôi nói “vượt qua” hoặc “siêu thoát” để nói lên rằng Phật giáo đã vượt qua những giới hạn nghiệt ngã được quy định bởi chính thể chuyên chế vốn có xu hướng tiêu diệt mọi hiện tượng biểu hiện văn hoá, ở đây cái “siêu thoát” không chỉ cấu thành một hệ thống khái niệm cho Phật giáo mà còn làm nên cái khuynh hướng khai hoá cho Phật giáo nữa. Ở đây cái “siêu thoát” biểu hiện qua cả tư tưởng về sự bình đẳng (mọi cá nhân đều có Phật tính) lẫn tư tưởng về chống ngu dốt (nếu biết tu luyện mà vượt qua được sự ngu dốt thì sẽ đắc đạo). Chính thể chuyên chế vốn chỉ có sự xiêu lệch hoặc bất bình đẳng giữa người cai trị với người bị cai trị, thế mà Phật giáo lại dám giả định rằng mọi cá nhân đều có Phật tính, tức là Phật giáo giả định rằng giữa người với người chỉ có sự bình đẳng mà thôi! Chính thể chuyên chế vốn chỉ có sự ngu dốt hoặc chỉ thường xuyên tái tạo ra sự ngu dốt, thế mà Phật giáo lại dám chủ trương chống lại sự ngu dốt! Chính những điểm này đã biểu hiện rõ rệt nhất tính chất siêu thoát của Phật giáo. Có lẽ chính vì có tính chất siêu thoát như vậy nên Phật giáo đã bị đàn áp dữ dội ở Ấn độ vào thời đại cổ xưa rồi bị xua đuổi khỏi xứ sở đó.
            Tuy nhiên, với tư tưởng cho rằng sự ngu dốt bắt nguồn từ bản tính vị kỷ (tham, sân, sy), rằng muốn đắc đạo hoặc trở thành Phật để được siêu thoát, cần phải tiêu diệt tham, sân, sy; tức là phải tiêu diệt bản tính vị kỷ, rằng phải tiêu diệt được bản tính vị kỷ mới có thể siêu thoát được, v. v., Phật giáo lại rơi vào những chủ trương đầy ảo tưởng được quy định bởi chính cái bối cảnh xã hội đã sinh ra nó, tức là chủ trương diệt dục phát sinh từ nền chuyên chế nghiệt ngã cùng cực ở Ấn độ vào thời đại cổ xưa. Thực tế chủ trương diệt dục chỉ có tác dụng tích cực đối với chính thể chuyên chế mà thôi, nó ngăn chặn hoặc hạn chế nhà cầm quyền thực hiện những hành động hung bạo đối với dân chúng đồng thời làm cho dân chúng biết sống an phận thủ thường (xin hãy xem thêm chú thích 106phần thứ mười một, chương XXXI), nhưng chủ trương đó sẽ chỉ có tác dụng tiêu cực đối với các chính thể khác.
Vì trong chính thể chuyên chế, bản tính vị kỷ chỉ thúc đẩy người ta làm điều xấu xa nên rất tự nhiên, người ta tất yếu phải có thái độ chống lại bản tính đó. Phật giáo hình thành theo đúng cái tất yếu này. Nhưng vì bản tính vị kỷ lại thuộc về bản năng sinh tồn hoặc chỉ biểu hiện bản năng này mà thôi nên nếu chống lại bản tính kia thì chẳng qua chỉ chống lại chính nhân loại thôi, mà như vậy sẽ thất bại. Quả thật, Phật giáo chưa bao giờ tiêu diệt được bản tính vị kỷ mà ngược lại chỉ làm cho bản tính đó biểu hiện thành một hình thức mới, hình thức đó là lòng mong muốn thoát khỏi mọi tội lỗi, mọi đau khổ, mọi nỗi khiếp sợ! Người ta sẽ đặt ra một vấn đề hóc búa: tại sao nhân loại lại mong muốn được siêu thoát nếu không phải tại bản tính vị kỷ hoặc bản năng sinh tồn, hoặc lòng mong muốn được siêu thoát biểu hiện cái gì nếu không biểu hiện bản tính vị kỷ thuộc về bản năng sinh tồn?
Thật ra bản tính vị kỷ tự nó không xấu xa mà cũng chẳng tốt đẹp, tính chất (tốt đẹp hay xấu xa) của nó tuỳ thuộc hoàn toàn vào tính chất (tốt đẹp hay xấu xa) của những hành động đã được thúc đẩy bởi chính nó. Thực tế đã chứng minh thật xác đáng cho sự thể đó. Chính bản tính vị kỷ đã thúc đẩy người ta làm nhiều điều tốt đẹp trong chính thể dân chủ, như sống bác ái, sáng tạo khoa học, sáng tác nghệ thuật, v. v.. Khi nhận xét C. S. Montesquieu, François Marie Arouet, tức văn sỹ Voltaire, một trong những triết gia khai sáng vĩ đại nhất, đã từng nói rất đúng rằng: “trong các nước cộng hoà, người ta còn chạy theo danh vọng nhiều hơn, người ta mong được hoan hô, được dành phần thắng, được danh vị116). Vậy chủ trương diệt dục không chỉ sai lầm mà còn cực đoan nữa kia!
Với niềm tin cho rằng: “world is evil” (đời là bể khổ), Phật giáo xác lập “đạo đế” thể hiện thành “bát chính đạo” nhằm giải thoát nhân loại khỏi evil (bể khổ). Nhưng vì quá ư bí ẩn (hoặc chống lại bản tính vị kỷ thể hiện qua ý hướng phủ nhận cái “tôi” vốn được diễn đạt bởi cái “vô ngã”?) nên các giải pháp thể hiện qua “bát chính đạo” dường như quá khó khăn (nếu không muốn nói: “bất khả thể” hoặc “bất khả hành”) đối với nhiều người, đặc biệt chủ trương diệt dục (bao gồm cả việc từ bỏ ham muốn dục tình vốn đóng vai trò bảo tồn nhân loại) lại càng làm cho các giải pháp thể hiện qua “bát chính đạo” cùn mòn hơn nữa. Có lẽ đây là một trong những lý do quan trọng nhất góp phần tạo nên cội nguồn sâu xa cho Chúa giáo xuất hiện nhằm bổ sung cho chính Phật giáo!
Vô luận thế nào, vì không có tư tưởng chuyên chế nên chắc chắn Phật giáo cũng sẽ trở thành nền tảng tinh thần cho nền dân chủ tự do ở tất cả những vùng đất nào chịu ảnh hưởng của nó. Không có gì khó hiểu khi thấy một số nước dân chủ tự do lấy Phật giáo làm quốc giáo. Tôi là một Christian (người có Chúa, người thuộc về Chúa, Tín đồ Chúa giáo), đương nhiên tôi yêu mến Giáo lý Chúa giáo. Nhưng chính lòng yêu mến giáo lý này đã soi sáng cho tôi đi đến một nhận xét đầy lòng bác ái, rằng Phật giáo là một trong những tôn giáo đáng yêu mến nhất trong tất cả các tôn giáo đã từng tồn tại từ trước đến nay cũng như từ nay về sau.
Ở La mã vào thời đại cổ xưa, thế kỷ I, nền dân chủ chủ nô suy vong rồi được thay thế bởi nền chuyên chế hết sức nghiệt ngã đã làm phát sinh Chúa giáo (Công giáo, Tân giáo, Chính giáo, v. v.).
            Chúa giáo mang tư tưởng hoài niệm về nền dân chủ chủ nô, sự thể này biểu hiện hết sức rõ ràng qua giáo lý của nó.
            Theo Giáo lý Chúa giáo, thế giới (bao gồm cả nhân loại nữa) được tạo dựng bởi Chúa, mà Chúa lại có ba ngôi: ngôi thứ nhất là Chúa Cha; ngôi thứ hai là Chúa Con, tức là Chúa Jesus (Jesus Christ); ngôi thứ ba là Chúa Thánh thần; cả ba ngôi đều chủ trương cứu vớt nhân loại khỏi mọi tội lỗi, mọi đau khổ, mọi nỗi khiếp sợ. Để thực hiện chủ trương này, Chúa dạy bảo nhân loại phải tôn kính Chúa hoặc phải thờ phượng Chúa như con cái thờ kính cha mẹ vậy, mà muốn thể hiện thái độ tôn kính đối với Chúa lại phải sống bác ái, theo đó mọi cá nhân đều phải yêu thương người khác như yêu thương chính mình (thương người như thể thương thân). Bác ái không chỉ thể hiện bằng lời nói mà còn phải thể hiện bằng hành động. Nếu sống được như vậy thì sau khi chết sẽ được lên Thiên đàng để sống tiếp một cuộc sống đầy hạnh phúc cùng Chúa; ngược lại nếu không sống được cuộc sống bác ái với cuộc đời này mà lại cứ phạm tội lỗi thì sau khi chết sẽ bị đẩy xuống Luyện ngục để sống cuộc đời đầy đau khổ ở đó, hoặc phải tu dưỡng thêm ở đó rồi mới được lên Thiên đàng, tức là rốt cuộc, dù thế nào cũng được cứu vớt bởi Chúa vốn đầy lòng bác ái. Nhưng nếu không biết ăn năn sám hối ở đó thì sẽ bị sa xuống Hoả ngục rồi bị đày đoạ vĩnh viễn ở đây. Vậy nếu muốn tránh sa xuống Hoả ngục thì phải biết ăn năn sám hối!
Vì Chúa sinh ra nhân loại cũng như cha mẹ sinh ra con cái nên nhân loại phải thờ kính Chúa cũng như con cái phải thờ kính cha mẹ đã đành nhưng nguyên lý này lại được mở rộng cho cả quan hệ nô lệ lẫn quan hệ hôn nhân, theo đó Chúa cũng dạy bảo nô lệ phải phục tùng chủ nô cũng như vợ phải phục tùng chồng. Qua đây chúng ta thấy được rằng Giáo lý Chúa giáo vừa mang tư tưởng cộng hoà vừa mang tư tưởng chuyên chế.
            Tư tưởng cộng hoà thể hiện qua mấy điểm sau đây: 1) Mọi cái cũng như mọi cá nhân đều được tạo nên bởi Chúa, mà Chúa lại có ba ngôi. Sự thể này vừa thể hiện tư tưởng về sự bình đẳng vừa thể hiện tư tưởng về quy chế phân lập tam quyền; 2) Cả ba ngôi đều thực hiện chủ trương cứu vớt nhân loại khỏi mọi tội lỗi, mọi đau khổ, mọi nỗi khiếp sợ; tức là mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Sự thể này thể hiện tư tưởng về sự bình đẳng, nhưng ở đây sự bình đẳng có phạm vi rộng lớn hơn nhiều, không chỉ có sự bình đẳng giữa ba ngôi mà còn có cả sự bình đẳng giữa Chúa với nhân loại lẫn sự bình đẳng giữa các cá nhân khác nhau nữa kia. Sự bình đẳng giữa Chúa với nhân loại thể hiện rõ rệt nhất qua ngôi thứ hai, tức là Chúa Jesus. Chúa Jesus có cả Thần tính lẫn Nhân tính, vừa mang bản tính của Chúa vừa mang bản tính của nhân loại; 3) Kêu gọi mọi người hãy yêu thương người khác như yêu thương chính mình hoặc hãy thương người như thể thương thân. Sự thể này thể hiện tư tưởng về bác ái. Nhờ mang nặng tư tưởng cộng hoà mà Chúa giáo trở thành nền tảng đạo đức cho nền dân chủ tự do. Mặc dù ở một số nước dân chủ không có Chúa giáo, có thể người ta không biết hoặc chỉ biết được rất ít về Giáo lý Chúa giáo nhưng thực tế hàng ngày đa số người ta vẫn thực hành những nguyên tắc cơ bản của giáo lý đó. Cũng chính vì trở thành nền tảng đạo đức cho nền dân chủ tự do nên Chúa giáo thu hút được ngày càng nhiều tín đồ. Hiện nay, Chúa giáo có tín đồ nhiều nhất so với tất cả các tôn giáo khác.
Tư tưởng chuyên chế thể hiện qua lời kêu gọi vợ phải phục tùng chồng hoặc nô lệ phải phục tùng chủ nô cũng như khẳng định chồng có quyền hành tuyệt đối đối với vợ hoặc chủ nô có quyền lực tuyệt đối đối với nô lệ. Nhưng hình như tư tưởng này không tồn tại tự thân trong Giáo lý Chúa giáo mà có lẽ chỉ được tạo tác khiên cưỡng theo ý đồ xuyên tạc nhằm lạm dụng Chúa giáo vào việc bảo tồn chính thể chuyên chế làm cho Chúa giáo bị biến dạng với tư tưởng chuyên chế như thế. Chính vì bị biến dạng theo ý đồ xuyên tạc bởi việc lạm dụng mà phải mang nhẹ tư tưởng chuyên chế như thế nên về sau Chúa giáo cũng lại trở thành nền tảng tinh thần cho một số nền chuyên chế hết sức nghiệt ngã đến mức độ mà nó đã bị đả kích dữ dội thái quá bởi một số triết gia ngây thơ, trong đó có J. J. Rousseau.
            Sau cuộc Cải cách Tôn giáo xảy ra ở Âu châu vào thế kỷ XVI làm phát sinh Tân giáo hoặc Giáo phái Tin lành, tư tưởng chuyên chế đã bị loại bỏ hoàn toàn khỏi Giáo lý Chúa giáo.
Chúa Ba Ngôi làm nên đặc trưng nổi bật nhất cho Chúa giáo, chính nhờ đó mà Chúa giáo dễ dàng xâm nhập đời sống chính trị hơn bất cứ một tôn giáo nào khác. Việc thiết lập bộ máy nhà nước theo quy chế phân lập tam quyền thường được chỉ dẫn bởi những tư tưởng chính trị bắt nguồn trực tiếp hoặc gián tiếp từ giáo lý về Chúa Ba Ngôi. Sự thể này cũng biểu hiện đặc trưng nổi bật nhất cho văn hoá ở Tây phương, vốn có khả năng ứng dụng rất cao vào đời sống thực tế.
Hầu như tôn giáo nào cũng hướng người ta đến cái Thiện để sống bác ái, nhưng có lẽ chỉ Chúa giáo mới xác lập được con đường hiện thực để có thể đưa người ta đến được cái Thiện. Con đường ấy chính là Mầu nhiệm Ba Ngôi. Chính mầu nhiệm này đã làm cho Chúa giáo trở thành một tôn giáo thấm đẫm giá trị hiện thực đến mức độ mà hầu như sự kiện nào cũng xác nhận sự thể này! Chẳng hạn, khoa học chỉ có thể phát triển được rực rỡ trong chính thể dân chủ, mà chính thể này lại chỉ có thể tồn tại được với quy chế phân lập tam quyền, quy chế này lại hiệp thông thống nhất với Mầu nhiệm Ba Ngôi; hoặc Chúa Jesus ra đời theo một mầu nhiệm đặc biệt mà phải đợi đến khi phát minh được kỹ thuật nhân bản vô tính vào năm 1997 với việc cho ra đời chú Cừu Dolly, người ta mới có thể hiểu được, v. v.. Vô số sự kiện tương tự đã xác nhận giá trị hiện thực cho Chúa giáo. Chính nhờ đó mà Chúa giáo có thể đã mang lại sự hoàn thiện cho mọi tôn giáo khác, tức là mọi tôn giáo khác đều có thể hiệp thông với Chúa giáo!
Với nhiều căn cứ thực tế, chúng ta có thể tin rằng Chúa giáo nối tiếp Phật giáo rồi đưa Phật giáo lên một tầm vóc cao hơn thể hiện thành con đường hiện thực hơn cho việc giải thoát nhân loại. Con đường đó chính là Mầu nhiệm Ba Ngôi, trong đó ngôi thứ nhất có lẽ thể hiện Đạo Vũ trụ vốn đã được định hình bởi chính Phật giáo.
Chúa Jesus đã phán truyền rằng: “kẻ nào tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, kẻ nào tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (ý nói: mọi người đều như nhaubình đẳng!); “kẻ nào sử dụng đao kiếm sẽ bị chết bởi đao kiếm” (ý nói: sử dụng bạo lực sẽ bị chết bởi bạo lực!); “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em; Thầy đã yêu thương anh em như thế nào, anh em hãy yêu thương nhau như thế!” (ý nói: mọi người đều phải sống bác ái!). Phán truyền như thế, Chúa Jesus có ý muốn nói rằng: do bình đẳng với nhau nên mọi người đều phải sống bác ái mới có thể đến được với một Chúa Ba Ngôi để được lên Thiên đàng (ý nói: được hưởng hạnh phúc!) rồi sống mãi ở đó (ý nói: sẽ bảo tồn được mình!).
Lời phán truyền này có ý nghĩa sâu xa rằng: phải đấu tranh bằng con đường hoà bình để thiết lập chính thể dân chủ với một nhà nước được tổ chức theo quy chế phân lập tam quyền, thiết lập được chính thể dân chủ với một nhà nước được tổ chức theo quy chế phân lập tam quyền sẽ làm cho nhân loại được hạnh phúc! Đó chính là lý do làm cho tất cả các nhà độc tài vừa khiếp sợ vừa thù ghét Chúa giáo đến nỗi mà Chúa giáo đã từng bị truy bức hết sức đẫm máu theo suốt chiều dài lịch sử hoặc các vua chúa sẵn sàng làm ra sách báo độc hại như Tây dương Gia tô Bí lục chẳng hạn để truy bức Chúa giáo về mặt tư tưởng. Nhưng vì có tư tưởng thấm đẫm giá trị hiện thực như thế nên dù bị đàn áp khốc liệt nhất, Chúa giáo vẫn hiên ngang phát triển mãnh liệt hơn mọi tôn giáo khác!
Tôi cảm thấy mình được cứu rỗi bởi Chúa khi giác ngộ được rằng nhân loại có bản tính vị kỷ: cá nhân nào cũng ích kỷ, tư lợi và tham lam, khiến nhân loại phải hành xử theo pháp luật mới trở nên tốt đẹp; rằng nhân loại phải biết sống theo Mầu nhiệm Ba Ngôi, tức là phải biết tổ chức bộ máy nhà nước theo quy chế phân lập tam quyền (ứng nghiệm với Mầu nhiệm Ba Ngôi!) lấy nguyên tắc đa nguyên bình đẳng làm cơ sở để thiết lập bộ máy đó thông qua chế độ bầu cử tự do, mới được hạnh phúc (được hạnh phúc tức là được lên Thiên đàng!); rằng sống theo Mầu nhiệm Ba Ngôi sẽ được hạnh phúc ngay ở đời này mà không cần phải đợi đến đời sau, tức là Mầu nhiệm Ba Ngôi mang lại hạnh phúc cho nhân loại ngay khi còn sống chứ không phải đợi đến sau khi chết; rằng Chúa sẽ mang lại hạnh phúc cho người nào biết sống theo Mầu nhiệm Ba Ngôi! Tôi luôn luôn cầu mong cho mọi người cũng như cả thế giới đều biết sống theo Mầu nhiệm Ba Ngôi để được hạnh phúc hoặc thoát khỏi mọi hình thức chuyên chế!
Tại sao Chúa lại có Ba Ngôi mà không thể có nhiều hơn hoặc ít hơn? Vấn đề này đã được giải đáp bằng phần thứ tám (cả ba chương) cùng với cả phần thứ chín (chương XXVI, mục III; cũng như chương XXVII, mục II, tiết 3) lẫn phần thứ mười, (chương XXX), v. v., tức là tất cả các đoạn văn nói về chính thể dân chủ hoặc nhà nước cộng hoà. Vậy căn cứ vào đó, người ta có thể khẳng định rằng Chúa giáo là Tôn giáo Cộng hoà hoặc Tôn giáo về nền Cộng hoà, có thể bao quát hoặc dung nạp được tất cả các tôn giáo khác, tức là tất cả các tôn giáo khác đều có thể hiệp thông mà không hề mâu thuẫn với Chúa giáo trong nền cộng hoà! Sự thể này đã giải thích được tại sao Chúa giáo ở các nước dân chủ rất dễ dàng chấp nhận các tôn giáo khác (chẳng hạn: chùa chiền mọc lên khá nhiều ở các nước cộng hoà có Christians (Tín đồ Chúa giáo) chiếm đa số, v. v.) hoặc coi việc chấp nhận các tôn giáo khác như một trong những việc đương nhiên thuộc về lòng bác ái vốn tồn tại tự thân trong bản thân mình, đồng thời cũng giải thích được tại sao chính thể chuyên chế luôn luôn bài xích Chúa giáo: tất cả các nhà độc tài đều rất thù ghét Chúa giáo, thậm chí ngay cả các Chức sắc Chúa giáo nắm giữ quyền lực nhà nước trong chính thể chuyên chế cũng phá hoại Chúa giáo!
Thiết tưởng ở đây cũng nên nhắc lại một sai lầm đáng tiếc đã xảy ra ở các nước thuộc Tây phương vào thời đại trung cổ, ở đó Chúa giáo vốn có khuynh hướng khai sáng cho khoa học chân chính nảy nở nhưng các Chức sắc Chúa giáo nắm giữ quyền lực nhà nước trong chính thể chuyên chế lại đàn áp tàn tệ làm cho khoa học ấy bị thui chột đồng thời cũng làm suy giảm cảm hứng tìm hiểu Chúa bằng câu chuyện về Thánh Augustin được nghe thấy Thiên thần hiện thân thành một em bé bảo rằng đừng nhọc công suy nghĩ về một mầu nhiệm vượt quá trí khôn nhân loại, tức là Mầu nhiệm Ba Ngôi; câu chuyện đó ít nhiều đã cho thấy thái độ bài bác đối với việc tìm hiểu Chúa bằng khoa học! Tuy nhiên đến cuối thế kỷ XX, Chúa đã soi sáng cho Đức Giáo hoàng Jean Paul II lên tiếng xin lỗi cộng đồng khoa học trên khắp thế giới vào năm 1997 về những sai lầm trong quá khứ. Sự kiện này đã xác lập một dấu mốc chói lọi cho thấy Chúa giáo chính thức đồng hành với khoa học đồng thời cũng phân biệt dứt khoát Giáo hội Công giáo với nhà nước chuyên chế: Giáo hội Công giáo có thể sửa mình nhưng nhà nước chuyên chế lại không thể sửa mình! Thật vậy, cuộc cách mạng khoa học đang xảy ra hàng ngày đã cho phép chúng ta tìm hiểu Chúa bằng khoa học; bằng khoa học, chúng ta hoàn toàn có thể hiểu biết được tại sao Chúa lại có ba ngôi không thể nhiều hơn cũng như không thể ít hơn với những kết quả nghiêm túc sẽ mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp để có thể thống nhất Chúa giáo (Công giáo, Chính giáo, Tân giáo, v. v.) thành Một Giáo hội Duy nhất lấy Mầu nhiệm Ba Ngôi làm nền tảng thống nhất, đồng thời có thể thăng tiến đời sống xã hội (social existence) theo chiều hướng dân chủ hoá. Chính vì Chúa giáo có tính chất cộng hoà nên ngày nay, nhờ nền cộng hoà đang thăng tiến mạnh mẽ mà người ta bắt đầu hiểu được ý nghĩa sâu xa của Chúa giáo. Thánh nhân Mahatma Gandhi cũng đã từng thừa nhận rằng chính Chúa Jesus đã xác lập được một con đường vững chắc nhất cho nhân loại đi lên! Những người nào còn nuôi dưỡng hoặc còn tin tưởng những thành kiến, những định kiến, những thiên kiến, v. v., về Chúa giáo hãy tỉnh ngộ mà suy ngẫm nghiêm túc về những sự thật hiển nhiên được nêu ra ở đây.
Nhân tiện đây, tôi xin nói sơ qua về J. J. Rousseau. Ông này có ba nhược điểm lớn: thứ nhất, ông cho rằng mỗi người không nên có quá nhiều tài sản, tức là chống sở hữu tư nhân để chủ trương sở hữu công cộng; thứ hai, ông cho rằng chính thể dân chủ không thích hợp với các nước lớn; thứ ba, ông cho rằng Chúa giáo chỉ thích hợp với chính thể chuyên chế. Ba nhược điểm này về sau đã trở thành một trong những nguồn gốc sâu xa dẫn đến những tai hoạ khủng khiếp cho nhân loại suốt từ đầu thế kỷ XIX đến nay: nhược điểm thứ nhất đã góp phần đẻ ra Chủ nghĩa Marx, nhược điểm thứ hai đã góp phần củng cố chính thể chuyên chế ở các nước lớn, nhược điểm thứ ba đã góp phần vào việc truy bức Chúa giáo. Thực tế ngày nay đã vượt qua ba nhược điểm nói trên. Sở hữu tư nhân trở thành động lực trực tiếp thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ, Ấn độ xây dựng thành công chế độ dân chủ, Chúa giáo đã hoặc sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc dân chủ hoá thế giới.
Tôi định nói về Hồi giáo, một tôn giáo lớn thứ ba tiếp theo hai tôn giáo kia mà tôi xác tín chắc chắn rằng cũng tốt đẹp như thế (Có lẽ nhờ thế mà Indonesia đã xây dựng thành công chế độ dân chủ?). Nhưng vì hầu như chỉ biết được rất ít về Kinh Qu’ran nên tôi không dám viết bất cứ điều gì về tôn giáo này. Vậy tôi cầu xin quý độc giả hãy lượng thứ cho tôi!
Trong chính thể dân chủ, tôn giáo được đặt vào đúng vị trí của nó, ở đây không thấy có sự xung đột tôn giáo. Các tôn giáo vô thần có ý nghĩa giải trí cao mà không phát huy được tác dụng nguy hiểm của nó, còn các tôn giáo hữu thần cũng luôn luôn giữ được chừng mực của mình, không đẩy đại đa số nhân dân vào sự mê tín lại càng không đẩy một số người tương đối dốt nát vào sự cuồng tín. Cùng với giáo dục, các tôn giáo nói chung đều phát huy được tác dụng tích cực của mình, nó cùng hướng nhân loại đến cái thiện, từ đó dẫn đến sự thân thiện giữa các tôn giáo khác nhau trong cùng một cộng đồng có chung chính thể dân chủ. Ở đây, trong chính thể dân chủ, tôn giáo phục vụ giáo dục chứ không phải giáo dục phục vụ tôn giáo như trong chính thể chuyên chế.
Nói như thế tôi muốn khẳng định rằng: chính thể dân chủ làm cho tôn giáo trở nên nhân bản hơn! Tôi xin lấy Chúa giáo làm ví dụ. Trước khi xuất hiện chính thể dân chủ, người ta chỉ quan niệm Chúa là Đấng Sáng tạo Thế giới (bao gồm cả nhân loại) nhưng từ khi xuất hiện chính thể dân chủ, chính thể này đã làm cho người ta không chỉ quan niệm Chúa là Đấng Sáng tạo Thế giới, mà còn quan niệm Chúa là Tình yêu! Quan niệm theo cách này hiện thực hơn quan niệm theo cách trước, làm cho Chúa gần gũi hơn với nhân loại giúp nhân loại hiểu được rằng Chúa hằng ngự ngay trong lòng mình! Tôi tin rằng sự thay đổi theo chiều hướng tích cực như vậy cũng có thể xảy ra đối với tất cả các tôn giáo khác. Chính nhờ mang nội dung nhân bản hơn mà tôn giáo có nhiều hình thức phong phú hơn, hấp dẫn hơn, cho phép nó xâm nhập sâu rộng hơn vào đời sống thường nhật. Việc thế hệ trẻ ngày nay thích đeo cây Thập giá hoặc hình Đức Phật, cũng như việc một số người cộng sản bắt đầu giải thích chủ nghĩa cộng sản theo những quan niệm gần gũi với các giá trị nhân văn hoặc thậm chí từ bỏ chủ nghĩa cộng sản để tin theo một tôn giáo khác, v. v., đã nói lên phần nào sự thể đó. Sự thể đó cũng cho thấy rằng tôn giáo ngày càng phát triển hơn theo xu hướng nhân bản trong chính thể dân chủ. Chỉ những đầu óc vẫn bị vẩn đục mới nghĩ đến việc xoá bỏ tôn giáo mà thôi!
Để kết thúc đoạn này, tôi xin viện dẫn ý kiến của A. Einstein về tôn giáo: “Cảm xúc đẹp nhất và sâu xa nhất của nhân loại là cảm xúc trước sự huyền bí. Chính cảm xúc này đã khiến cho khoa học chân chính nảy nở. Nếu ai không còn có những cảm xúc đó, không còn biết ngạc nhiên và chỉ biết đứng ngẩn người ra vì sợ hãi thì sống cũng như chết. Cảm thấy điều huyền bí mà nhân loại không sao giải thích nổi, vì nó chỉ biểu lộ ra khi mà khả năng ít ỏi đáng buồn của chúng ta chỉ hiểu được những hình thức thấp kém của cái quy luật cao siêu dưới vẻ đẹp rạng rỡ hơn hết. Chính sự hiểu biết đó và cảm xúc đó đã là nền tảng đích thực của tôn giáo117). A. Einstein còn nói về mối quan hệ giữa khoa học với tôn giáo, rằng: “Science without religion is lame. Religion without science is bline” (Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng. Tôn giáo mà thiếu khoa học thì mù quáng), tức là khoa học phải dựa vào tôn giáo mới trở nên chắc chắn cũng như tôn giáo phải được soi sáng bởi khoa học mới trở nên minh triết. Tôi tin rằng có mối quan hệ bổ sung giữa khoa học với tôn giáo, từ đó tôi hy vọng rằng tác phẩm này sẽ làm nảy sinh hoặc củng cố thái độ trọng thị đối với khoa học cho những người có niềm tin tôn giáo.
Sau đây tôi xin nói về giáo dục trong chính thể dân chủ. Aristote quan niệm rất đúng rằng: mục đích cuối cùng của nhân loại là hạnh phúc, mà hạnh phúc chỉ có thể đạt được trong một xã hội tồn tại theo pháp luật, nhưng pháp luật lại chỉ hình thành từ hoạt động lý trí ngày càng được nâng cao bởi giáo dục. Từ quan niệm đó, ta suy ra rằng: muốn tồn tại được bền vững, chính thể dân chủ phải thường xuyên chăm lo phát triển giáo dục làm cho giáo dục phát triển bền vững trong chính thể này. Điều tất yếu này đã giải thích cho người đời hiểu được tại sao giáo dục rất phát triển ở các nước dân chủ.
pháp luật vốn chỉ tồn tại trừu tượng trên ý niệm mà muốn nắm bắt được nó để hành xử theo nó, người ta phải có tri thức, mà tri thức lại đòi hỏi người ta phải có khả năng lập luận bằng kiến thức, tức là khả năng suy nghĩ duy lý, nên chính thể dân chủ vốn chỉ tồn tại được bằng pháp luật đòi hỏi phải có nền giáo dục tự do, trong đó người ta chỉ truyền đạt kiến thức đúng đắn lành mạnh cho nhau bằng việc đối thoại cởi mở với thái độ tương kínhkhông áp đặt đồng thời tư nhân hoá hầu hết các phương tiện giáo dục; nền giáo dục này sẽ bảo tồn tri thức đồng thời nuôi dưỡng những động cơ làm cho người ta phải suy nghĩ bằng kiến thức. Với những đặc tính như thế, nền giáo dục tự do sẽ luôn luôn tạo ra nguồn năng lượng bao la để nuôi dưỡng chính thể dân chủ làm cho chính thể này tồn tại bền vững mà không thể bị huỷ diệt bởi bất cứ cá nhân nào hoặc tổ chức nào hoặc bất cứ chính phủ nào thuộc loại độc đoán. Tóm lại, chính thể dân chủ đòi hỏi giáo dục phải mang lại kiến thức đúng đắn cho mọi công dân: cả người học lẫn người dạy.
Quả tht, chỉ trong chính thể dân chủ, giáo dục mới thực hiện được sứ mệnh đích thực của nó. Ở đây vận mệnh của chính thể được giao cho từng công dân làm cho mọi công dân đều yêu mến chính thể của mình, khiến mọi công dân đều sẵn sàng đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Muốn làm cho công dân yêu nước trước hết phải làm cho công dân yêu chính thể đã, mà muốn làm cho công dân yêu chính thể lại chỉ có thể phải thiết lập chính thể dân chủ mà thôi, chẳng có ai yêu thích gì chính thể chuyên chế hoặc chính thể quý tộc đâu. Trong chính thể dân chủ, tất cả đều phụ thuộc vào tình yêu trong sáng nói trên, tình yêu này lại cần đến tất cả sức mạnh của giáo dục, từ đó buộc mọi người phải quan tâm đến giáo dục. Muốn cho trẻ con có được tình yêu pháp luật, trước hết các bậc cha mẹ phải có tình yêu ấy đã. Thầy giáo trao kiến thức cho các em lại còn phải gợi mở cho các em ham mê hứng thú nữa kia, nếu không làm được việc này thì chẳng qua việc giáo dục trong gia đình đã bị huỷ hoại bởi những tình cảm ngoại lai. Không phải người ta sinh ra đã mất gốc mà những người lớn tuổi trước đó đã bị hư hỏng.
Muốn sửa chữa những hư hỏng trong gia đình, phải sửa chữa những hư hỏng trong xã hội. Muốn sửa chữa những hư hỏng trong xã hội, lại phải sửa chữa những hư hỏng trong chính thể, tức là phải thay thế chính thể chuyên chế bằng chính thể dân chủ. Nhưng muốn làm được việc đó lại cần phải có tư tưởng đúng đắn lành mạnh. Tư tưởng đúng đắn đó nằm ngay trong tác phẩm này cùng với các tác phẩm khác đã cung cấp kiến thức đúng đắn cho tác phẩm này, dù hay không được nêu tên trong tác phẩm này. Vậy muốn có một nền giáo dục tốt trước hết phải có một chính thể tốt, chính thể tốt chính là chính thể dân chủ. Chính thể dân chủ không chỉ đòi hỏi mà còn kích thích nền giáo dục cố gắng phát triển những phẩm chất tốt đẹp cho nhân loại. Ở đây không có một đạo luật nào liên quan đến giáo dục mà lại không được thực hiện triệt để, bất cứ một đạo luật nào thuộc loại đó cũng được thực hiện triệt để khiến cho giáo dục luôn luôn đạt được mục đích của nó.
Trong chính thể dân chủ, giáo dục đóng một vai trò quan trọng đặc biệt đến mức độ mà chính A. Smith cũng đã khẳng định rằng:
Một người không sử dụng thoả đáng khả năng trí óc của mình có thể nói là một người đáng bị khinh bỉ hơn cả một người hèn nhát. Họ như kẻ tàn tật, bị méo mó về nhân tính. Giáo dục quần chúng có thể không đem lại lợi nhuận gì cho nhà nước, nhưng dù sao nhà nước cũng không thể để cho dân chúng chịu cảnh thất học mà xét cho cùng, giáo dục quần chúng không phải không đem lại lợi ích cho nhà nước. Càng có học thức, quần chúng càng khỏi bị lừa bịp, càng bớt dị đoan mê tín. Những quốc gia dốt nát thường vì những tệ đoan ấy mà bị những rối loạn khủng khiếp. Lớp quần chúng có học thức bao giờ cũng lịch sự, nhã nhặn và có trật tự hơn lớp quần chúng vô học. Mỗi cá nhân đều biết tự trọng hơn, người trên biết coi trọng người dưới cũng như người dưới biết coi trọng người trên, … Ở những quốc gia tự do, sự bền vững của chính phủ tuỳ thuộc phần lớn ở sự phán xét của quần chúng, vì lẽ đó nên việc quan trọng hơn hết là quần chúng cần phải được học hành để họ đừng phán xét chính phủ một cách bừa bãi hoặc bất thường118).
Theo lý thuyết, cũng như thực tế đã chứng minh được rằng: vận mệnh của chính thể dân chủ phụ thuộc rất nhiều vào giáo dục làm cho giáo dục phải đóng một vai trò vừa quan trọng nhất vừa thiêng liêng nhất trong chính thể này. Tôi tin rằng sẽ có rất ít người hoặc thậm chí không có người nào bác bỏ được điều khẳng định đó. Nếu có người nào đó cố tình bác bỏ sự thật ấy thì chẳng qua người đó chỉ muốn làm Herostratos để đốt Đền Arthémis mà thôi!
Tóm lại, chính thể dân chủ làm cho bản tính vị kỷ trở thành bản tính tốt đẹp để người ta nuôi dưỡng ý thức chân thực về bản tính đó, tức là chính thể dân chủ làm cho người ta có ý thức chân thực về bản tính vị kỷ. Nhân loại chỉ có thể nhận thức được chân thực về chính bản thân trong chính thể dân chủ mà thôi.
Qua khảo sát ba loại chính thể khác nhau đã quy định như thế nào đời sống xã hội, tôi rút ra được một kết luận này: có tự do sẽ có tất cả những điều tốt đẹp mà không tự do sẽ không tất cả những điều tốt đẹp! Với những hệ quả tồi tệ, chính thể chuyên chế đẩy đưa hoặc bắt buộc những kẻ nào thật sự thông thái, vừa quả cảm vừa nhân ái, phải đấu tranh chống lại chính thể này. Nếu không làm việc đó thì không chỉ chính họ mà ngay cả con cháu của họ sẽ phải chịu đựng số phận bi đát nhất. Không cần phải thông minh lắm mà chỉ cần nhìn vào lịch sử bằng cặp mắt thông thường cũng đã có thể thấy được cái tất yếu đó. Tất cả mọi người đều phải hiểu rằng ai cũng sợ chết nhưng chẳng ai thoát chết, rằng vì ai cũng phải chết nên cần phải chết thế nào cho cuộc đời không bị hoài phí, rằng muốn cho cuộc đời không bị hoài phí lại cần phải chống lại chính thể chuyên chế hoặc xây dựng chính thể dân chủ bằng giải pháp hòa bình mới có thể bảo đảm một tương lai tốt đẹp cho con cháu của mình. Dixi et salvavi animam meam ! *
Amen.



116) Voltaire: Thư gửi A. M. Gis ở Fernay, ngày 20 Tháng Sáu 1777.
117) Robert B. Downs: Books That Changed The World (Bản dịch Việt ngữ: Những tác phẩm làm biến đổi thế giới. Nhà xuất bản Văn đàn, Sài gòn 1970. Tác phẩm thứ mười sáu (Albert Einstein với Tương đối luận) từ trang 382 đến trang 399. Đoạn trích trên chạy từ trang 397 đến trang 398). Vũ Đình Phòng và Lê Huy Hòa đã xào nấu cẩu thả ấn phẩm đó thành “Những luận thuyết nổi tiếng thế giới” được xuất bản bằng Việt ngữ bởi Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà nội 1999. Luận thuyết thứ mười sáu (Albert Einstein với Tương đối luận) từ trang 352 đến trang 369. Đoạn trích trên chạy từ trang 367 đến trang 368. Quý độc giả có thể tham khảo trực tiếp “Thế giới như tôi thấy” được tạo tác vào năm 1930 bởi Albert Einstein (1879 – 1955). Việt ngữ. Nhà xuất bản Tri thức, Hà nội 2011, từ trang 24 đến trang 25.
118) Robert B. Downs: Books That Changed The World (Bản dịch Việt ngữ: Những tác phẩm làm biến đổi thế giới. Nhà xuất bản Văn đàn, Sài gòn 1970. Tác phẩm thứ ba (Adam Smith với Quốc phú luận) từ trang 65 đến trang 88. Đoạn trích trên chạy từ trang 84 đến trang 85. Bản dịch này đã được chế biến cẩu thả thành một phiên bản khác bởi Vũ Đình Phòng và Lê Huy Hòa: Những luận thuyết nổi tiếng thế giới, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà nội 1999. Luận thuyết thứ ba (Adam Smith với Quốc phú luận) từ trang 65 đến trang 88. Đoạn trích trên chạy từ trang 85 đến trang 86).
* Tôi đã nói và đã cứu được linh hồn mình!

J. B. Hàvăn Huytoàn
(Viêt vào Tháng Bảy 2004)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét