Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

Sinh viên Luật khoa KIẾN NGHỊ về việc sửa đổi Hiến pháp 1992

Hà Nội, ngày 21 tháng 02 năm 2013.

Kiến nghị này được gửi đến toàn thể nhân dân Việt Nam với tư cách là những người nắm giữ quyền lập hiến, đồng thời gửi tới Quốc hội và Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 với tư cách là những cơ quan chủ trì việc thảo luận sửa đổi Hiến pháp của nhân dân.

Chúng tôi, những công dân Việt Nam, đồng thời là những sinh viên và cựu sinh viên Luật, nhất trí ký tên vào bản kiến nghị này với tất cả tinh thần ái quốc và pháp quyền.

Chúng tôi tin rằng, Việt Nam đang đứng trước một trong những cơ hội lớn trong lịch sử để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn thông qua việc sửa đổi Hiến pháp. Và để thiết kế được một bản Hiến pháp tốt cũng như tôn trọng tính thiêng liêng của Hiến pháp, quy trình lập hiến và nội dung của Hiến pháp nhất thiết phải đảm bảo một số tiêu chuẩn tối thiểu.

Trên cơ sở đó, chúng tôi kiến nghị hai vấn đề sau đây:

1. Kiến nghị bãi bỏ thời hạn góp ý sửa đổi Hiến pháp 

Theo Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23-11-2012 của Quốc hội về việc “tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, thời gian lấy ý kiến nhân dân “bắt đầu từ ngày 02 tháng 01 năm 2013 và kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm 2013”, có nghĩa là ba tháng. 

Chúng tôi cho rằng, việc hạn chế thời gian lấy ý kiến nhân dân đối với một trong những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia như vấn đề sửa đổi Hiến pháp, là bất hợp lý.

Thứ nhất, việc đặt ra khoảng thời gian lấy ý kiến nhân dân đồng nghĩa với việc chỉ có những ý kiến được nêu ra và gửi tới các cơ quan có thẩm quyền trong khoảng thời gian đó mới được tiếp nhận và xem xét đưa vào dự thảo Hiến pháp, mọi ý kiến ngoài khoảng thời gian đó đều không có giá trị. Như vậy thời hạn đó đã hạn chế cơ hội của nhân dân trong việc đóng góp để xây dựng một bản Hiến pháp hoàn thiện nhất có thể.

Thứ hai, khoảng thời gian ba tháng mà Quốc hội đưa ra để lấy ý kiến nhân dân trùng với dịp mà người dân phải dành nhiều thời gian cho Tết Dương lịch 2013 và Tết Nguyên đán Quý Tỵ, do vậy, thời gian thực tế mà nhân dân có thể dành để góp ý Hiến pháp không còn nhiều.

Thứ ba, và quan trọng nhất, chúng tôi cho rằng quyền lập hiến là quyền tự nhiên của nhân dân, Hiến pháp cũng là bản thỏa ước của nhân dân với nhau về việc định ra những thiết chế chung cho xã hội (hay còn gọi là khế ước xã hội) và nhân dân mới là chủ thể của quy trình lập hiến, nên nhân dân có quyền góp ý cho dự thảo Hiến pháp sửa đổi cho đến khi Hiến pháp sửa đổi được thông qua trên cơ sở phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đa số nhân dân.

Vì vậy, chúng tôi kiến nghị Quốc hội bãi bỏ thời hạn lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp sửa đổi được nêu trong Nghị quyết số 38/2012/QH13.

2. Kiến nghị ghi nhận và tổ chức để nhân dân thực hiện quyền phúc quyết Hiến pháp 

Quyền phúc quyết Hiến pháp là quyền quyết định đối với Hiến pháp của nhân dân, thông thường được tiến hành thông qua thủ tục trưng cầu dân ý. Trên thực tế, quyền phúc quyết Hiến pháp đã được thừa nhận tại Điều 21, Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và là quy định phổ biến tại các quốc gia văn minh trên thế giới. Mặc dù vậy, qua các bản Hiến pháp và các lần sửa đổi, bổ sung sau này, quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân Việt Nam không còn được ghi nhận.

Quyền lập hiến là quyền tự nhiên thuộc về nhân dân và vì vậy quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân cũng là đương nhiên. Nhân dân là chủ sở hữu của Hiến pháp, với ý nghĩa của Hiến pháp là một thỏa thuận của nhân dân với nhau về việc lập ra một nhà nước và thiết kế những nguyên tắc cùng chung sống trong một xã hội. Hiến pháp là của nhân dân và hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân. Do đó, nhân dân là người phải trực tiếp quyết định các nội dung của Hiến pháp. Việc ghi nhận và tổ chức để nhân dân thực hiện quyền phúc quyết đối với Hiến pháp là việc tất yếu phải thực hiện và đây chính là thời điểm cần phải thực hiện việc này.

Từ quyền lập hiến thuộc về nhân dân mới sinh ra các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, được nhân dân quyết định trao cho nhà nước để quản lý xã hội. Bản thân Hiến pháp hiện hành cũng đã quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Điều đó có nghĩa là, nhân dân có quyền quyết định đối với việc phân bổ quyền lực nhà nước. Việc Quốc hội - một bộ phận của nhà nước - nắm giữ quyền lập hiến, quyết định Hiến pháp thay cho nhân dân, là không phù hợp với nguyên tắc này.

Bên cạnh đó, theo quy định hiện hành, việc sửa đổi Hiến pháp 1992 sẽ được tiến hành theo thể thức: Quốc hội biểu quyết thông qua một Nghị quyết sửa đổi Hiến pháp 1992, và Nghị quyết này của Quốc hội sẽ làm thay đổi nội dung Hiến pháp. Điều này không hợp lý ở chỗ, Nghị quyết của Quốc hội là văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn Hiến pháp, do đó không có giá trị thay đổi nội dung Hiến pháp.

Chúng tôi cho rằng, một bản Hiến pháp ban hành mà không thông qua thủ tục phúc quyết sẽ mất đi phần lớn ý nghĩa vốn có và không được nhân dân cũng như cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Trên cơ sở đó, chúng tôi kiến nghị:

(i) Bổ sung quy định ghi nhận quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân vào dự thảo Hiến pháp sửa đổi.

(ii) Tiến hành thủ tục để nhân dân phúc quyết Hiến pháp trong lần sửa đổi này một cách dân chủ, công bằng và minh bạch. Việc Hiến pháp hiện hành không quy định thủ tục phúc quyết Hiến pháp không cản trở thủ tục này được tiến hành, bởi phúc quyết Hiến pháp là quyền tự nhiên, vốn có của nhân dân.

Lời kết:

Hiến pháp là vấn đề hệ trọng mang tính sống còn của một quốc gia, quyết định tới tương lai đất nước cũng như tương lai của mỗi cá nhân và các thế hệ người Việt Nam sau này. Do đó, việc sửa đổi Hiến pháp cần được tiến hành dựa trên những chuẩn mực khoa học và tinh thần trách nhiệm cao nhất. Với tư cách là những người có chuyên môn về pháp luật, bên cạnh tư cách công dân Việt Nam, chúng tôi - những sinh viên và cựu sinh viên Luật - mong muốn đóng góp trí tuệ và tâm huyết của mình nhằm xây dựng một bản Hiến pháp có giá trị nền tảng cho sự phát triển của đất nước trong một tầm nhìn dài hạn. 

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI KÝ KIẾN NGHỊ:

Đợt 1:

1. Trần Ngọc Cảnh - cựu sinh viên lớp KT29E, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2004-2008; sáng lập viên, Admin Diễn đàn SinhVienLuat.vn; Luật gia.

2. Trịnh Hữu Long - cựu sinh viên lớp KT29A, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2004-2008; sáng lập viên, Admin Diễn đàn SinhVienLuat.vn; Phóng viên. 

3. Trần Duy Bình - cựu sinh viên lớp KT26B, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2001-2005; cựu học viên sau đại học, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Luật gia.

4. Hoàng Duy Tiến - cựu sinh viên lớp KT27E, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2002-2006.

5. Nguyễn Hùng Cường - cựu sinh viên lớp QT28A, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2003-2007.

6. Trần Long - sinh viên lớp 3404, Phó Chủ nhiệm CLB Kĩ năng luật, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2009-2013.

7. Phạm Công Trình - sinh viên lớp 3417, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2009-2013.

8. Trương Thị Thu Hà - cựu sinh viên lớp QT33A, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2008-2012. 

9. Nguyễn Như Chính - cựu sinh viên lớp KT29D, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2004-2008. 


Đợt 2:

10. Vũ Vinh Quang - cựu sinh viên lớp KT33D, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2008-2012.

11. Nguyễn Thế Quân - cựu sinh viên lớp KT33A, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2008-2012.

12. Huỳnh Bá Hải - cựu sinh viên lớp LH 92, mã số sinh viên LH 92546, Khoa Luật, Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, niên khóa 1992-1997; sinh năm 1972, nguyên quán: Quảng Nam.

13. Phạm Lê Vương Các - sinh viên lớp AUF35, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, niên khóa 2010-2014.

14. Nguyễn Văn Đài - cựu sinh viên lớp KT15B, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 1990-1995;  Nguyên phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc (nhiệm kỳ 1998-2002), nguyên thành viên Đoàn Luật sư Hà Nội, Nguyên Trưởng Văn phòng Luật sư Thiên Ân.

15. Đào Văn Dần - cựu sinh viên lớp HC21B, Khoa Hành chính, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 1996-2000; số điện thoại: 0934200400.

16. Lê Minh Thừa - sinh viên lớp HC36B, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, niên khoá 2011-2015.

17. Hoàng Sơn Phú - cựu sinh viên lớp HC19A, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 1994-1998.

18. Lê An - Thạc sĩ, cựu sinh viên Luật khóa 1992-1995, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.


19. Vũ Thị Thu Thủy - sinh viên lớp LKT 10-03, Viện Đại học Mở Hà Nội, niên khóa 2010-2014.

20. Lương Văn Bình - sinh viên lớp 3616, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2011-2015.

21. Trương Minh Tịnh - cựu sinh Viên năm thứ 3, Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, niên Khóa 1972-1975.

22. Lê Văn Hồi - cựu sinh viên lớp HC32D, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 2007-2011; Luật gia.

23. Trịnh Trọng Thủy - sinh năm 1976, cựu sinh viên  lớp K5b Tại chức, Đại học Luật Hà Nội, niên khóa 1995-1999.

24. Võ Minh Khương - cựu sinh viên lớp Q5A, Đại học Luật TP.HCM, niên khóa 2006-2010.

Cập nhật hồi 12h30, ngày 25-2-2013, giờ Việt Nam.


Tiếp tục cập nhật...

Nguồn: http://hienphap.kiennghi.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét