Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Luật Hiến pháp và Chính trị học (5)

Nguyễn Văn Bông

Tháng 8 24, 2013
Xem kì 1kì 2kì 3kì 4
THIÊN THỨ HAI: TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ QUAN CÔNG QUYỀN
MỤC ICHÍNH PHỦ
Đoạn 1: CÁ NHÂN ĐIỀU KHIỂN
Cơ quan hành pháp do một cá nhân điều khiển. Hay nói một cách khác, cơ quan hành pháp là một cá nhân. Cá nhân này có thể là một quốc vương, một nhà độc tài, một Tổng thống, chủ tịch.
Vẫn biết rằng cá nhân này luôn luôn có nhiều vị cố vấn hay cộng sự viên đắc lực phụ tá, giúp nhiều trong công cuộc điều khiển quốc gia. Nhưng cần phải hiểu rằng các cị cố vấn và cộng sự này chỉ có vai trò soạn thảo, thi hành chứ không quyền quyết định.
Hình thức hành pháp do một cá nhân điều khiển được thể hiện qua nhiều loại chế độ chính trị trong lịch sử: Quân chủ, Độc tài, Tổng thống.
Chế độ Quân chủ: Chế độ chính trị trong ấy nhà vua nắm hết chủ quyền thống trị một nước. Nói đến quân chủ, người ta liên tưởng ngay đến một người. Nhà vua nắm quyền Hành pháp. Hơn nữa các nhà chỉ huy hành pháp có tính cách kế thừa, nghĩa là chỉ được lựa chọn trong dòng giống nhà vua.
Chế độ Độc tài: Ở đây nhà độc tài nắm quyền hành pháp sau một cuộc chính biến và thường thường bằng một cuộc chinh phục.
Chế độ Tổng thống: Danh từ “Tổng thống” rất được thông dụng vì chế độ Tổng thống là chế độ mà đa số quốc gia áp dụng trên thế giới hiện nay. Đặc điểm của chế độ Tổng thống – ngoài những yếu tố khác không kém quan trọng mà chúng ta sẽ có dịp bàn đến nhiều – là hành pháp giao cho một cá nhân điều khiển. Và cá nhân này được toàn dân bầu lên.
Đoạn 2: TẬP THỂ ĐIỀU KHIỂN
Nói đến tập thể điều khiển là nghĩ tới một cơ quan hành pháp gồm một số không quá nhiều nhân viên.
Hội đồng, ủy ban, tập đoàn, đó là những danh từ ám chỉ cơ quan hành pháp tùy theo số lượng nhân viên của cơ quan này.
Trên nguyên tắc, tập thể điều khiển có hai đặc điểm:
  1. Tính cách bình đẳng: giữa nhân viên không có chủ tịch, không có phiếu quyết định, không có đẳng cấp.
  2. Tính cách tập thể: tất cả quyết định đều được chấp thuận theo đa số: không nhân viên nào có quyền phủ quyết hay quyền riêng tư nào.
(Ủy ban Cứu quốc của Pháp hội thời Cách mạng – Ủy ban Lãnh đạo Việt Nam 25-8-64)
Nhưng trong thực tế, giải pháp tập thể điều khiển chỉ là hình thức. Luôn luôn một nhân viên của tập thể, trực tiếp hay gián tiếp, đóng một vai trò quan trọng và trở thành một khối lãnh đạo thật sự.
Hơn nữa giữa nhân viên của tập thể thường thường có sự phân nhiệm tùy khả năng của mỗi người. Sự phân chia nhiệm vụ này đưa đến một tình trạng là mỗi người quyết định trong lãnh vực của mình.
Tóm lại, giải pháp tập thể điều khiển, với những đặc điểm và điều kiện khó khăn, vấp phải nhiều trở lực và thường thường đi đến sự giải tán vì lủng củng nội bộ nếu không phải là một hình thức che đậy cá nhân điều khiển.
(Tập đoàn điều khiển ở Nga-Sô sau khi Stalin chết)
Đoạn 3: CÁ NHÂN VÀ TẬP THỂ ĐIỀU KHIỂN
Đây là một hình thức cơ cấu hành pháp thể hiện sự phối hợp cá nhân và tập thể: một người và một ủy ban, một cá nhân và một tập đoàn.
Cơ cấu hành pháp này chúng ta tìm thấy trong “Nội các chế”. Trong chế độ này, cơ quan hành pháp gồm có:
  • Một Quốc trưởng hoàn toàn độc lập
  • Một tập đoàn, gọi là nội các gồm nhân viên do Quốc trưởng chỉ định trong số dân biểu nắm đa số ở Quốc hội
Nội các có hai đặc điểm:
  1. Toàn thể nhân viên nội các hoàn toàn biệt lập đối với Quốc trưởng: mặc dù được chỉ định, họ vẫn có quyền quyết định.
  2. Nội các là một cơ quan có tính cách tập thể; mặc dầu mỗi nhân viên có một lãnh vực riêng biệt nhưng những quyết định chính yếu được chấp thuận chung và tất cả đều liên đới trách nhiệm.
Nhân viên nội các, một cách tổng quát, đều bình đẳng nhau. Tuy nhiên, kinh nghiệm chính trị cho biết rằng thường thường một trong những nhân viên ấy có một ưu thế: địa vị này có thể là hậu quả của một sự thi hành chính trị hoặc đã được ấn định bởi một văn kiện pháp lí. Nhân viên chiếm ưu thế trong nội các chế được gọi là Thủ tướng.
MỤC II: QUỐC HỘI
Quốc hội, Hội đồng Nghị sĩ v.v… ám chỉ cơ quan Lập pháp. Quốc hội: cơ quan công quyền có tính cách tập thể gồm một số đông nhân viên. Nói đến Quốc hội là phải liên tưởng đến một Hội đồng, chứ không thể một người hay một nhóm người.
Đoạn 1: VẤN ĐỀ LƯỠNG VIỆN
Nhìn vào các Hiến pháp của những quốc gia cận đại và lịch sử chính trị, người ta thấy rằng cơ quan Lập pháp – Quốc hội có thể gồm một viện hay hai viện. Thoạt tiên người ta có thể cho rằng độc viện hay lưỡng viện chỉ là giải pháp tổ chức. Nhưng chính giải pháp tổ chức này đã trở thành một vấn đề được tranh luận rất nhiều trong giới chính trị khi đề cập đến Quốc hội. Thường thường người ta đưa ra nhiều lí do để bênh vực cho giải pháp này hay giải pháp nọ; thực ra cuộc tranh luận hoàn toàn có một ý nghĩa chính trị.
A. Nguồn gốc của chế độ lưỡng viện 
Đứng trên phương diện hoàn toàn lịch sử để suy xét, chế độ lưỡng viện xuất phát từ những sự kiện sau đây:
a. Chế độ lưỡng viện có trước nhất ở Anh quốc khi Quốc hội ra đời. Cần nên nhắc lại rằng vào khoảng cuối thế kỉ 13, cơ quan Lập pháp đã được chia ra hai giới: Viện Quý tộc, và Viện Thứ dân. Hình thức này – và đồng thời là hình thức thứ nhất của chế độ lưỡng viện – dựa trên nguyên tắc phân chia giai cấp xã hội: một bên đại diện dòng quý tộc, một bên giữa thường dân có quyền bầu cử. Và vì sự kiện lịch sử này, mà mãi đến ngày nay danh từ Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện vẫn được thông dùng.
b. Chế độ lưỡng viện còn có một nguồn gốc khác vì liên hệ đến chế độ liên bang. Người ta có thể nói rằng chế độ lưỡng viện là hậu quả tất nhiên của cơ cấu đặc biệt của một quốc gia liên bang.
Quốc gia liên bang là một quốc gia, một khối duy nhất nhưng đồng thời lại bao gồm nhiều quốc gia nhỏ; các tiểu bang này có một sự tự trị khá rộng rãi. Vì thế, cơ quan Lập pháp liên bang phải thể hiện hai đặc điểm này.
Trong một quốc gia liên bang người ta tìm thấy, bên cạnh một Hội đồng dân cử đại diện toàn thể nhân dân, có một Hội đồng thứ hai gồm đại diện chính các tiểu bang: Mỹ, Nga, Thụy Sĩ, v.v…
c. Thượng Nghị viện Quý tộc, Thượng Nghị viện thể hiện chế độ Liên bang, ngoài hình thức kể trên, còn rất nhiều giải pháp thực hiện chế độ lưỡng viện, các giải pháp cũng khác nhau về cách tuyển lựa và thành phần của Thượng Nghị viện. Ví dụ:
- Người ta có thể quan niệm một Thượng Nghị viện với thành phần – gồm thân hào, nhân sĩ được chọn lựa trên tiêu chuẩn uy tín tinh thần, chức tước cùng địa vị xã hội.
- Người ta cũng có thể quan niệm một Thượng Nghị viện có tính cách dân chủ, nghĩa là một Hội đồng do dân bầu ra – nhưng với một vài đặc điểm:
* Nhân viên Thượng Nghị viện phải có nhiều tuổi.
* Thượng Nghị viện được bầu một cách gián tiếp.
* Nhiệm kì của Thượng Nghị viện khá dài.
- Một quan niệm thứ ba về Thượng Nghị viện dựa trên ý tưởng rằng quốc gia không phải chỉ có cá nhân mà luôn cả đoàn thể nữa: gia đình, nghề nghiệp, hiệp hội tập đoàn địa phương v.v… Bởi thế, song song với Hạ Nghị viện đại diện cho toàn thể cá nhân, Thượng Nghị viện tiêu biểu cho đoàn thể, sẽ được bầu bởi những hiệp hội nghiệp đoàn, tập thể địa phương v.v…
B. Vấn đề lưỡng viện, một vấn đề chính trị
Lịch sử chính trị cho chúng ta biết rằng vấn đề lưỡng viện là một vấn đề được thảo luận sôi nổi mỗi khi nhà Lập hiến soạn thảo Hiến pháp. Lí do là chế độ lưỡng viện có một ý nghĩa chính trị và liên quan mật thiết đến chính thể dân chủ.
Nếu chúng ta tách rời vấn đề lưỡng viện trong một quốc gia liên bang vì đây chỉ là một hậu quả tất nhiên trong cơ cấu công quyền của chế độ liên bang, và nếu chúng ta không để ý đến Thượng Nghị viện quý tộc hay dựa trên ý tưởng “thân hào, nhân sĩ” vì vấn đề đặt ra là trong một quốc gia thuần nhất mà nguyên tắc dân chủ được tôn trọng, chế độ lưỡng viện bị phủ nhận hay được tán thành như thế nào?
1. Để ủng hộ giải pháp độc viện, người ta cho rằng chế độ lưỡng việnvừa vô ích vừa phản dân chủ. Thật vậy, nếu có hai viện thì:
  • Hoặc hai viện sẽ được bầu như nhau: cũng đồng một nhiệm kì, cử tri, cử tri như nhau, quyền hạn như nhau, thì viện này chỉ là họa phẩm của viện kia, chế độ lưỡng viện trở thành vô ích.
  • Hoặc có một sự khác biệt giữa hai viện trên nhiều phương diện thì lẽ tất nhiên một trong hai viện sẽ có tính cách ít dân chủ hơn. Ví dụ đầu phiếu gián tiếp, nhiệm kì ngắn v.v… Như thế Thượng Nghị viện sẽ là một trở ngại cho việc thực thi dân chủ.
2. Những kẻ chủ trương chế độ lưỡng viện đưa ra một số luận cứ:
a. Thứ nhất: cho rằng chế độ lưỡng viện chắc chắn sẽ đưa đến một kết quả là một trong hai viện sẽ ít dân chủ hơn là một quả quyết hơi vội vàng. Có sự khác biệt giữa hai viện không có nghĩa là đương nhiên hai viện sẽ bất đồng về tính cách dân chủ.
Công luận quốc gia rất phức tạp và tế nhị vì được thể hiện qua sự chuyển động có tính cách đoản kì và trường kì. Vì thế song song với một Hội đồng bầu cử trực tiếp từng khoảng thời gian ngắn để đại diện cho những chuyển động đoản kỳ thì cần phải có một Hội đồng thứ hai ổn định hơn, già dặn hơn, chín chắn hơn để thể hiện những chuyển động trường kỳ của công luận. Cũng cần phải thêm rằng mọi quyết định quan trọng liên hệ đến quốc gia cần phải có sự đồng ý sâu xa, ngẫm nghĩ chín chắn hơn là một sự đồng ý nhất thời của đa số.
Theo chiều hướng ấy. Thượng Nghị viện không phải là một cái thắng mà trái lại là một tay lái để điều hòa những chuyển động quá mức về bên này hay bên kia.
b. Lí do thứ hai là một viện đơn độc sẽ có khuynh hướng quan niệm vai trò của mình một cách độc đoán. Vì độc viện có thể đưa đến một chế độ mà Chính phủ hoàn toàn là ủy viên thừa hành của cơ quan Lập pháp. Một viện đơn độc có khuynh hướng bóp chẹt thiểu số và luôn cả Chính phủ. Trên nguyên tắc, chính thể dân chủ đại nghị không đòi hỏi có hai viện, nhưng trên thực tế chính chế độ lưỡng viện bảo đảm sự thực hành chính thể dân chủ đại nghị và nguyên tắc phân quyền. Sau cùng, chế độ lưỡng viện chặn đứng một phần nào sự ban hành những đạo luật áp chế, lộng hành vì lẽ dĩ nhiên những đạo luật này khó mà xuất hiện vì phải đợi thảo luận và biểu quyết bởi hai viện.
c. Lí do thứ ba là với chế độ lưỡng viện, công việc pháp chế sẽ chu đáo và kỹ càng hơn. Sự kinh nghiệm và tính dè dặt của Thượng Nghị viện cùng sự hăng say và tính cương quyết của Hạ Nghị viện, chắc chắn sẽ đưa đến một kết quả tốt đẹp: những đạo luật hợp lí, hợp tính thể hiện quyền lợi chung của quốc gia, và chu đáo luôn cả trên phương diện kĩ thuật.
3. Trên đây là những luận cứ dựa trên nhiều nguyên tắc mà người ta thường được đưa ra khi đề cập đến vấn đề lưỡng viện. Tuy nhiên, đó chỉ là phụ thuộc. Thật ra, cuộc tranh luận liên quan đến hai quan niệm tương phản về chính thể dân chủ.
Những kẻ chủ trương cần phải thực hiện ngay ý chí của đa số ở Hạ Nghị viện phủ nhận vai trò của Thượng Nghị viện. Trái lại quan niệm rằng muốn có Chính phủ dân chủ cần phải tổ chức cơ quan công quyền một cách thiết thực hầu bảo đảm tối đa tự do chính trị, thì quan niệm này nghiêng về chế độ lưỡng viện vì chế độ này là một trong những phương thức “giới hạn chính quyền”. Người ta có thể nói rằng nguyên tắc phân quyền đi sâu vào giữa cơ quan Lập pháp.
Đoạn 2: TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH QUỐC HỘI
Vấn đề vừa có tính cách kĩ thuật vừa có ý nghĩa chính trị. Biện pháp khác nhau từ quốc gia này đến quốc gia kia. Nhưng chúng ta có thể tìm thấy một số biện pháp chung dựa trên hai ý tưởng chính:
  • Bảo đảm sự độc lập của Quốc hội
  • Thực hiện sự điều hành hữu hiệu của Quốc hội.
A. BẢO ĐẢM SỰ ĐỘC LẬP CỦA QUỐC HỘI
Có nghĩa là tổ chức thế nào để Quốc hội khỏi phải bị sự chi phối của Hành pháp, bảo đảm độc lập tinh thần cũng như vật chất của dân biểu Khóa họp, tổ chức nội bộ, đặc miễn bất kiêm nhiệm, phụ cấp).
a. Vấn đề khóa họp
Nếu Quốc hội chỉ có thể nhóm họp khi Hành pháp triệu tập và đình chỉ phiên họp khi Hành pháp ra lệnh thì tự do và độc lập của Quốc hội bị hạn chế quá nhiều. Trả lại độc lập và tự do của Quốc hội được bảo đảm hoặc bởi nguyên tắc Quốc hội thường trực hoặc bởi khóa họp nhất định.
Nguyên tắc Quốc hội thường trực có nghĩa là tự do nhóm họp bất cứ lúc nào, và lẽ tất nhiên tự do đình chỉ khóa họp.
Nguyên tắc khóa họp nhất định có nghĩa là chỉ có quyền họp một số khóa họp nhất định và trong thời gian nhất định. Thường thường Hiến pháp ấn định số khóa họp và ấn định ngày và thời hạn khóa họp (ví dụ: mỗi năm hai khóa họp và mỗi khóa không quá 3 tháng).
Những khóa họp nhất định là những khóa họp thường lệ, ngoại trừ những khóa họp bất thường có thể triệu tập bởi Hành pháp hoặc tự ý Quốc hội nhóm họp – nếu tình thế đòi hỏi.
b. Vấn đề tổ chức nội bộ
Sự độc lập của Quốc hội được thể hiện qua quyền tự tổ chức lấy những cơ cấu điều hành như Văn phòng, Nội quy và tự định lấy những phiên họp hay nghị trình v.v…
Văn phòng Quốc hội hay của bất cứ Nghị viện nào – gồm một số nhân viên và có nhiệm vụ điều khiển các cuộc thảo luận, đại diện Quốc hội giữa những khóa họp và tổ chức vật chất. Văn phòng là cơ quan đầu não của Quốc hội. Thường thường chính Quốc hội bầu Văn phòng theo thể thức ấn định bởi nội quy.
Nội quy của Quốc hội rất quan trọng về tính chất pháp lí cũng như về đối tượng của nó. Cần phải phân biệt nội quy và những đạo luật mà Quốc hội biểu quyết.
Những đạo luật chỉ có hiệu lực khi ban hành và ngoài lĩnh vực nội bộ của Quốc hội. Trái lại vì mục tiêu của nội quy là ấn định quy tắc áp dụng cho sự điều hành nội bộ của Nghị viện, cho nên nội quy có hiệu lực ngay sau khi được chấp thuận và chỉ có hiệu lực trong nội bộ của một Nghị viện nhất định.
Nội quy dù có một tác dụng pháp lí giới hạn, không kém quan trọng về mặt chính trị. Trong thực tế chính nội quy đem lại một sắc thái linh động cho chế độ Nghị viện: qua bản nội quy người ta có thể quả quyết một phần nào rằng tiếng nói của thiểu số bị bóp chẹt hay được ưu đãi và Quốc hội đã sử dụng tất cả những phương tiện về quyền hành thừa nhận bởi Hiến pháp.
c. Vấn đề đặc miễn của dân biểu
Đặc miễn ở đây tức là ngoại lệ, những quyền hạn đặc biệt trái với nguyên tắc bình đẳng của tất cả công dân trong một chế độ dân chủ. Những đặc miễn này – mà các dân biểu được hưởng để thi hành nhiệm vụ – gồm có hai loại: sự vô trách nhiệm và sự bất khả xâm phạm.
1. Sự vô trách nhiệm nhằm bảo vệ nghị viên khỏi bị truy tố, bắt giam hay xét xử về những lời nói cùng thái độ khi thi hành nhiệm vụ của mình tại Quốc hội. Như vậy, sự vô trách nhiệm bảo đảm tự do phát biểu cũng như tự do biểu quyết. Hậu quả là nghị viên hoàn toàn độc lập, khỏi phải e dè, ngại ngùng và thẳng thắn trình bày ý kiến. Sự vô trách nhiệm, nhằm bảo vệ sự độc lập của dân biểu có tính cách tuyệt đối. Thật vậy, sự vô trách nhiệm chỉ được áp dụng cho các hành vi liên hệ đến nhiệm vụ dân biểu: ý kiến phát biểu trên diễn đàn Quốc hội, các biểu quyết tại Quốc hội. Trái lại viết báo ở ngoài phỉ báng cùng kẻ khác, hay ẩu đả tại Quốc hội, hành hung kí giả hay đồng sự mình có thể bị truy tố. Hơn nữa, tất cả hành vi liên hệ đến nhiệm vụ dân biểu đều được bảo đảm bởi nguyên tắc vô trách nhiệm và không thể trở lại các hành vi này dù rằng vị dân biểu đã mãn nhiệm kì. Sự vô trách nhiệm thường thường được thể hiện trên văn kiện Hiến pháp bằng một câu thế này: ”không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay kết án một dân biểu vì những lời nói hoặc vì những sự biểu quyết tại Quốc hội hoặc tại các ủy ban Quốc hội”.
2. Sự bất khả xâm phạm nhằm bảo vệ tự do của dân biểu chống sự truy tố tầm nã của Chính phủ. Người ta sợ rằng, Chính phủ vì một lí do chính trị, viện cớ những vi phạm ngoài chức vụ, tống giam hoặc uy hiếp những dân biểu đối lập. Sự bất khả xâm phạm có tính cáchtương đối và tạm thời.
  • Tương đối: Sự bất khả xâm phạm không phải áp dụng cho tất cả các cuộc truy tố mà chỉ áp dụng cho các cuộc truy tố nào có thể đem đến một sự giam cầm dài hạn hoặc những tội phạm tiểu hình hay đại hình. Vì thế sự bất khả xâm phạm không được áp dụng cho các tội vi cảnh, hay các vi phạm có tính cách kỉ luật vì tính cách không mấy quan trọng của các vi phạm này. Sự bất khả xâm phạm có tính cách tương đối dưới một khía cạnh khác nữa: Là Quốc hội có quyền truất phế sự bất khả xâm phạm và có thể cho phép truy tố một dân biểu. Hơn nữa sự bất khả xâm phạm đương nhiên không được áp dụng khi có đương trường phạm pháp (nghĩa là bắt quả tang).
  • Tạm-thời: sự bất khả xâm phạm – vì nhằm mục tiêu cản trở sự truy tố – chỉ bảo vệ dân biểu trong suốt nhiệm kì mà thôi. Hơn nữa, có nhiều Hiến pháp lại khắt khe hơn – và ấn định nguyên tắc bất khả xâm phạm chỉ có hiệu lực trong suốt thời gian của các khóa họp Quốc hội.
Hiệu lực của sự bất khả xâm phạm 
Để hiểu rõ hiệu lực của sự bất khả xâm phạm cần phải nhận định ngay rằng: sự vô trách nhiệm là một nguyên tắc về nội dung; sự bất khả xâm phạm là một nguyên tắc về thủ tục: hiệu lực là đình chỉ truy tố và giam cầm. Nói đến đình chỉ là nghĩ đến cái gì bị ngưng lại không có thể tiếp tục hay bắt đầu. Vì thế mà khi không còn lí do gì để đình chỉ nữa – nghĩa là khi Quốc hội cho phép hoặc khi mãn nhiệm kì, dân biểu có thể bị truy tố như bất cứ công dân nào.
d. Vấn đề bất khả kiêm nhiệm
Trong rất nhiều Hiến pháp, chúng ta thấy có điều khoản như thế này: ”Nhiệm vụ dân biểu không thể kiêm nhiệm công vụ được trả lương hay một nhiệm vụ dân cử khác hoặc một chức vụ tư quan trọng”. Sự bất khả kiêm nhiệm nhằm bảo vệ sự độc lập tinh thần của dân biểu. Người ta nghĩ rằng có những chức vụ công hay tư có thể đưa vị đại diện nhân dân đến một tình trạng lệ thuộc và như thế trực tiếp hay gián tiếp phương hại đến sự tự do và độc lập của vị dân biểu ấy. Vấn đề là phải tránh sự kiêm nhiệm chức vụ công hay tư với nhiệm vụ dân biểu.
Chế độ – rộng rãi hay khắt khe – của những bất khả kiêm nhiệm tùy thuộc quan niệm chính trị của mỗi xứ. Một cách tổng quát, chúng ta có thể thấy như thế này:
1. Đối với một công vụ có trả lương
- Nguyên tắc là bất khả kiêm nhiệm. Công vụ có trả lương ở đây có nghĩa là tất cả các công vụ nào do Ngân sách quốc gia đài thọ.
- Ngoại lệ
* Bộ trưởng, Thứ trưởng trong chế độ đại nghị thường thường là những vị dân biểu
* Nhân viên giảng huấn tại các trường cấp bậc đại học và kĩ thuật cao đẳng
* Công vụ đặc biệt có tính cách tạm thời.
- Hiệu lực của sự bất khả kiêm nhiệm: là một sự lựa chọn của đương sự. Nếu một công chức đắc cử dân biểu phải nghỉ giả hạn. Nghỉ giả hạn không có nghĩa là bị loại khỏi cơ quan Nhà nước mà trái lại được đặt trong một tình trạng đặc biệt nhưng đương sự – lẽ dĩ nhiên không hưởng lương bổng – vẫn giữ quyền thăng thưởng và hưu bổng. Nếu một dân biểu chấp nhận một công vụ – được xem là bất khả kiêm nhiệm thì đương nhiên dân biểu ấy được xem là từ chức nhiệm vụ dân biểu của mình.
2. Đối với các nghề nghiệp tư
Lệ thuộc một chủ nhân ông nào – cũng như lệ thuộc Chính phủ – cũng phương hại đến sự độc lập tinh thần của đại diện nhân dân. Hơn nữa, đối với các nghề nghiệp tư, bất khả kiêm nhiệm là nhằm tránh những sự lạm dụng nhiệm vụ dân biểu.
Tuy nhiên, mặt khác, nếu chúng ta áp dụng nguyên tắc bất khả kiêm nhiệm một cách quá cứng rắn, quá tuyệt đối thì e rằng giá trị các dân biểu lại kém đi vì Quốc hội sẽ gồm một số Bác sĩ không bệnh nhân, một số luật sư không thân chủ, một số thương gia không khách hàng, tóm lại một số người đã thất bại khi hành nghề tư của họ.
Vấn đề tế nhị ở đó và vì thế mà sự bất khả kiêm nhiệm cần phải được quan niệm một cách uyển chuyển đối với các nghề nghiệp tư. Một cách tổng quát và theo quan niệm khá rộng rãi, chúng ta có thể nói rằng ở đây, sự bất khả kiêm nhiệm là ngoại lệ mà sự kiêm nhiệm là nguyên tắc. Ngoại lệ được ấn định khi tối cần, ví dụ:
  • Kiêm nhiệm nhiệm vụ dân biểu với chức vụ trong những công ty chuyên về nghiệp vụ tiền tệ hay tín dụng
  • Cấm hẳn dân biểu không được tham dự các cuộc đấu thầu của Chính phủ, không được kí hợp đồng.
e. Vấn đề phụ cấp
Trên nguyên tắc – vì đó là quan niệm cổ điển – người ta cho rằng làm việc công – nhất là đại diện nhân dân – không thể hưởng ân huệ gì. Nhưng ngày nay, vấn đề phụ cấp là một vấn đề cần thiết. Vì nhiệm vụ dân biểu càng ngày càng phức tạp và tốn rất nhiều thì giờ, không thể bảo rằng các dân biểu tự kiếm cách sống. Trong những điều kiện sinh hoạt chính trị và xã hội ngày nay, một đại diện nhân dân không phụ cấp chắc chắn sẽ bị chi phối bởi những đoàn thể áp lực vì các đoàn thể này sẽ mua chuộc họ và lợi dụng họ.
Nguyên tắc phụ cấp dân biểu không thể chối cãi được. Tuy nói rằng phụ cấp – vì danh từ phụ cấp nghe đẹp tai hơn là lương bổng có vẻ một công chức hay tư chức – nhưng phụ cấp dân biểu là một số lương thực sự, vì không những phụ cấp dùng để trả những phí tổn về chức vụ (văn phòng, thư kí, chuyển vận) mà còn phương tiện sinh sống hầu vị dân biểu rảnh trí và dành tất cả thì giờ của mình vào việc thi hành chức vụ cao quýcủa mình là nói lên tiếng nói của nhân dân.
Dân biểu còn hưởng quyền lợi như thư tín, điện thoại, lộ trình v.v…
B. THỰC HIỆN SỰ ĐIỀU HÀNH HỮU HIỆU CỦA QUỐC HỘI
Hai biện pháp thường được áp dụng để thực hiện sự điều hành hữu hiệu của Quốc hội :
  • Chuẩn bị những cuộc thảo luận một cách khoa học
  • Tổ chức những cuộc thảo luận một cách chu đáo.
a. Chuẩn bị những cuộc thảo luận
Để thực hiện mục tiêu này, người ta đi đến việc thành lập các ủy ban. Đặc điểm của ủy ban là mỗi ủy ban có một thẩm quyền đặc biệt liên hệ đến một vấn đề hay một loại vấn đề. Nguyên tắc là bất cứ một vấn đề gì – trước khi đem ra thảo luận tại Quốc hội – phải được một ủy ban có thẩm quyền nghiên cứu trước và thuyết trình. Tóm lại, các ủy ban có nhiệm vụ chuẩn bị các cuộc thảo luận bằng cách nghiên cứu trước các vấn đề hoặc dự án luật rồi làm tờ trình về các vấn đề hoặc dự án luật đó.
Các ủy ban – mà chúng ta vừa đề cập – có tính cách chuyên môn và thường xuyên (Ủy ban Ngân sách và Tài chính, Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Ngoại giao, Nội vụ,…). Ngoài những ủy ban thường xuyên này, Quốc hội có thể – nhân một vấn đề nào đó, ví dụ như Tổng trưởng hay Tỉnh trưởng hối lộ,… lập những Ủy ban Đặc biệt để phụ trách một vấn đề nhất định (ủy ban điều tra). Đặc điểm là ủy ban có tính cách tạm thời nghĩa là sau khi nghiên cứu hoặc điều tra, ủy ban sẽ được giải tán ngay.
b. Tổ chức những cuộc thảo luận một cách chu đáo 
Các cuộc thảo luận tại Quốc hội – lẽ dĩ nhiên – được đặt trên nguyên tắc tự do phát biểu ý kiến của nghị viên. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho biết rằng các cuộc thảo luận cần phải được tổ chức thế nào để tránh hỗn loạn và sự lạm dụng của các diễn giả. Vấn đề là phải ấn định ai nói trước, ai nói sau nghĩa là mỗi người phải đợi đến lượt mình và thời gian phát biểu ý kiến.
Kinh nghiệm đã chứng tỏ một sự lạm dụng khét tiếng tại Anh Quốc: trong thế kỉ thứ 19 tại Hạ Nghị viện Ái Nhĩ Lan, những nghị sĩ phe đối lập đã dùng những bài diễn văn rất dài để cản trở không cho Quốc hội biểu quyết những đạo luật mà họ không bằng lòng [i]. (Họ thay phiên nhau nói giờ này đến giờ nọ, luôn cả buổi ăn, nói sáng đêm; các dân biểu chán quá bỏ ra về rốt cuộc không đủ số không thể biểu quyết được.)
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét