Minh Diện
Hai phiên tòa – một xử dân, một xử quan – không làm yên được lòng dân sau hơn một năm xảy ra vụ Tiên Lãng. Cũng như dân Văn Giang chưa nguôi bức xúc, dù ngọn lửa trên cánh đồng Xuân Quan đã tắt và những kẻ đánh dân đã phải đứng trước vành móng ngựa. Đơn kêu oan và khiếu kiện vẫn mỗi ngày một chất cao như những đống gạch đá củ đậu ở Đông Triều…
Tất cả chỉ vì việc cưỡng chế thu hồi đất, mà nguyên nhân sâu xa từ khái niệm “Sở hữu toàn dân!”, một khẩu hiệu, một “tiêu chí dân chủ”, nhưng lại là “sợi dây trói vô hình” mà người dân chẳng có quyền gì thực chất được tự chủ căn bản và lâu dài! Có người gọi đó là “Lời ru buồn cho đất!”.
Ngày 21-2-1848, bản Tuyên ngôn cùa Đảng Cộng sản, lần đầu tiên xuất bản với vai trò là Tuyên ngôn của Hiệp hội Cộng sản, do đề xướng của K. Marx, đã khẳng định “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu”, và đề ra nguyên tắc phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Bảy trong mười nội dung cơ bản đã được Karl Marx và F. Enghels vạch ra là: “Tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước. Áp dụng thuế lũy tiến cao. Xóa bỏ quyền thừa kế. Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và tất cả những kẻ phiến loạn. Tập trung tín dụng, và tất cả các phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước. Thực hành nghĩa vụ lao động với tất cả mọi người…”.
Thực hiện nguyên tắc đó, năm 1917, Lênin đã ra lệnh tịch thu toàn bộ đất đai của Kulak. Bị tước đoạt “miếng bánh mì” trên tay, những người Kulak sông Đông đã vùng dậy, và máu người Nga đã đổ trong cuộc nội chiến thảm khốc. Trước thực trạng đó, tháng 3-1921, tại Đại hội Đảng Cộng sản toàn Nga lần thứ X, Lênin đã đề ra chính sách kinh tế mới, gọi tắt là NEP, nhằm phục hồi và xây dựng nền kinh tế kiệt quệ sau nội chiến và chiến tranh thế giới. Với chính sách kinh tế mới, nước Nga đã “phải đẩy lùi lại với chủ nghĩa tư bản, phải dùng bàn tay của cả nhà tư bản để cày xới miếng đất xây dựng xã hội chủ nghĩa!” (Lênin). Nội dung chủ yếu của NEP, là trao quyền tự chủ cho nông dân, lấy nông nghiệp làm nền tảng phát triển kinh tế, xây dựng mối quan hệ công nông. Lênin đã có câu nói nổi tiếng rút ruột từ bài học xương máu: “Hãy để cho người nông dân tự suy nghĩ trên luống cày của họ!”.
Năm 1936 bản Hiến pháp của nước Nga được sừa đổi, vấn đề ruộng đất cởi mở hơn, không dùng từ “tước đoạt” như trước, mà đặt ra một khái niệm mới, là “Sở hữu toàn dân”. Dù còn nhiều tranh cãi, nhưng chiến tranh thế giới lấn thứ hai bùng nổ, phát xít Đức tấn công Liên Xô, cuốn nước Nga vào cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, vấn đề tranh chấp nội bộ được gác lại vì sự tồn vong cùa dân tộc.
Bản Hiến pháp năm 1959 của Việt Nam ra đời dựa vào bản Hiến pháp năm 1936 của nước Nga, về đất đai vẫn giành quyền sở hữu cá nhân không quốc hữu hóa như Nga.
Nhưng thực tế, năm 1960, miền Bắc đã tiến hành xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp. Từ “Hợp tác xã bậc thấp” lên “Hợp tác xã bậc cao”. Ở bậc thấp, mỗi gia đình nông dân còn nhìn thấy mảnh ruộng của mình, được hưởng hoa lợi ruộng đất theo tỷ lệ phần trăm, con trâu, cái cày là của riêng. Lên bậc cao, ruộng đất công hữu hóa, không còn chế độ hoa lợi, trâu bò, cày bửa cũng bị sung công. Về cơ bản miền Bắc đã biến đất đai thành tư liệu sản xuât sở hữu toàn dân, dù Hiến pháp vẫn quy định sở hữu cá nhân.
Ông Tố Hữu đã ca ngợi thành quả đó trong bài thơ “Ba mươi năm đời ta có Đảng” như sau:
Dân có ruộng dập dìu hợp tác!
Lúa mượt đồng ấm áp làng quê.
Chiêm mùa cờ đỏ ven đê
Sớm hôm tiếng trống đi về trong thôn!
Quả thật rất vui! Mỗi buổi sáng kẻng vang lên, mọi người tới địa điểm tập trung đi làm việc. Tiếng gọi nhau í ới, tiếng cười, tiếng nói rộn ràng ngõ xóm. Những tổ cày, tổ bừa, tổ tát nước, tổ cấy túm tụm với nhau, tha hồ trò truyện, khói thuốc lào nghi ngút. Chả ai thèm để ý đến thời gian. Khi mặt trời chói chang trên ngọn tre, đội trưởng hò hét, mọi người mới đủng đỉnh ra đồng. Làm việc quấy quá một lúc là trưa, rủ nhau vào gốc đa, bờ tre ngồi tán phét. Chiều vàng mặt trời, “thơ thẩn dang tay ra về”. Cơm nước xong đến nhà tổ trưởng, đội trưởng bình công ghi điểm. Ánh đèn chấp chới như đom đóm khắp đường làng.
Trên vách hội trường hợp các tác xã, các ngã ba, ngã tư đường làng, đỏ rực khẩu hiệu: “Hợp tác là nhà, xã viên là chủ!” và “Mỗi người làm việc bằng hai”, nhưng chẳng ai muốn làm chủ, chẳng ai hăng hái làm việc bằng hai. Khái niệm “làm chủ tập thể” đồng nghĩa với “cha chung không ai thèm khóc”, còn lời kêu gọi làm việc bằng hai, được đáp lại bằng câu ca dao mỉa mai: “Mỗi người làm việc bằng hai, để cho cán bộ mua đài, mua xe!”.
Người xã viên chỉ thực sự làm chủ mảnh ruộng phần trăm. Mỗi gia đình có vài chục mét vuông, nhưng đó lại là miếng cơm, manh áo, là cuộc sống cùa họ. Bao nhiêu suy nghĩ, lo toan, bao nhiêu công sức của người xã viên đều dồn vào đó. Những cánh đồng hợp tác mênh mông, ngoài mấy người trong ban chủ nhiệm, chẳng ai thiết tha nhòm ngó. Ngược lại không ít xã viên tìm cách cấu véo thành quả của tập thể. Cảnh bố mẹ gặt trước cố tình để sót những bông lúa mẩy cho con mót phía sau, hoặc dằn mạnh bó lúa cho thóc rụng xuống bờ để con hót, diễn ra phổ biến trong mùa gặt.
Nhằm củng cố mô hình hợp tác xã nông nghiệp, năm 1963, đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã về huyện Lệ Thủy, Quảng Bình xây dựng điển hình hợp tác xã Phong Thủy. Đầu tư bao nhiêu tiền của, sức lực, nổi lên được ngọn gió Đại Phong. Nhưng ngọn gió ấy chỉ thúc đẩy được 504 hộ dân xã Phong Thủy, huyện Lệ Thủy, không đủ sức lan tỏa cả nước. Cũng như ở Thái Bình, ông Nguyễn Ngọc Trìu dồn sức người, sức của xây dựng hợp tác xã Vũ Thắng, kết quả chỉ làm rung động được trái tim nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý cho ra đời một “Bài ca năm tấn”!
Dù tuyên truyền vận động ráo riết, dù biện pháp hành chính thắt chặt, sức sản xuất vẫn ì, tiêu cực phát triển. Những cánh đồng màu mỡ trở nên cằn cỗi, năng suất thấp. Lúa cấy xong không có người làm cỏ bón phân. Thậm chí lúa chín không có người gặt. Ông Kim Ngọc, Bí thư tỉnh ủy Phú Thọ lúc bấy giờ nhận xét: “Xã viên không coi ruộng đất là của mình nên họ chẳng thiết tha gì với đồng ruộng!”. Hậu quả là, trước mỗi ngày công được ba, bốn cân thóc, teo dần còn một cân, có nơi chỉ còn vài lạng. Gặt về bao nhiêu nộp thuế, nghĩa vụ bấy nhiêu vẫn chưa đủ. Nạn đói âm ỉ tràn từ làng này qua làng khác, bộ mặt nông thôn miền Bắc quắt queo, hốc hác không kém thời nô lệ. Nhà văn Phùng Gia Lộc đã diễn tả cái đói trong phóng sự “Cái đêm hôm ấy đêm gì” như sau:
“Tôi hỏi:
- Nhà ăn rồi hả mẹ?
Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu được tý gì. Nó nói:
- Chỉ nấu cơm cho bà và em ăn thôi. Mẹ với anh Học với con ăn cháo rau má rồi! Bữa nay mẹ luộc nhiều rau cải.
Tôi thấy cay xè trong mắt:
- Thế thì nấu thêm vào! Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van vái ông bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?”
Giữa lúc đó công an, dân quân đến đòi nộp thóc nghĩa vụ. Bà mẹ quỳ xuống lạy:
- Các bác, các anh ơi. Có còn cái gì đâu mà nộp? Các bác, các anh không thấy đàn con hắn đói xanh, đói trong đi à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?”.
Thương dân đói quá, ông Kim Ngọc quyết định phương án táo bạo, thực hiện khoán hộ ở Phú Thọ. Nhờ khoán hộ, cuộc sống người dân Phú Thọ đỡ khổ. Ông Kim Ngọc chỉ làm theo lời Lênin “Để cho người nông dân tự suy nghĩ trên luống cày của mình”, nhưng cuộc đời ông rơi vào bi kịch, bị kiểm điểm, quy kết, oan ức ra đi trong thầm lặng.
Trường Chinh là một trong những người chỉ trích Kim Ngọc dữ nhất, rồi ông nhận ra mình đã sai, ông rất ân hận. Có lẽ vì vậy, năm 1980, trong dự thảo Hiến pháp, với cương vị Chủ tịch Nước, Trường Chinh ký tờ trình Bộ Chính trị, đề nghị vẫn giữ đa thành phần trong quản lý đất.
Nhưng bấy giờ Tổng bí thư Lê Duẩn ở thế thượng phong, và ông đang say sưa với khái niệm “Làm chủ tập thể”, nên không ai dám trái ý ông. Bản Hiến pháp 1980 là “Hiến pháp của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa”, nội dung cơ bản Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và chuyển toàn bộ ruộng đất thành sở hữu toàn dân.
Hậu quả của chính sách làm chủ tập thể đã đưa nền kinh tế đến kiệt quệ. Mọi người làm chủ nhưng chẳng ai làm chủ. Bộ máy quan liêu dẫn tới đặc quyền, đặc lợi tham nhũng. Các hợp tác xã ở miền Bắc tan rã, xã viên chỉ lo cho mảnh ruộng phần trăm của mình, các tập đoàn sản xuất ở miềnNamnhư cha chung không ai khóc, nông dân bỏ ruộng sống vất vưởng buôn bán, hoặc tìm đường vượt biên. Năm 1987, cả nước chỉ đạt được 17 triệu tấn lương thực quy ra thóc. Cùng với sự tác động tiêu cực của chính sách giá lương tiền, lại bị cấm vận, nền kinh tế đổ sụp. Từ chế độ lưu thông phân phối khủng hoảng cung cầu, đẻ ra chính sách ngăn sông cấm chợ. Đất nước như bị chia cắt ra thành từng mảnh nhỏ, nhưng cái đói lại bao trùm toàn lãnh thổ.
Tôi còn nhớ hình ảnh cố nhà văn trung tá Thái Vượng, khoác chiếc ba lô đầy sắn nhảy tàu từNamra Bắc cứu đói vợ con.
Theo thống kê, cả nước ngày ấy 9,5 triệu người thiếu ăn, trong đó 5,2 triệu người đứt bữa và 3,5 triệu người đói.
Từ thực tế đó chính sách khoán 10 ra đời. Đây được coi như quyền sở hữu tạm thời, vì ngoài nội dung khoán đất lúa, đất rừng, mặt nước cho các hộ dân, để họ tổ chức kinh doanh, còn cho phép chuyển nhượng, thừa kế. Chính sách ngăn sông cấm chợ đồng thời được xóa bỏ. Một cuộc cách mạng thật sự của Đảng Cộng sản Việt Nam, chấm dứt nạn đói hoành hành, và như huyền thoại, năm 1989, hơn 1,5 triệu tấn gạo đã được xuất khẩu.
Ông Nguyễn Văn Linh nói: “Ham chủ nghĩa xã hội hình thức là đánh sập nền kinh tế nông dân. Nền kinh tế nông dân bị sập thì khủng hoảng chính trị. Thương dân, thương nước thì phải cởi trói cho nông dân trước. Nông dân đổ mồ hôi và máu mới có đất, không ai được quyền tước đoạt của họ”.
Ông Võ Văn Kiệt đồng quan điểm này với ông Nguyễn Văn Linh. Ông nói: “Tại sao 5% đất giao cho dân có hiệu quả, còn 95% đất của toàn dân lại không đạt hiệu quả? Người nông dân chỉ có thể làm giàu trên chính mảnh ruộng của họ. Đó chính là NEP của Lênin”.
Ông Nguyễn Văn Linh đã chấp nhận giải tán các tập đoàn, giao đất cho dân. Người nông dân phấn khởi nhận lại ruộng, tự chủ canh tác, mùa màng bội thu. Năm 1992 ViệtNamđã xuất khẩu được 3 triệu tấn gạo.
Nhưng “Thương cho cái kiếp má đào, cởi ra rồi lại buộc vào như chơi!”. Cũng là đất đai mồ hôi, nước và cả máu xương bao đời nay người nông dân mới mới có được, nhưng cái câu “sở hữu toàn dân” như sự mồi mớm, mị dân đã sinh ra nhiều hệ lụy. Cùng một chế độ chính trị-xã hội, cùng do Đảng Cộng sản cầm quyền, thế nhưng vị lãnh đạo này hô “cởi trói” cho nông dân, đến vị lãnh đạo khác lại đi trói người nông dân để chiếm đoạt ruộng đất ngay trên luống cày của họ!
M. D.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét