Thứ Hai, 11 tháng 8, 2014

Việt nam nên làm gì trước khủng hoảng? (2)

Phần 2

TS. Lê Hồng Giang, TS. Trần Vinh Dự và TS. Vũ Thành Tự Anh.
Chia sẻ bài viết này
Hiện nay cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã lan sang khu vực sản xuất với hàng loạt nước công bố GDP giảm mạnh bất kể nhiều gói kích cầu được chính phủ các nước liên tục công bố. Thời báo Kinh Tế Saigon mời các chuyên gia kinh tế là các cộng tác viên quen thuộc của TBKTSG thảo luận qua thư điện tử một số vấn đề nhằm góp phần tìm một chiến lược thích hợp cho Việt Nam trong bối cảnh đó. Tiếp nối bàn tròn qua thư điện tử giữa các chuyên gia kinh tế - tài chính về tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay và những điều rút ra cho Việt Nam, tuần này TBKTSG giới thiệu ý kiến của TS. Lê Hồng Giang, TS. Trần Vinh Dự và TS. Vũ Thành Tự Anh.

Bao giờ đến đáy ?

TS. Lê Hồng Giang
Việc GDP các nước hiện đang giảm không phải là điều đáng ngạc nhiên. Trong các nền kinh tế phát triển, hệ thống tài chính là huyết mạch của nền kinh tế nên khi gặp khủng hoảng nó sẽ làm tất cả các hoạt động kinh tế khác đình trệ. Một ví dụ cụ thể là khi các ngân hàng giảm mạnh việc mở tín dụng thư (L/C) cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong quí 4-2008, ngay lập tức làm đình trệ các lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng xuất nhập khẩu, cho dù cầu của các mặt hàng này vẫn còn. Bên cạnh đó, khi hệ thống tài chính khủng hoảng kéo theo giá cổ phiếu và giá bất động sản suy giảm sẽ làm người dân mất một khoản tài sản lớn, dẫn đến tổng cầu của toàn nền kinh tế giảm.
Cho nên câu hỏi quan trọng nhất ở thời điểm này là liệu các hoạt động kinh tế đã giảm đến đáy chưa? Nếu chưa thì tình trạng suy thoái này còn kéo dài đến khi nào và sẽ còn sụt giảm đến đâu?
Đây là vấn đề gây nhiều tranh cãi giữa các nhà kinh tế. Phe lạc quan cho rằng kinh tế thế giới sẽ sụt giảm đến đáy trong nửa đầu năm 2009 và sẽ bắt đầu phục hồi trong nửa sau năm nay, cùng lắm đến năm 2010 sẽ thoát khỏi suy thoái. Nhóm này tin vào sự phục hồi nhanh vì cho rằng hệ thống tài chính đã qua khỏi cơn nguy cấp và bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Dấu hiệu quan trọng nhất là chênh lệch tín dụng (credit spreads) đã giảm xuống dưới ngưỡng tháng 9-2008. Nhà đầu tư đã bắt đầu chấp nhận rủi ro, ví dụ các hoạt động tận dụng chênh lệnh tỉ giá và lãi suất (carry trade) đã xuất hiện trở lại. Trong tháng 1-2009 số liệu bán lẻ ở nhiều nước đã có dấu hiệu tăng trưởng và lượng hàng tồn đã vượt qua đỉnh và sẽ giảm trong quí 2-2009. Giá năng lượng và nguyên vật liệu thô (commodity) tuy giảm nhiều nhưng đã bắt đầu ổn định. Chỉ số vận tải biển quốc tế BDI đã bắt đầu phục hồi trong hai tháng đầu năm. Điều này cho thấy những chính sách giải cứu và kích thích kinh tế của các nước đưa ra từ cuối năm 2008 đã phát huy hiệu quả.
Ngược lại, nhóm những người bi quan cho rằng thế giới sẽ rơi vào một cuộc suy thoái kéo dài, một tình hình như Nhật Bản thập kỷ 1990, nếu không phải là một cuộc đại suy thoái lần thứ hai giống như giai đoạn 1929-1933. Nhóm này cho rằng những chính sách giải cứu và kích thích kinh tế đã và đang được đưa ra quá chậm và quá yếu nên sẽ không có tác dụng. Các nền kinh tế lớn sẽ rơi vào tình trạng vòng xoáy nợ - giảm phát, điều mà Irving Fisher đã chỉ ra là nguyên nhân của cuộc đại khủng hoảng 1929-1933, tức là giá tài sản sụt giảm buộc các nhà đầu tư và cả các doanh nghiệp phải bán tháo bớt tài sản để trả nợ, điều này lại tiếp tục đẩy giá tài sản xuống thấp nữa. Một khi các chính phủ nhận thấy chính sách kích cầu của mình không hiệu quả họ sẽ đưa ra các chính sách “lợi mình hại người” (beggar-thy-neighbor) như bảo hộ mậu dịch hay đua nhau phá giá đồng nội tệ. Điều này sẽ tiếp tục làm tình hình kinh tế xấu đi và ngăn cản các nỗ lực phối hợp quốc tế giải cứu kinh tế.
Đối với các nước đang phát triển, chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sẽ phải được điều hoà lại với các mục tiêu kinh tế - xã hội trong nước. Các vấn đề môi trường và khai thác tài nguyên sẽ càng ngày càng được quan tâm hơn, ngay cả ở các nước đang phát triển như Việt Nam.

Để trả lời cho câu hỏi kinh tế thế giới sẽ đi về đâu, tôi xin trích dẫn một lời phát biểu mới đây của Dennis Lockhart, Giám đốc Fed Atlanta: tình hình kinh tế không thể tồi tệ vĩnh viễn, không sớm thì muộn nó sẽ phải phục hồi. Chu kỳ kinh doanh luôn luôn có đỉnh và đáy. Hiện tại chúng ta chưa biết đã xuống đến đáy chưa nhưng chắc chắn chúng ta sẽ còn đạt được những đỉnh khác cao hơn những gì chúng ta đã đạt được trong quá khứ.
Một điều gần như chắc chắn là trào lưu tân laissez-faire (học thuyết cho rằng nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế) khởi đầu từ kỷ nguyên Thatcher – Reagan sẽ chấm dứt. Ngay cả Alan Greenspan, người đã rất tích cực ủng hộ cho các chính sách gỡ bỏ các quy định (deregulation) trong thập kỷ 1990, đã phải thừa nhận tái lập hệ thống các quy tắc trong hệ thống tài chính là điều nên làm và cần làm. Tự do hoá thương mại vẫn sẽ được hầu hết các nhà kinh tế ủng hộ, nhưng dòng chảy vốn sẽ bị siết chặt hơn để giảm bớt các bất cân đối quốc tế. Vấn đề phối hợp quốc tế trong các chính sách kinh tế sẽ được xem trọng hơn, do đó vai trò của các tổ chức quốc tế như IMF, OECD, G7/G20 sẽ nổi bật hơn. Đã có đề nghị khôi phục lại vị thế của đồng SDR của IMF để tránh các cuộc khủng hoảng tiền tệ trong tương lai.
Đối với các nước đang phát triển, chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sẽ phải được điều hoà lại với các mục tiêu kinh tế - xã hội trong nước. Các vấn đề môi trường và khai thác tài nguyên sẽ càng được quan tâm hơn, ngay cả ở các nước đang phát triển như Việt Nam
TS. Lê Hồng Giang hiện đang quản lý danh mục đầu tư ngoại tệ cho Công ty Tactical Global Management ở Úc.

Tập trung giải quyết các điểm yếu

TS. Trần Vinh Dự
Đúng là chu kỳ kinh doanh có đỉnh và đáy, về dài hạn mọi chuyện rồi sẽ quay lại bình thường. Tuy nhiên, có thể hàng trăm triệu người trên thế giới sẽ không bao giờ có cơ hội hưởng lợi từ sự thịnh vượng trở lại của nền kinh tế thế giới trong dài hạn.
Về việc làm thế nào để thoát khỏi khủng hoảng, tôi cho rằng cách tiếp cận hiện nay của chính quyền Obama (Mỹ) là hợp lý. Nói ngắn gọn thì nó có ba nhánh: (1) ngăn chặn đà suy giảm của giá nhà đất, (2) chữa bệnh cho hệ thống ngân hàng, (3) kích cầu.
Nếu giá nhà đất ngưng giảm thì bản cân đối tài sản của các ngân hàng cũng không tồi tệ thêm. Tuy nhiên, chỉ riêng việc chặn đà suy giảm của giá nhà thì không đủ vì nhiều ngân hàng hiện nay đã lâm vào tình trạng zombie banks - tức là các ngân hàng có giá trị ròng (net value) nhỏ hơn không.
Để chữa bệnh cho hệ thống ngân hàng thì chỉ có hai cách là hoặc quốc hữu hoá hoặc tặng không tiền cho họ. Cách thứ hai đã được cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Henry Paulson vạch ra từ năm ngoái và đã chứng tỏ thất bại. Cách đầu hiện nay vẫn chưa được chính quyền Obama chính thức công nhận nhưng có lẽ họ sẽ không thể không quốc hữu hoá một số ngân hàng lớn. Nếu đúng như vậy thì có thể nói chính quyền Obama khá quyết đoán và có lý do để hy vọng cuộc khủng hoảng sẽ kết thúc sớm chứ không đi theo mô hình “một thập kỷ bị đánh mất” như ở Nhật Bản.
Trong tình trạng tiêu dùng tư nhân bị thu hẹp thì việc kích cầu của chính phủ là hợp lý. Có nhiều người cho rằng kế hoạch này quá chậm. Tuy nhiên, tôi cho rằng làm được như vậy là rất nhanh. Khó lòng có thể hy vọng việc thông qua một dự luật chi tiêu cả ngàn tỉ đô la Mỹ diễn ra nhanh hơn được.
Theo tôi, có ít lý do để cho rằng khủng hoảng sẽ kéo dài tới năm 2010 và xa hơn, trừ khi chính quyền Obama phạm phải các sai lầm nghiêm trọng trong việc thực hiện các kế hoạch mà họ vừa vạch ra.
Riêng đối với vấn đề các “mô hình” tăng trưởng. Gần đây có một số thảo luận và nhiều người đồng ý rằng : (1) Kiểu tăng trưởng dựa vào mở rộng liên tục tín dụng cho tiêu dùng ở Mỹ trong khoảng 5-6 năm trước khủng hoảng sẽ không còn đất dung thân. Nước Mỹ đang tằn tiện hơn và phần còn lại của thế giới cũng sẽ như vậy. (2) Tăng trưởng dựa vào sự mở rộng liên tục của quy mô sản xuất và đánh cược vào thị trường xuất khẩu sẽ phải được cân đối lại. Bài học này sẽ áp dụng cho cả Trung Quốc, Việt Nam và các nước hướng vào xuất khẩu khác. (3) Tăng trưởng dựa vào đầu tư nước ngoài sẽ khó còn có cơ hội được áp dụng ở Việt Nam vì ít ra là trong tương lai gần. Việt Nam sẽ khó có thể tiếp cận được với nguồn tín dụng rẻ và dễ như trong thời gian vừa rồi.
Chúng ta đang ở trong một thời đại hỗn loạn. Của cải chúng ta tích luỹ được đang mất giá trị với một tốc độ chóng mặt. Con đường ra khỏi mớ bòng bong này còn chưa thực sự rõ ràng. Việt Nam là một nước nhỏ với tiềm lực kinh tế yếu. Năng lực phản ứng của chúng ta cũng rất bị giới hạn. Trong điều kiện đó, ngoài các giải pháp cấp thời (như chính sách kích cầu, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất…), điều quan trọng là tập trung giải quyết dứt điểm các điểm yếu của nền kinh tế vón đã bộc lộ từ lâu nhưng chưa được quan tâm thích đáng:
(1) Trong khoảng hơn một năm qua, Việt Nam thực sự đã trải qua hai cuộc khủng hoảng, một do chúng ta tự gây ra hồi đầu năm 2008 và một do ảnh hưởng của khủng hoảng toàn cầu từ hồi cuối 2008. Không nên trộn lẫn hai cộc khủng hoảng này để mơ hồ rằng tình trạng kinh tế Việt Nam hiện nay là do tác động xấu từ bên ngoài. Cuộc khủng hoảng tài chính, nhà đất, chứng khoán, cùng các vấn đề liên quan đến cán cân xuất nhập khẩu và tỷ giá cần phải được mổ xẻ và tìm bằng được lời giải để ngăn chặn các trường hợp tương tự trong tương lai.
(2) Nguồn lực quốc gia hạn hẹp của chúng ta đang bị phung phí quá mức bởi các tập đoàn kinh tế nhà nước độc quyền. Cá nhân tôi chưa có điều kiện tìm hiểu hết thực trạng của các tập đoàn này, tuy nhiên từ những gì chúng tôi đã được thấy thì có thể nói vấn đề đang rất cấp bách. Để nối lại được mạch tăng trưởng thì Việt Nam nhất định phải triệt để cải tổ các tập đoàn độc quyền trong các ngành công nghiệp xương sống của đất nước.
Bên cạnh chính sách kích cầu, lãi suất… trước mắt, Chính phủ nên tập trung bảo vệ, hỗ trợ để giảm bớt khó khăn cho người nghèo trong giai đoạn khó khăn.

(3) Người nghèo cần phải được bảo vệ và hỗ trợ trong khủng hoảng. Chính phủ chưa làm được gì đáng kể để giảm bớt các khó khăn của người nghèo. Họ là bộ phận dễ bị lãng quên và không được đại diện một cách thích đáng nhưng lại là một trong những tài nguyên có giá trị nhất cho phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay.
(4) Bộ máy nhà nước cần phải có sự cải tổ mạnh mẽ. Thực tế năng lực quản lý kinh tế không phải hàng đầu của Chính phủ trong thời gian qua đã được dư luận mổ xẻ và giới nghiên cứu phân tích nhiều. Trong một nền kinh tế hội nhập toàn cầu như hiện nay, việc thiếu vắng các tinh hoa có quyền ra quyết định trong bộ máy quản lý và điều hành kinh tế của Nhà nước có lẽ là một trong những điểm yếu nhất của nền kinh tế Việt Nam nói chung.
TS Trần Vinh Dự hiện là chuyên gia tư vấn cho tập đoàn ERS Group, Hoa Kỳ.

Thay đổi mô hình kinh tế và mô hình tăng trưởng
TS. Vũ Thành Tự Anh
Được là người phát biểu sau cùng, tôi sẽ tránh nhắc lại những ý kiến của TS. Lê Hồng Giang và TS. Trần Vinh Dự để thảo luận, tất nhiên là chưa thể đầy đủ, về một số thay đổi cần thiết trong mô hình kinh tế và mô hình tăng trưởng của Việt Nam rút ra được từ bất ổn vĩ mô bên trong và khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Về mô hình kinh tế, thực ra không cần đợi đến khi khủng hoảng kinh tế của nước Mỹ và toàn cầu bùng phát người ta mới nói đến sự cáo chung của học thuyết và mô hìnhlaissez-faire thuần tuý, với nghĩa “bàn tay hữu hình” của nhà nước hoàn toàn không cần thiết vì mọi sự đã có “bàn tay vô hình” của thị trường lo liệu. Trên thực tế, phiên bản mới của học thuyết laissez-faire cho rằng sự tự do của thị trường cần được tôn trọng tối đa, còn sự can thiệp của nhà nước (thông qua thuế và điều tiết chẳng hạn) cần bị hạn chế ở mức tối thiểu. Điều mới từ cộc khủng hoảng hiện nay là nó buộc các nước phải xem xét lại mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường – một vấn đề chắc chắn sẽ gây tranh cãi lớn giữa các nhà lý luận, chính trị, làm chính sách và công chúng trên khắp thế giới.
Một câu hỏi quan trọng đối với những quốc gia như Việt Nam là mình có thể học được gì từ cuộc khủng hoảng của những nền kinh tế đi trước ? Có vẻ như một bài học hiển nhiên là nhà nước cần phải can thiệp nhiều hơn vào nền kinh tế. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của các quốc gia có thể rất khác nhau nên “đơn thuốc” cũng không thể rập khuôn. Nếu như việc tăng cường vai trò điều tiết của một nhà nước trong nhiều năm thực hiện chính sách giải quy(deregulation) như nước Mỹ có thể là hợp lý thì chính sách này chưa chắc đã thích hợp, nếu không nói là có thể phản tác dụng, đối với những quốc gia mà vai trò của nhà nước vừa thừa, vừa thiếu như ở Trung Quốc hay Việt Nam.
Hơn nữa, ngay cả khi nhà nước có đủ lý do để can thiệp vào thị trường thì phương thức can thiệp như thế nào cũng phải được cân nhắc. Một biện pháp can thiệp gây tranh cãi của chính quyền Obama là việc quốc hữu hoá một số ngân hàng. Mục đích của chính sách “vạn bất đắc dĩ” này là nhằm ngăn chặn hiệu ứng tiêu cực do sự sụp đổ của các ngân hàng này gây ra cho toàn nền kinh tế Mỹ. Đồng thời, nó đi đôi với một cam kết mạnh mẽ của chính quyền Obama rằng các ngân hàng này sẽ được trả lại cho khu vực tư nhân khi thị trường hồi phục. Hơn thế, chính quyền Obama hy vọng rằng với việc mua cổ phiếu của các ngân hàng gặp khó khăn với giá rẻ để sau này bán lại với giá cao hơn, ngân sách quốc gia kông những không bị mất đi mà còn được bổ sung một khoản đáng kể.
Một biện pháp can thiệp mà Việt Nam đang định sử dụng là yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chia sẻ gánh nặng với chính phủ bằng cách đảm nhiệm thêm một số trách nhiệm xã hội. Kinh nghiệm của thời kỳ bao cấp ở nhiều nước XHCN cũng như trường hợp thất bại gần đây của Fannie Mae và Freddie Mac ở Mỹ cho thấy việc thực hiện chính sách xã hội thông qua các DNNN có nguy cơ thất bại cao. Nguyên nhân là vì một mặt, nó tạo ra sự nhập nhằng giữa chức năng kinh doanh và trách nhiệm xã hội của các DNNN, mặt khác nó dễ dẫn đến sự lạm dụng quyền lực của DNNN nhân danh trách nhiệm xã hội.
Quay lại với trường hợp của Việt Nam, bài học rút ra từ khủng hoảng không phải là sự can thiệp của nhà nước cần nhiều hơn là phải hiệu quả hơn và phù hợp hơn với năng lực vốn có của nhà nước; không phải là dừng chương trình cổ phần hoá mà trái lại, cần tiếp tục cổ phần hoá để cải thiện hiệu quả cho nền kinh tế; không phải là yêu cầu các DNNN phải thực hiện thêm một số trách nhiệm xã hội mà trái lại, phải tách bạch chức năng kinh doanh khỏi chức năng xã hội; không phải là nới lỏng điều tiết đối với DNNN độc quyền mà trái lại, cần điều tiết hiệu quả hơn, đồng thời tăng cường tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh. Trên phương diện cuối cùng này, đề án tái cơ cấu ngành điện của Bộ Công Thương là một chính sách hết sức đúng hướng và cần được nhân rộng trong nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế.
Tình trạng bất ổn vĩ mô bên trong và khủng hoảng kinh tế bên ngoài cũng đòi hỏi Việt Nam phải xem xét lại mô hình tăng trưởng của mình. Thứ nhất, thực tế đã chứng minh rằng mô hình tăng trưởng dựa chủ yếu vào việc thúc đẩy đầu tư của Việt Nam trong nhiều năm qua tuy có thể đem lại tăng trưởng tương đối cao trong ngắn hạn, nhưng đồng thời cũng có thể đẩy nền kinh tế ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng dài hạn và bền vững. Có thể ví nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 như một cỗ xe không chắc chắn nhưng bị thúc phải chạy với tốc độ quá cao nên sự xô lệch, thậm chí rạn nứt là điều không thể tránh khỏi.
Thứ hai, mô hình tăng trưởng phụ thuộc quá nhiều vào nhu cầu bên ngoài mặc dù có thể thích hợp trong điều kiện bình thường nhưng lại khiến nền kinh tế trở nên rất dễ bị tổn thương khi kinh tế thế giới khủng hoảng. Trong bối cảnh ấy, nói chung nền kinh tế trong nước chỉ có thể gượng dậy khi kinh tế thế giới phục hồi theo kiểu “nước nổi, bèo nổi”. Cũng cần phải nói thêm là không chỉ đúng với xuất khẩu, sự phụ thuộc quá nhiều vào “nhân tố nước ngoài” – từ đầu tư trực tiếp, đến đầu tư gián tiếp, đến những mối quan hệ “chiến lược” trong phát triển – đều dẫn tới tình trạng dễ bị tổn thương do thiếu khả năng kiểm soát những nhân tố nước ngoài này.
Thứ ba, mô hình tăng trưởng dựa vào các DNNN quy mô lớn, có vị thế độc quyền trên thị trường trong nước không những tỏ ra thiếu sức chống đỡ đối với khủng hoảng đến từ bên ngoài, mà trong một chừng mực nào đó, còn là nguyên nhân gây ra sự yếu kém bên trong của nền kinh tế. Nếu không có một lượng tín dụng lớn nhưng kém hiệu quả đổ ào ạt vào các DNNN, nếu các DNNN không đầu tư tràn lan ra các lĩnh vực có tính đầu cơ cao như chứng khoán và bất động sản, nếu như hoạt động của các DNNN hiệu quả hơn nhờ kỷ luật của Nhà nước (thông qua việc điều tiết) và kỷ luật của thị trường (thông qua sự cạnh tranh) thì nền kinh tế của Việt Nam đã được chuẩn bị tốt hơn để đương đầu với khủng hoảng từ bên ngoài.
Thứ tư, mô hình tăng trưởng không chú trọng đúng mức tới tính hiệu quả của việc sử dụng năng lượng và sự bền vững trong khai thác tài nguyên thiên nhiên tuy vẫn có thể tiếp tục thành công trong một thời gian nhưng trong dài hạn chắc chắn sẽ phải trả giá rất đắt.
TS. Vũ Thành Tự Anh hiện là Giám đốc nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright và là là nghiên cứu của Chương trình châu Á, trường Quản lý Nhà nước Harvard Kennedy.
http://www.danluan.org/tin-tuc/20090306/viet-nam-nen-lam-gi-truoc-khung-hoang-phan-2

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét