Nho giáo (còn được gọi là Khổng
giáo mà theo Anh văn phiên âm thành Confucianism) là một hệ thống chuẩn mực
về đạo đức, triết lý và tôn giáo, được xác lập nhằm xây dựng một nền chuyên chế bền vững, theo đó cả ba quyền lực khác nhau: lập
pháp, hành pháp và tư pháp, đều được tập trung vĩnh viễn
vào một cá nhân duy nhất được gọi là Vua hoặc Thiên tử.
Khổng Tử chỉ là một
trong nhiều người đã tham gia phát triển Nho giáo nhưng đã
đóng góp nhiều nhất khiến Nho giáo
được hiểu thành Khổng giáo như đã
thấy về thuật ngữ ở trên.
Nho giáo rất phát triển ở
các nước thuộc Đông Á châu, như Tàu, Việt nam, Triều tiên, và Nhật bản. Ở đó, những người chuyên thực hành các chuẩn mực tín
điều được xác lập bởi Nho giáo được gọi là Nho
sỹ, hoặc nhà Nho theo Việt ngữ.
Ở Việt nam hiện nay có
khoảng 70% dân số theo Nho giáo, chưa kể tín đồ thuộc về các tôn giáo khác tuy
tụng niệm kinh bổn theo các tôn giáo khác nhưng vẫn suy nghĩ hoặc hành xử theo
Nho giáo. Một số tổ chức quốc tế cùng với một số học giả nổi tiếng có lẽ không
hình dung được sự thể này mà lại cho rằng Việt nam hiện nay có khoảng 80% dân
số theo Phật giáo. Cứ xem một số thư đề
cử Giải thưởng Nobel về Hòa bình cho Hòa thượng Thích Quảng Độ sẽ biết
ngay.
Nói đến Nho giáo, phải
nói đến Nho gia. Nho gia cấu thành cốt
lõi cho Nho giáo. Đó là một hệ tư tưởng chính trị
nhằm tổ chức xã hội theo nguyên tắc chuyên chế lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống. Để tổ
chức xã hội theo Nho giáo, nhất
thiết phải đào tạo bằng được người cai
trị kiểu mẫu được gọi là quân tử. Quân tức là kẻ làm vua, còn
quân tử là tầng lớp trên trong xã hội,
phân biệt với “tiểu nhân” hoặc những người thấp kém về địa vị xã hội. Sự thể này cho thấy Nho
giáo lấy những người cầm quyền làm đối tượng trung tâm cho mình.
Để trở thành quân tử, trước hết người ta phải “tự đào tạo” hoặc phải “tu thân” theo Tam Cương. Tam Cương được lấy làm điểm xuất phát cho quá trình
tu thân đồng thời cũng được lấy làm điểm
hồi quy cho quá trình đó. Trong quá trình tu thân, nam giới phải đạt được Ngũ
Thường khiến nữ giới phải Tam Tòng để đạt được Tứ Đức. Xong quá trình tu thân, quân tử
phải “hành đạo”, tức là hành xử theo Đạo.
Đạo không đơn giản chỉ có
đạo lý, Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức khiến Đạo ở đây bao hàm cả nguyên lý chung cho vũ trụ vận hành,
nguyên lý đó được xác lập bởi Nho gia (hoặc như họ tự xác quyết mình đã phát
hiện được) đòi hỏi phải được hiểu theo ý
nghĩa nho giáo đồng thời cũng đòi hỏi mọi người phải tuân theo để đạt được
Đạo. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào nhân loại sẽ biểu hiện thành Mệnh hoặc Mệnh Trời làm cho mỗi người
có một số mệnh. Trời chỉ giáng mệnh
làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là kẻ nào nắm được đạo trời hoặc biết
sợ mệnh trời sẽ có mệnh làm vua.
Vậy về mặt chính trị, Đạo biểu hiện cụ thể thành nguyên tắc chuyên chế.
Tu thân là quá trình giáo dục bắt buộc mọi
người phải học tập Tam Cương để nam giới đạt được Ngũ Thường khiến nữ giới
phải Tam Tòng để đạt được Tứ Đức. Nho giáo lấy Tam Cương, Ngũ
Thường, Tam Tòng, Tứ Đức, làm chuẩn mực nền tảng
cho mọi sinh hoạt xã hội: từ chính trị
đến cả kinh tế lẫn tư tưởng. Tam Cương cùng với Ngũ
Thường là lẽ đạo đức đòi hỏi nam giới phải tuân theo để bảo đảm một xã hội
ổn định. Tam Tòng cùng với Tứ Đức là lẽ đạo đức được áp đặt cho
nữ giới phải tuân theo cũng chỉ để bảo đảm một xã hội ổn định. Khổng Tử cho
rằng nếu mọi người đều giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam
Tòng, Tứ Đức, thì xã
hội được an bình.
1/ Tam
Cương: Tam là Ba, Cương là Giềng mối.
Tam Cương tức là ba mối quan hệ bền vững: quân
thần (quan hệ giữa vua chúa với tôi
tớ), phụ tử (quan hệ giữa cha với con), phu
phụ (quan hệ giữa vợ với chồng);
trong đó tôi tớ phải phục tùng vua chúa, con phải phục tùng cha, vợ phải phục
tùng chồng. Cả ba trường hợp đó đều chỉ có sự phục tùng vô điều kiện. Trong xã hội
chuyên chế lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống, các mối quan hệ
này được xác lập theo những nguyên tắc
chết người. (a) Quân thần: “quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung”,
có nghĩa là dù vua chúa có bảo tôi tớ chết, tôi tớ cũng phải tuân lệnh; nếu tôi
tớ không tuân lệnh thì tôi tớ không trung thành với vua chúa; tôi tớ phải trung
thành tuyệt đối với vua chúa. Trong quan
hệ vua tôi, vua chúa thưởng phạt luôn luôn công minh, còn tôi tớ luôn luôn
trung thành một dạ. (b) Phụ tử: “phụ xử
tử vong, tử bất vong bất hiếu”,
có nghĩa là cha khiến con chết, con phải chết; nếu con không chết thì con không
có hiếu với cha. (c) Phu phụ: “phu xướng
phụ tùy, phụ bất tuỳ bất nghĩa”,
có nghĩa là nếu chồng nói ra điều gì thì vợ phải tuân theo điều đó, nếu vợ
không theo thì vợ không có nghĩa với chồng. Xã hội vốn dĩ được cấu thành bởi nhiều quan hệ khác nhau nhưng Nho giáo khái quát tất cả các quan hệ đó thành Tam Cương.
2/ Ngũ
Thường: Ngũ là Năm, Thường là Hằng có.
Ngũ Thường là năm điều hằng có ở đời, bao gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín. (Nhân: lòng yêu thương đối với
muôn loài hoặc vạn vật. Nghĩa: cư xử công bình theo lẽ phải với mọi người. Lễ:
tôn trọng người khác hoặc hòa nhã trong khi cư xử với mọi người. Trí: thông
hiểu lý lẽ hoặc biết phân biệt thiện với ác, hoặc biết phân minh đúng với sai.
Tín: giữ đúng lời hoặc đáng tin cậy).
3/ Tam
Tòng: Tam là Ba; Tòng là Theo.
Tam Tòng là ba điều đòi hỏi nữ giới phải tuân theo, bao gồm: “tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Tại gia tòng phụ: nữ giới khi còn ở nhà
phải theo cha. Xuất giá tòng phu: nữ giới lấy chồng phải theo chồng. Phu tử
tòng tử: nếu chồng qua đời thì nữ giới phải theo con trai), để rồi mới có thể
đạt được Tứ Đức.
4/ Tứ
Đức: Tứ là Bốn; Đức là Tính Tốt. Tứ
Đức là bốn tính nết tốt đòi hỏi phải có ở nữ giới, bao gồm: Công, Dung, Ngôn, Hạnh, (Công: khéo léo trong việc làm.
Dung: hòa nhã trong sắc diện. Ngôn: mềm mại trong lời nói. Hạnh: nhu mỳ trong
tính nết). Trong quá trình tu thân,
người quân tử phải đạt được ba
điều: a/ Đạt đạo. Đạo ở
đây có nghĩa là “con đường” hoặc “phương cách” để người quân tử ứng xử
trong cuộc sống. “Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo
vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè” (sách Trung Dung), tương đương với “quân
thần, phụ tử, phu phụ,
huynh đệ, bằng hữu”. Đó chính là Ngũ Thường hoặc Ngũ
Luân. Trong xã hội, cách thức cư xử
tốt nhất là “trung dung”. Tuy
nhiên, đến Hán Nho, Ngũ Luân được quy tập lại thành Tam Cương hoặc Tam Tòng chỉ còn bao gồm ba
mối quan hệ quan trọng nhất như đã thấy: quân
thần, phụ tử, phu phụ. b/ Đạt đức. Quân tử phải đạt được ba đức: “Nhân – Trí – Dũng”. Khổng Tử nói: “Đức của người
quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi”
(sách Luận Ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay
“Dũng” bằng hai đức khác: “Lễ” và “Nghĩa”, làm cho ba đức trở thành bốn đức: “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí”.
Hán Nho xác lập thêm “Tín” để có tất cả năm đức hợp thành Ngũ Thường
như đã thấy ở trên: “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. c/ Biết về Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn thuộc về cả “đạo” lẫn “đức”, người
quân tử còn phải thành thạo về “thi, thư, lễ, nhạc”, tức là người quân tử còn
phải có vốn văn hóa toàn diện.
Muốn hiểu được đúng đắn về Nho giáo, nhất thiết phải hiểu được đúng đắn nhân loại có bản chất như thế nào đồng thời phải hiểu được đúng đắn về đời sống chính trị. Một lý thuyết khoa học về đời sống chính trị sẽ soi sáng tất cả những giá trị nền tảng cấu thành Nho giáo.
Vừa nghiên cứu lý thuyết vừa trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy nhân loại bao gồm tất cả các cá nhân vừa khác nhau vừa giống nhau: khác nhau về cả thể chất lẫn trí tuệ nhưng giống nhau về bản năng sinh tồn, tức là bản năng ham sống hoặc bản năng sợ chết, biểu hiện cụ thể qua mỗi cá nhân nhất định thành bản tính vị kỷ. Bản năng sinh tồn, tức là bản năng ham sống hoặc bản năng sợ chết, khởi phát từ đâu chỉ có Chúa hoặc Phật mới có thể biết được. Tuy nhiên tôi có thể khẳng định chắc chắn mà không sợ sai rằng bản tính vị kỷ chỉ tốt khi thúc đẩy người ta làm điều tốt hoặc chỉ xấu khi thúc đẩy người ta làm điều xấu. Điều xấu gây hại cho người ta đối lập với điều tốt làm lợi cho người ta. Nho giáo chỉ có thể thấy được sự khác nhau về cả thể chất lẫn trí tuệ giữa các cá nhân mà không hề thấy sự giống nhau về bản tính vị kỷ giữa họ, lại càng không thấy được bản tính vị kỷ có tính chất hai mặt như trên. Đó là một khuyết tật nghiêm trọng làm cho Nho giáo trở thành một trong những triết học phiến diện nhất.
Bản tính vị kỷ biểu hiện thành xu hướng tâm lý lấy mình làm mục đích đồng thời lấy mọi thứ khác làm phương tiện để thoả mãn mình; xu hướng đó biểu hiện thành ba phẩm chất cơ bản: ích kỷ, tư lợi và tham lam. Nho giáo không bao giờ thấy được cái sự thật hiển nhiên như thế. Không thấy được cái sự thật hiển nhiên ắt sẽ không tránh khỏi sự mê lầm dối trá. Không tránh khỏi sự mê lầm dối trá đương nhiên phải trở thành một hệ tư tưởng vong thân, tức là cái hệ tư tưởng làm cho người ta bị mất mình.
Muốn hiểu được đúng đắn về Nho giáo, nhất thiết phải hiểu được đúng đắn nhân loại có bản chất như thế nào đồng thời phải hiểu được đúng đắn về đời sống chính trị. Một lý thuyết khoa học về đời sống chính trị sẽ soi sáng tất cả những giá trị nền tảng cấu thành Nho giáo.
Vừa nghiên cứu lý thuyết vừa trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy nhân loại bao gồm tất cả các cá nhân vừa khác nhau vừa giống nhau: khác nhau về cả thể chất lẫn trí tuệ nhưng giống nhau về bản năng sinh tồn, tức là bản năng ham sống hoặc bản năng sợ chết, biểu hiện cụ thể qua mỗi cá nhân nhất định thành bản tính vị kỷ. Bản năng sinh tồn, tức là bản năng ham sống hoặc bản năng sợ chết, khởi phát từ đâu chỉ có Chúa hoặc Phật mới có thể biết được. Tuy nhiên tôi có thể khẳng định chắc chắn mà không sợ sai rằng bản tính vị kỷ chỉ tốt khi thúc đẩy người ta làm điều tốt hoặc chỉ xấu khi thúc đẩy người ta làm điều xấu. Điều xấu gây hại cho người ta đối lập với điều tốt làm lợi cho người ta. Nho giáo chỉ có thể thấy được sự khác nhau về cả thể chất lẫn trí tuệ giữa các cá nhân mà không hề thấy sự giống nhau về bản tính vị kỷ giữa họ, lại càng không thấy được bản tính vị kỷ có tính chất hai mặt như trên. Đó là một khuyết tật nghiêm trọng làm cho Nho giáo trở thành một trong những triết học phiến diện nhất.
Bản tính vị kỷ biểu hiện thành xu hướng tâm lý lấy mình làm mục đích đồng thời lấy mọi thứ khác làm phương tiện để thoả mãn mình; xu hướng đó biểu hiện thành ba phẩm chất cơ bản: ích kỷ, tư lợi và tham lam. Nho giáo không bao giờ thấy được cái sự thật hiển nhiên như thế. Không thấy được cái sự thật hiển nhiên ắt sẽ không tránh khỏi sự mê lầm dối trá. Không tránh khỏi sự mê lầm dối trá đương nhiên phải trở thành một hệ tư tưởng vong thân, tức là cái hệ tư tưởng làm cho người ta bị mất mình.
Hành đạo.
Sau
khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan hoặc làm chính
trị theo nguyên tắc chuyên chế,
theo đó nếu kẻ nào có mệnh làm vua chúa thì làm vua chúa hoặc nếu kẻ nào không
có mệnh đó thì phải làm đầu sai hoặc tay sai cho vua chúa mới đạt được Đạo vốn chỉ có thể phải được hiểu thành Đạo Nho giáo, tức là Đạo Nô lệ hoặc Đạo Vong thân, làm cho người ta bị
mất mình hoặc bị hoà tan thành nguyên tắc chuyên chế vốn hết sức nghiệt ngã. Nguyên tắc này được
công thức hóa thành “tề gia, trị quốc, thiên hạ bình”, tức là phải hoàn thành từ những việc nhỏ – gia
đình, cho đến việc lớn – trị quốc, rồi cuối cùng phải bình thiên hạ (thống nhất
thiên hạ). Kim chỉ nam cho người quân tử hành xử trong việc cai trị bao gồm hai phương châm: Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình
người, là yêu người hoặc coi người khác như chính mình. Khi trả lời Trọng Cung
hỏi thế nào là nhân, Khổng Tử nói: “kỷ
sở bất dục, vật thi ư nhân”, tức
là nếu mình không muốn điều gì thì đừng làm điều đó cho người khác
(sách Luận Ngữ). Nhân được coi là
điều cao nhất cho luân lý hoặc đạo đức. Khổng Tử nói: “nếu người
không có nhân thì lễ mà làm gì, nếu
người không có nhân thì nhạc mà làm gì?” (sách Luận Ngữ). Chính danh.
Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi theo đúng cái tên đã được đặt cho nó,
theo đó mỗi người phải làm đúng chức phận đã được quy định cho mình. “Nếu
danh không chính thì lời không thuận,
lời không thuận tất việc không thành” (sách Luận Ngữ). Khổng Tử nói với vua Tề Cảnh Công: “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”,
tức là vua chúa phải ra vua chúa, tôi tớ phải ra tôi tớ, cha
phải ra cha, con phải ra con (sách Luận Ngữ). Đó chính là những điều quan trọng nhất cấu thành các kinh sách cho Nho giáo, chúng được
đúc kết thành chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ việc cai trị mà thôi.
Lúc đầu “quân tử” có nghĩa là người cai
trị hoặc người có đạo đức (theo quan điểm nho giáo) đồng thời cũng thành thạo về thi, thư, lễ, nhạc. Về sau, “quân tử” còn được dùng để chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người nào
có phẩm chất cao thượng hoặc phẩm chất tốt đẹp theo quan điểm nho giáo sẽ được gọi là “quân tử”, phân biệt với “tiểu nhân” bao gồm những người nào thiếu đạo đức hoặc có đạo đức chưa hoàn thiện (cũng theo quan điểm nho giáo). Cả “tiểu
nhân” lẫn “quân tử” đều cho thấy Nho giáo lấy sự khác nhau giữa người với người làm phương pháp luận cho mình, tức là xuất phát từ sự khác nhau
đó để bảo tồn sự khác nhau đó đồng thời lập luận bằng sự khác nhau đó để đạt được mục đích đó, Nho giáo bỏ qua hoàn toàn mà không
hề thấy sự giống nhau giữa người với người.
Với bản tính vị kỷ: ích
kỷ, tư lợi và tham lam, người ta sẵn sàng làm hại lẫn nhau đòi hỏi phải có pháp luật để ngăn ngừa mỗi cá nhân nhất định gây nên tổn thất cho các cá nhân
khác trong khi theo đuổi mục đích riêng: tìm kiếm phương tiện riêng để thoả mãn
nhu cầu riêng; đồng thời khuyến khích mỗi cá nhân đó sẵn sàng phục vụ các cá
nhân khác để mình cũng được thoả mãn nhu cầu riêng.
Pháp luật (hoặc luật pháp)
là
những quy tắc xử sự theo nguyên tắc bình đẳng mang tính chất bắt buộc đối với mọi cá nhân cấu thành xã
hội được quy định chung đồng thời được bảo đảm
thực hiện bởi ý chí chung biểu hiện thành những chuẩn mực cụ thể về quyền lợi cùng với nghĩa vụ tương ứng: được làm gì, đồng thời phải
làm gì.
Nho giáo thấy được cái
tất yếu về sự cần thiết phải có pháp luật nhưng vì không thấy được cái sự thật
nói trên nên nó không thể hiểu được rằng pháp luật có thể nghiêm minh nhưng
cũng có thể mù quáng. Nho giáo bắt đầu gây ra tai hoạ từ chính điểm này.
Muốn
có pháp luật, trước hết phải làm ra
pháp luật; làm ra pháp luật rồi lại phải sử dụng pháp luật; trong khi sử dụng
pháp luật lại phải giữ gìn hoặc bảo vệ pháp luật. Nhưng muốn làm được ba việc đó lại đòi hỏi phải có ba quyền lực tương ứng: quyền lực lập pháp, quyền lực hành pháp và quyền
lực tư pháp; trong đó quyền lực lập pháp bao hàm cả quyền lực hành pháp lẫn quyền lực tư pháp hoặc nếu không
có quyền lực lập pháp thì tuyệt đối không thể có cả quyền lực hành pháp lẫn
quyền lực tư pháp; chính vì bao hàm cả quyền lực hành pháp lẫn quyền lực tư
pháp nên quyền lực lập pháp có hai
chức năng đối lập nhau: chức năng quy
định đối lập với chức năng ngăn cản; chức năng quy định là chức năng tự
mình ra lệnh hoặc tự mình sửa lại quyết định đã được đưa ra bởi người khác;
chức năng ngăn cản là chức năng làm vô hiệu hoá quyết định đã được đưa ra bởi
người khác, nhưng nếu đã có thể ngăn cản được thì cũng có thể phê chuẩn được,
mà đã phê chuẩn tức là lại không ngăn cản nữa. Mối quan hệ giữa ba quyền lực đó sẽ cấu thành ba trật tự khác
nhau để tổ chức xã hội.
Trật
tự thứ nhất được gọi là chính thể chuyên
chế, theo đó cả ba quyền
lực khác
nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, đều được tập trung cả vào một cá
nhân duy nhất hoặc một số ít cá nhân
nào đó có chung cả quyền lợi lẫn ý đồ nhưng trong đó lại chỉ có một cá nhân duy nhất nắm quyền quyết
định, tức là xét đến cùng chính thể chuyên chế chỉ tập trung cả ba quyền lực nói trên vào một cá nhân duy nhất
mà thôi. Cá nhân đó được gọi là nhà độc
tài (dictator), tức là một người quyết định mọi việc. Nhà độc
tài tập hợp một đám tay chân thân tín
thành nhà nước chuyên chế hoặc nhà nước độc tài; trên cơ sở đó, nhà độc
tài làm ra pháp luật rồi lại sử dụng pháp luật đồng thời bảo vệ pháp luật. Theo
bản tính vị kỷ thúc đẩy, nhà độc tài sẽ chỉ làm ra pháp luật mù quáng, tức là pháp
luật chỉ bảo đảm lợi ích cho một hoặc một số ít cá nhân nào đó mà thôi (một
số ít cá nhân đó bao gồm nhà độc tài
cùng với đám tay chân thân tín làm tay
sai cho chính nhà độc tài), rồi sử dụng (thi hành) pháp luật đó bằng những phương pháp tuỳ tiện đồng thời bảo
vệ pháp luật đó bằng những phương pháp
độc đoán. Chính vì chỉ có pháp luật mù quáng nên chính thể chuyên chế chỉ
tồn tại được với ba điều kiện cơ bản:
bạo hành, cướp bóc và dối trá. Ba
điều kiện đó bổ sung cho nhau đồng thời dẫn đến ba hệ quả tương ứng: khiếp sợ, bất công và ngu dốt. Sự
thể như sau: bạo hành gây nên sự khiếp sợ
(nhà độc tài phải bạo hành với dân chúng làm cho dân chúng khiếp sợ mà phục
tùng nhà độc tài, nếu nhà độc tài không bạo hành với dân chúng thì dân chúng sẽ
không phục tùng nhà độc tài), cướp bóc
gây nên sự bất công (nhà độc tài phải cướp bóc dân chúng làm cho nhà độc
tài trở nên giàu có nhưng dân chúng lại trở nên nghèo khó, nếu không cướp bóc
thì nhà độc tài sẽ không có phương tiện để cai trị dân chúng), dối trá gây nên sự ngu dốt (nhà độc tài
phải dối trá với dân chúng làm cho dân chúng ngu dốt mà chấp nhận làm tôi tớ
cho nhà độc tài, nếu nhà độc tài không dối trá với dân chúng thì dân chúng sẽ
chỉ đòi hỏi quyền lợi cho mình mà không muốn phải thực hiện nghĩa vụ đối với
nhà độc tài, tức là dân chúng sẽ đòi hỏi được bình đẳng với nhà độc tài). Pháp
luật mù quáng không chỉ gây nên xung đột giữa nhà độc tài với dân chúng mà còn
gây nên xung đột giữa cá nhân này với cá nhân khác, từ đó gây nên xung đột giữa
nhóm người này với nhóm người khác, làm
cho mọi cá nhân đều bị đau khổ như nhau; tức là pháp luật đó không chỉ ngăn cản người ta làm điều tốt đẹp
mà còn thúc đẩy người ta làm điều xấu xa
làm cho bản tính vị kỷ trở thành bản tính xấu xa. Bằng pháp luật đó, chính
thể chuyên chế gò ép mỗi cá nhân nhất định vào một khuôn khổ biệt lập sống bằng kinh tế tự túc làm cho mỗi cá nhân đó trở thành một phần tử cô lập hoặc một cá nhân phi xã hội. Hệ quả này cho
thấy pháp luật mù quáng không những không
nhắm đến mà còn đi ngược lại mục
đích chân chính đã được đề ra từ trước
cho pháp luật, tức là chính thể
chuyên chế làm cho pháp luật trở
thành con số không hoặc pháp luật
không thể tồn tại được với chính thể chuyên chế, chính thể này có thể có hẳn cả
một rừng luật nhưng nó có thể chỉ
dùng luật rừng mà thôi. Chính vì làm
cho pháp luật trở thành con số không hoặc chỉ quy pháp luật về bạo lực nên chính thể chuyên chế làm cho
nhà nước chuyên chế hoặc nhà nước độc tài trở thành nhà nước bạo quyền, tức là nhà nước chỉ
tồn tại bằng bạo lực: được thiết lập bằng bạo lực đồng thời được bảo tồn bằng
bạo lực cũng như chỉ quản lý bằng bạo lực đồng thời bị quản lý bằng bạo lực.
Chừng nào mỗi cá nhân nhất định vẫn có thể tự thoả mãn được mình trong khuôn
khổ biệt lập, chừng đó chính thể chuyên chế còn có thể yên tâm tồn tại được.
Nhưng nếu nhu cầu mà mở rộng hơn khuôn khổ đó khiến mỗi cá nhân nhất định phải
thoả mãn mình bằng những phương tiện cần thiết bên ngoài khuôn khổ đó mới tồn
tại được thì chính thể chuyên chế sẽ bị đe doạ bởi các nguy cơ thầm kín đến từ mỗi cá nhân nhất định, mỗi cá nhân đó
sẽ tự phát phá vỡ cái khuôn khổ biệt lập đang giam hãm mình: cá nhân này sẽ
trao đổi hoạt động với các cá nhân khác để thoả mãn mình: kinh tế đổi chác sẽ thay thế kinh tế tự túc.
Trật
tự thứ hai được gọi là chính thể quý tộc,
theo đó ba quyền
lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, được phân
chia cho hai cơ quan khác nhau: cơ
quan lập pháp thực hiện quyền lực lập pháp đồng thời thực hiện cả quyền lực tư pháp đối lập với cơ quan
hành pháp thực hiện quyền lực hành pháp đồng thời cũng thực hiện cả quyền lực tư pháp, làm cho cơ quan này
có thể bị xét xử bởi cơ quan kia. Chính vì cùng
thực hiện quyền lực tư pháp làm cho cơ quan này có thể bị xét xử bởi cơ
quan kia nên cơ quan lập pháp chỉ thực hiện được nửa vời quyền lực lập pháp
cũng như cơ quan hành pháp chỉ thực hiện được nửa vời quyền lực hành pháp mà
thôi. Cả ba quyền
lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, đều chỉ được
thực hiện nửa vời làm cho chính thể quý tộc chỉ có pháp luật nửa vời mà thôi. Pháp luật này làm cho chính thể quý tộc
đòi hỏi phải có danh diện mới tồn tại
được. Danh diện chỉ đòi hỏi một điều kiện
duy nhất, đó là sự điều độ, theo
đó cái gì cũng phải điều độ. Nhưng vì
cá nhân nào cũng có bản tính vị kỷ: ích
kỷ, tư lợi và tham lam, nên tuyệt đối không thể có cái
gì làm tiêu chuẩn hoặc cơ sở cho sự điều độ. Sự điều độ không
có cơ sở nào hoặc tiêu chuẩn nào để hiện hữu làm cho chính thể quý tộc chỉ tồn
tại được mập mờ mà thôi, tức là chỉ xác định được tương đối. Thực tế chính thể
này chỉ làm bước quá độ từ chính thể
chuyên chế lên chính thể dân chủ. Chính vì chỉ làm bước quá độ như vậy nên
chính thể quý tộc còn có thể biểu hiện thành chính thể quá độ hoặc chính
thể nửa vời.
Trật
tự thứ ba được gọi là chính thể dân chủ,
theo đó ba quyền
lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, được phân chia độc lập với nhau cho ba cơ quan khác nhau: cơ quan lập pháp thực hiện quyền lực lập
pháp, cơ quan hành pháp thực hiện
quyền lực hành pháp và cơ quan tư
pháp thực hiện quyền lực tư pháp; ba cơ quan đó cấu thành nhà nước dân chủ, tức là nhà nước dân
chủ phải được tổ chức theo quy chế phân
lập tam quyền để ngăn ngừa quan chức
nhà nước lạm dụng quyền lực nhà nước. Do quyền lực lập pháp có hai chức năng đối lập nhau: chức năng quy định đối lập với chức năng
ngăn cản, nên cơ quan lập pháp phải được phân chia thành hai thiết chế khác nhau: Thượng Nghị viện phân biệt với Hạ Nghị viện
về cả số lượng thành viên lẫn nhiệm kỳ hoạt động. Để ngăn chặn sự liên kết bất chính dù công khai hay bí mật giữa ba cơ quan đó, chính thể dân chủ phải có
nguyên tắc đa nguyên bình đẳng biểu
hiện thành nhiều tổ chức độc lập hoạt
động bình đẳng theo nguyên tắc đa nguyên để nếu một tổ chức nào đó mà nắm
được cả ba quyền
lực kia thì tổ chức đó sẽ phải bị kiểm sát chặt chẽ (kiểm
tra kết hợp với giám sát) bởi tất cả các tổ chức khác, làm cho ba cơ quan kia
phải thật sự độc lập với nhau. Tiếp theo, muốn cho nguyên tắc đa nguyên bình
đẳng được thực hiện triệt để, chính thể dân chủ phải có chế độ bầu cử tự do để ngăn
ngừa được tệ nạn quan liêu trong nhà nước dân chủ hoặc bảo đảm được sự bình
đẳng thật sự giữa nhà nước dân chủ với toàn thể công dân; chế độ bầu cử tự do
làm cho người ta lựa chọn được những
người có cả tài năng lẫn đức hạnh làm người
lãnh đạo đồng thời cũng làm cho người
lãnh đạo chỉ phụ thuộc vào nhân dân mà phải phục vụ nhân dân, tức là làm cho nhân dân thật sự làm chủ nhà nước
dân chủ. Vậy xét đến cùng, chính thể dân chủ làm cho mọi cá nhân đều có cả
ba quyền
lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mọi cá nhân
đều làm ra pháp luật rồi lại đều sử dụng pháp luật đồng thời đều bảo vệ pháp
luật. Theo bản tính vị kỷ thúc đẩy, mọi cá nhân đều phải làm ra pháp luật nghiêm minh, tức là pháp luật phải bảo đảm lợi ích cho mọi cá
nhân, rồi sử dụng (thi hành) pháp luật đó bằng những phương pháp tự do đồng thời bảo vệ pháp luật đó bằng những phương pháp công bằng. Chính vì
phải có pháp luật nghiêm minh nên chính thể dân chủ chỉ tồn tại được với ba điều kiện cơ bản: 1/ Nhà nước dân chủ
phải được tổ chức theo quy chế phân lập
tam quyền, theo đó nhà nước này phải được phân chia độc lập về nhân sự
thành ba cơ quan khác nhau để thực hiện ba quyền lực tương ứng: cơ quan
lập pháp thực hiện quyền lực lập pháp, cơ quan hành pháp thực hiện quyền lực
hành pháp và cơ quan tư pháp thực hiện quyền lực tư pháp; sự phân chia quyền
lực như vậy làm cho quan chức nhà nước không thể lạm dụng được quyền lực nhà
nước; 2/ Nhà nước dân chủ phải được làm chủ theo nguyên tắc đa nguyên bình đẳng bởi toàn thể nhân dân, theo đó nhà nước này phải bị kiểm sát chặt chẽ
bởi nhiều tổ chức độc lập để ngăn ngừa các điều luật mù quáng dẫn đến tai
hoạ cho dân chúng, cũng như phương
tiện giao thông phải có phanh hãm thật tốt để phòng tránh tai nạn giao thông; 3/ Nhà nước dân chủ phải được bảo
tồn theo chế độ bầu cử tự do hoặc
phải hoạt động theo nhiệm kỳ; sau mỗi
nhiệm kỳ nhất định, nhà nước này phải thay
đổi nhân sự thông qua bầu cử tự do,
theo đó mọi cá nhân đều phải được tham gia lựa chọn những người có cả tài năng
lẫn đức hạnh làm người lãnh đạo đồng thời cũng đều phải được ứng cử làm người
lãnh đạo, nhưng chỉ được ứng cử vào một
trong ba cơ quan khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, nếu
ứng cử vào cơ quan này thì không được ứng cử vào hai cơ quan kia hoặc nếu đắc
cử vào cơ quan này thì phải từ bỏ chức vụ ở hai cơ quan kia để người đắc cử chỉ
nắm được một quyền lực nhất định
trong ba quyền lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quy chế phân lập tam quyền ngăn ngừa được quan chức nhà
nước lạm dụng quyền lực nhà nước. Nguyên tắc đa nguyên bình đẳng bảo đảm cho
nhân dân làm chủ được nhà nước. Chế độ bầu cử tự do làm cho nhà nước phải phụ
thuộc vào nhân dân mà phục vụ nhân dân; chế độ bầu cử đó phải tuân thủ cả quy
chế phân lập tam quyền lẫn nguyên tắc đa nguyên bình đẳng để thực hiện được
triệt để cả hai thiết chế đó, tức là ba điều kiện đó bổ sung cho nhau đồng thời
cùng nhau bảo tồn pháp luật nghiêm minh, pháp luật này lại bảo tồn Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Tự do là tình trạng được làm tất cả những gì có lợi
cho mình đồng thời cũng có lợi cho cả người khác biểu hiện thành toàn bộ các
quyền làm người thuộc về mỗi cá nhân nhất định hoặc nhân quyền như vẫn thường
gọi. Bình đẳng là như nhau hoặc giống nhau về cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ.
Bác ái là yêu thương người khác như yêu thương chính mình. Pháp luật nghiêm
minh ngăn ngừa sự xung đột giữa người với người làm cho mọi cá nhân đều được hạnh phúc như nhau; tức là pháp luật
đó không chỉ ngăn cản người ta làm điều
xấu xa mà còn thúc đẩy người ta làm
điều tốt đẹp làm cho bản tính vị kỷ
trở thành bản tính tốt đẹp, hoặc nói
cụ thể hơn: pháp luật nghiêm minh thúc đẩy người ta hành xử theo đạo đức. Bằng pháp luật đó, chính thể
dân chủ đặt để mỗi cá nhân nhất định vào một
khuôn khổ liên đới sống bằng kinh tế
đổi chác làm cho mỗi cá nhân đó trở thành một cá nhân xã hội. Hệ quả này cho thấy pháp luật nghiêm minh luôn
luôn nhắm đến mục đích chân chính đã được đề ra từ trước cho pháp luật, tức là chính thể dân chủ bảo
đảm cho pháp luật tồn tại hoặc pháp luật chỉ tồn tại được với chính thể dân chủ
mà thôi. Cũng chính vì bảo đảm cho pháp luật tồn tại nên chính thể dân chủ làm
cho nhà nước dân chủ trở thành nhà nước pháp quyền, tức là nhà nước chỉ
tồn tại bằng pháp luật: được thiết lập bằng pháp luật đồng thời được bảo tồn
bằng pháp luật cũng như chỉ quản lý bằng pháp luật đồng thời được quản lý bằng
pháp luật.
Nho
giáo không thể nào hình dung nổi lại có thể có ba trật tự khác nhau như thế để
có thể tổ chức xã hội theo ba nguyên tắc khác nhau mà vì không thấy được bản tính vị kỷ hiện hữu ở mọi cá nhân
nên Nho giáo ắt phải giả định mặc nhiên
rằng chỉ có thể có một trật tự duy nhất
mà thôi: chính thể chuyên chế tập trung cả ba quyền lực khác nhau: lập pháp,
hành pháp và tư pháp, vào một cá nhân duy
nhất (Vua chúa) hoặc một số ít cá nhân nào đó có chung cả quyền
lợi lẫn ý đồ (quân tử) nhưng trong đó lại chỉ có một cá nhân duy nhất nắm
toàn quyền quyết định, tức là xét đến cùng chỉ có một cá nhân duy nhất (Vua
chúa) nắm cả ba quyền lực nói trên
như đã được trình bày ở trật tự thứ nhất.
Rồi theo giả định đó, Nho giáo dồn hết mọi
ưu tư triết học vào củng cố chính thể
chuyên chế bằng Tam Cương.
Do
Tam Cương chỉ có sự xiêu lệch hoặc sự bất bình đẳng đòi hỏi tôi tớ phải phục tùng vua chúa, con cái phải phục tùng cha mẹ, vợ phải phục tùng chồng bằng Tam Tòng, nên Ngũ Luân cũng như Ngũ Thường
(Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín)
cùng với Tứ Đức (Công, Dung, Ngôn, Hạnh) đều bị tha hoá
(chuyển hoá thành cái đối lập thù địch với mình ở bên ngoài mình để chống lại
chính mình) rồi bị vong thân (bị mất
mình).
Quả
thật, bản tính vị kỷ vốn có ở mọi cá nhân (cả vua chúa lẫn tôi tớ, cả
cha mẹ lẫn con cái, cả chồng lẫn vợ, v. v.) luôn luôn thôi thúc mọi cá nhân sẵn sàng lạm dụng mọi thứ làm cho Ngũ Thường cũng như Tứ Đức mà được áp dụng sẽ bị
lạm dụng, Ngũ Thường cũng như Tứ Đức mà bị lạm dụng sẽ chuyển hoá thành các giá trị trái ngược với chúng để rồi
chỉ có tác dụng trái ngược với chính
chúng, tức là bị tha hoá, theo đó Nhân tha hoá thành Bất Nhân, Nghĩa tha hoá thành Bạc Nghĩa, Lễ tha hoá thành Vô Lễ, Trí tha hoá thành Loạn Trí, Tín tha hoá thành Bội Tín, Công tha hoá thành Lãn Công, Dung tha hoá thành Lộn Dung, Ngôn tha hoá thành Lộng Ngôn, Hạnh tha hoá thành Vô Hạnh, để rồi tất
cả các giá trị đó đều chỉ có tác dụng tai
ác rồi bị vong thân. Hãy chứng minh bằng thực tế. Bản tính vị kỷ kích
thích vua chúa lạm dụng “Nhân” để
hãm hại tôi tớ nhằm bảo tồn mình làm cho “Nhân” chỉ có hại cho tôi tớ: tôi tớ càng
“Nhân” với vua chúa sẽ càng bị hãm
hại bởi chính vua chúa. Nhưng bản tính vị kỷ cũng kích thích tôi tớ lạm dụng “Nhân” để chống lại vua chúa nhằm bảo
tồn mình làm cho “Nhân” cũng chỉ
có hại cho vua chúa: vua chúa càng “Nhân”
với tôi tớ sẽ càng bị hãm hại bởi chính tôi tớ. Vậy cả vua chúa lẫn tôi tớ đều
chuyển hoá thành kẻ bất nhân; cứ thế
mở rộng cho tất cả các giá trị khác
trong tất cả các quan hệ khác làm cho
tất cả đều trở thành những kẻ bất nhân, những kẻ bạc nghĩa, những kẻ
vô lễ, những kẻ loạn trí, những kẻ bội tín, v. v., tức là tất cả đều bị
tha hoá. Theo sự tha hoá, tất cả đều hành xử bằng các thủ đoạn thâm độc: ngoài mặt phải tỏ ra Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí
– Tín, nhưng trong lòng lại chỉ ấp ủ
Bất Nhân – Bạc Nghĩa – Vô Lễ – Loạn Trí – Bội Tín. Đến một mức độ nào đó,
sự tha hoá sẽ đạt đến sự vong thân
biểu hiện thành chiến tranh với chết chóc, đau thương, thù hận, v. v.. Như vậy Tam Cương không thể mang lại sự ổn định cho xã hội mà chỉ có thể
gây nên sự hỗn độn cho xã hội mà thôi, tức là Nho giáo cũng có mâu
thuẫn giữa mục đích với phương tiện làm cho Nho giáo trở thành một hệ tư tưởng vong thân.
Nho
giáo chủ trương xây dựng một xã hội ổn
định bằng Tam Cương, tức là lấy ổn định xã hội làm mục đích đồng thời lấy Tam
Cương làm phương tiện để thực
hiện hoặc theo đuổi mục đích. Nhưng vì không lường được bản tính vị kỷ vốn có ở
mọi cá nhân khiến Tam Cương chỉ gây nên sự hỗn độn cho xã hội, tức là phương tiện mâu thuẫn với mục đích, nên
Nho giáo không những không đạt được hoặc không thực hiện được mục đích mà còn
tạo ra hệ quả trái ngược với mục đích để bị vong thân, tức là mâu thuẫn giữa mục đích với phương tiện làm
cho Nho giáo trở thành một hệ tư tưởng vong thân. Vậy theo quá trình vận hành bằng Tam Cương, Nho giáo chỉ tạo ra kết quả thực tế trái ngược hoàn toàn với mục
đích lý tưởng; thay cho việc đưa xã hội vào trật tự ổn định, Nho giáo lại chỉ đẩy xã hội vào tình trạng rối ren mà thôi. Muốn duy trì
sự ổn định nhất thời cho xã hội, Tam
Cương đòi hỏi phải được bảo đảm thực hành bằng bạo lực làm cho Nho giáo có tính
chất hung bạo được ngụy trang tinh vi bởi cái vẻ bề ngoài hết sức tao nhã y như quả đấm thép bọc nhung! Tiên Lễ – Hậu Binh, tức là trước mặt uốn
lưỡi giảo hoạt nhưng sau lưng lại thủ sẵn nắm đấm làm cho Nho sỹ rất dễ trở mặt
mỗi khi bất mãn.
Việc
sinh đẻ vốn dĩ chỉ có tác dụng bảo tồn
làm cho nhân loại tự bảo tồn mình, theo đó cha mẹ sinh ra con cái chẳng qua chỉ
nhằm bảo tồn mình mà thôi, chứ không
hề có bất cứ công lao gì về đạo đức. Nhưng Nho giáo đã gán ghép khiên cưỡng một công lao to lớn
nhất cho việc sinh đẻ làm cho việc
sinh đẻ miễn cưỡng phải trở thành công
lao sinh thành để bắt buộc con cái phải phục tùng cha mẹ bằng cái được gọi
là Hiếu, rồi mở rộng Hiếu để bắt buộc tôi tớ phải phục tùng vua chúa bằng cái
được gọi là Trung, Trung cũng như
Hiếu lại đòi hỏi vợ phải phục tùng chồng bằng cái được gọi là Nghĩa để tất cả tôi tớ đều phải phục
tùng vua chúa. Tôi tớ phục tùng vua chúa dựa vào Ba nền tảng căn bản: con cái
phụ thuộc vào cha mẹ, tôi tớ phụ
thuộc vào vua chúa, và vợ phụ thuộc
vào chồng, cấu thành logic nội tại
cho Tam Cương. Tam Cương tồn tại bằng
chính công lao sinh thành vốn chỉ có giá trị ngoại lai được gán ghép khiên
cưỡng cho việc sinh đẻ làm cho việc sinh đẻ có một ý nghĩa mơ hồ (đầy tư biện hoặc không thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm). Ý nghĩa đó làm cho Nho
giáo có một niềm tin mù quáng cho
rằng: nếu có thể sinh đẻ được thì sẽ
có Hiếu (công lao to lớn!?) nhưng nếu
không thể sinh đẻ được (tuyệt tự) thì
sẽ không có Hiếu (bất hiếu, tội lỗi
tày trời!?). Niềm tin này có thể mang lại lợi
lộc cho người nào có thể sinh đẻ được
nhưng chắc chắn sẽ mang lại tai hoạ
cho người nào không thể sinh đẻ được;
hơn nữa, vì Nho giáo đòi hỏi vợ phải phụ thuộc
vào chồng dẫn đến trọng nam – khinh nữ nên niềm tin này có thể mang
lại lợi lộc cho người nào sinh đẻ được nam
nhi nhưng lại có thể mang lại thua
thiệt cho người nào chỉ sinh đẻ được nữ
nhi thôi. Vậy rất rõ ràng, cái công lao sinh thành vốn dĩ chỉ có giá trị
ngoại lai được gán ghép khiên cưỡng cho việc sinh đẻ đã mang lại tác dụng tai ác nhất cho Nho giáo. Vì
cấu thành cơ sở nội tại cho Tam Cương nên cái công lao đó mà bị làm
cho tiêu tan bởi nhận thức đúng đắn
sẽ làm cho Tam Cương bị mất cương (hết thiêng!).
Muốn
bảo tồn được mình, cha mẹ còn phải khai
minh cho con cái chứ không được áp
đặt cho con cái, tức là phải giáo dục con cái bằng kiến thức đúng đắn chứ không được giáo dục con cái bằng kiến thức sai lầm, làm cho giáo dục chỉ nhằm khai minh chứ không phải nhằm áp
đặt. Nhưng Nho giáo lại làm cho giáo dục không phải nhằm khai minh mà chỉ
nhằm áp đặt, theo đó: “cha mẹ đặt đâu, con cái phải ngồi đấy”, để rồi dẫn đến: “quân xử thần tử, thần bất tử
bất trung; phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu; phu xướng phụ tùy, phụ bất tuỳ bất nghĩa”, tức là nếu vua chúa bắt buộc tôi tớ chết
thì tôi tớ phải chết, nếu tôi tớ không chết thì chứng tỏ tôi tớ không trung
thành (Bất Trung) với vua chúa; nếu
cha bắt buộc con chết (đòi lại công lao sinh thành!?) thì
con phải chết, nếu con không chết thì chứng tỏ con không có hiếu (Bất Hiếu) với cha; nếu chồng bắt buộc vợ
theo thì vợ phải theo, nếu vợ không theo thì chứng tỏ vợ không có nghĩa (Bất Nghĩa) với chồng. Đối với Nho giáo,
nghĩa vụ chỉ có một chiều bắt buộc người này phải thực hiện nghĩa vụ với người
kia mà không bắt buộc người kia
phải thực hiện nghĩa vụ với người này, tức là Nho giáo hoàn toàn không có ý
niệm gì về nghĩa vụ với nhau (nghĩa vụ thống nhất với quyền lợi)
hoặc không hề đòi hỏi người ta phải thực
hiện nghĩa vụ với nhau (nghĩa vụ song hành với quyền lợi)
làm cho giáo dục chỉ nhằm áp đặt mà không phải nhằm khai minh.
Chính vì chỉ nhằm áp đặt cho con cái phải phục tùng cha mẹ, vợ phải phục tùng
chồng, tôi tớ phải phục tùng vua chúa, nên giáo
dục bằng Nho giáo chỉ củng cố Tam
Cương để đẩy đưa người ta đến sự vong thân mà thôi. Vậy Nho giáo không thể
bảo tồn nhân loại mà chỉ có thể huỷ diệt nhân loại hoặc ít nhất cũng chỉ có thể
làm cho nhân loại bị đau khổ thôi.
Nho
giáo có tính chất hiểm độc thể hiện ẩn
ngầm qua việc gán ghép khiên cưỡng
công lao to lớn nhất cho việc sinh đẻ làm cho việc sinh đẻ miễn cưỡng phải trở
thành “công lao sinh thành” rồi dùng quan hệ gia đình vào việc củng cố chính
thể chuyên chế bằng chính Tam Cương vốn chỉ tồn tại được bằng “công lao
sinh thành” làm cho người ta bị tha hoá
rồi bị vong thân. Không hiểu được tính chất này sẽ không hiểu được đúng đắn
về Nho giáo.
Khổng
Tử suốt đời hô hào vận động người ta thực hành Nho giáo bằng nhiều giáo huấn hoa mỹ. Nhưng khi nói
rằng: “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, tức là nếu mình không muốn điều gì thì đừng làm điều đó cho người
khác (sách Luận Ngữ),
Khổng Tử đã không thể hình dung được rằng: nếu mình không muốn điều gì mà người khác lại muốn điều đó thì mình
có thể nên làm điều đó cho người khác! Vậy Khổng Tử chỉ biết mình muốn gì
mà không biết người khác muốn gì, hoặc thậm chí ông chỉ biết mình không muốn
cái gì mà không biết người khác lại có thể muốn cái đó, sâu xa hơn nữa ông
không hề biết bản tính vị kỷ hiện hữu ở
mọi cá nhân.
Vì
chỉ lấy quân tử làm căn bản cho mình (không thấy được sự giống nhau giữa người với người mà chỉ
thấy được sự khác nhau giữa người với người) nên Nho giáo đã bảo vệ chính thể
chuyên chế bằng một hệ thống giá trị hết
sức nghiệt ngã như đã được trình bày ở trên. Chính thể này vốn chỉ có mâu thuẫn đối kháng mà không hề có mâu thuẫn thống nhất làm cho Nho giáo
càng bộc lộ rõ ràng mâu thuẫn đối kháng
vốn có ngay từ nội tại.
Nếu
chưa tính đến Nho giáo vào các giai đoạn sau, như Hán Nho hoặc Tống Nho, v.
v., thì Nho giáo Nguyên thủy
đã chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn đối kháng về nguyên tắc lập luận; ví dụ, Khổng Tử chủ trương “lấy dân làm gốc” nhưng lại đặt để dân
thành “tiểu nhân”, v. v.. Do chỉ có
mâu thuẫn đối kháng như vậy đồng thời chỉ được dùng vào việc bảo vệ chính thể
chuyên chế vốn cũng chỉ có mâu thuẫn đối kháng nên theo quá trình vận hành bằng
Tam Cương, Nho giáo luôn luôn gây nên
sự tha hoá: quân tử tha hoá thành tiểu nhân, trung thành tha hoá thành phản trắc, chính danh tha hoá thành loạn danh, v. v., làm cho các Xã hội Nho
giáo lúc nào cũng lộn xộn cùng cực với nhiều
tai hoạ khủng khiếp. Đặc biệt nó làm cho người ta khinh bỉ nhau hoặc thậm chí thù
ghét nhau rồi triệt hạ lẫn nhau
bằng nhiều thủ đoạn thâm độc nhất.
Quả thật, các mâu thuẫn đối kháng ngay từ nội tại đã giải thích được tại sao
Nho giáo dễ dàng được dùng làm nền tảng
tư tưởng (hệ tư tưởng chính chống) cho chính
thể chuyên chế vốn hết sức nghiệt ngã
ở một số nước thuộc Đông Á châu mà
điển hình nhất thuộc về nước Tàu,
chính thể này lại làm cho các nho sỹ
tranh nhau làm đầy tớ hạng nhất cho Vua chúa hoặc các nhà cầm quyền chuyên chế
rồi đẩy các nho sỹ vào các cuộc đấu đá chí chết với nhau trong
cuộc tranh giành đó khiến họ phải dùng các
thủ đoạn thâm độc nhất để triệt hạ lẫn nhau. Chính hệ quả này đã làm cho
người ta thường nói rằng: “thâm nho”
hoặc “thâm như nho”!
Một
số chuẩn mực đạo đức, bao gồm cả Ngũ Thường lẫn Tứ Đức, có thể tốt nhưng lại chỉ được dùng làm phương tiện chính trị để bảo tồn cả Tam Cương lẫn Tam Tòng,
tức là chỉ phục vụ việc cai trị hoặc bảo vệ các quan hệ bất bình đẳng mà
thôi. Chính vì chỉ được dùng làm phương tiện chính trị để bảo vệ các quan hệ
bất bình đẳng nên các chuẩn mực đạo đức nói trên bị mất hết nội dung thực chất rồi chỉ làm cái hình thức trái ngược cho các chuẩn mực phản đạo đức. Nhân chỉ để Bất Nhân, Nghĩa chỉ để Bạc Nghĩa, Lễ chỉ để Vô Lễ, Trí chỉ để Loạn Trí, Tín chỉ để Bội Tín;
hoặc Công chỉ để Lãn Công, Dung chỉ
để Lộn Dung, Ngôn chỉ để Lộng Ngôn, Hạnh chỉ để Vô Hạnh, v. v.. Chẳng hạn, vua chúa có
thể cũng yêu dân chúng nhưng chẳng qua cũng chỉ như chủ chăn yêu đàn cừu mà
thôi: nuôi cừu chỉ để ăn thịt cừu!
Chính Mao Trạch Đông cũng như các vua chúa trước đó ở nước Tàu đã chứng tỏ rõ ràng như vậy. Do
có mâu thuẫn đối kháng ngay từ nội tại nên dù được áp dụng vào bất cứ
nước nào, Nho giáo cũng chỉ gây nên tai hoạ cho nước đó. Quả thật, được dùng
làm nền tảng tư tưởng cho chế độ chuyên chế, Nho giáo làm tê liệt
khả năng nhận thức rồi dẫn dắt người ta đi từ tai hoạ này đến tai hoạ khác.
Nhật bản thay thế kinh tế tự túc bằng
kinh tế đổi chác hoặc kinh tế thị trường như vẫn thường gọi từ
khoảng giữa thế kỷ XIX nhưng vẫn giữ nguyên chế
độ chuyên chế lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng. Chính vì chỉ cải cách kinh tế mà không cải cách chính trị hoặc không xoá bỏ chế độ chuyên chế nên Nhật
bản đã phát sinh nhà nước fascist để
rồi lao vào một cuộc chiến tranh tự huỷ
diệt từ năm 1941 đến năm 1945 với một kết cục bi thảm: hai quả bom nguyên tử được ném xuống Nhật bản bởi Quân đội Mỹ. Chỉ
đến lúc đó Nhật bản mới thật sự thức tỉnh hoặc được giải thoát khỏi Nho giáo.
Nước Tàu vẫn chưa được giải thoát khỏi cái
vòng luẩn quẩn theo cách mạng bạo lực
từ nền chuyên chế này đến nền chuyên chế khác, ở đó nền chuyên chế
cộng sản về bề ngoài có vẻ đối nghịch với nền chuyên chế nho giáo nhưng về thực
chất lại tương đồng với nền chuyên chế nho giáo hoặc cả hai nền chuyên chế đó
đều chuyên chế như nhau, Đảng Cộng sản Tàu đang từ bỏ dần dần Mã giáo, tức là Mã Khắc Tư Chủ nghĩa hoặc Chủ
nghĩa Marx (Marxism), để quay trở
về Nho giáo, họ đang xây dựng rất nhiều Học
viện Nho giáo trên khắp nước Tàu; sự thể này cho thấy nước Tàu từ năm 1978 đến nay đang tái diễn Nhật bản từ giữa thế kỷ XIX
đến đầu thế kỷ XX, việc này đang làm cho cả thế giới lo sợ, Khu vực Đông Á
châu đang nóng lên từng ngày. Bắc Triều tiên phải làm một vệ sỹ bất đắc dỹ cho nước Tàu. Còn Việt nam đang bị lôi cuốn
theo nước Tàu về cả ba mặt: kinh tế, chính trị và văn hoá – tư tưởng, nhưng
chẳng những không đe doạ được ai mà còn bị đe doạ bởi chính nước Tàu!
Các
chuẩn mực đạo đức nói trên, bao gồm Ngũ
Thường cùng với Tứ Đức, chỉ thật
sự có giá trị tích cực trong chính thể dân chủ mà thôi: pháp luật
nghiêm minh bắt buộc mọi cá nhân đều phải biết hành xử theo đạo
đức làm cho Nhân phải thành Nhân,
Nghĩa phải thành Nghĩa, Lễ phải thành
Lễ, Trí phải thành Trí, Tín phải thành Tín, v. v.. Thực tế sinh động đã xác nhận sự thể này. Quả thật,
chính nhờ có chính thể dân chủ từ năm
1946 đến nay mà Dân tộc Nhật bản
đã biết hành xử thuần thục theo đúng các chuẩn mực đó. Một số dân tộc khác, như
Đài loan cũng như Nam Triều tiên, cũng chỉ nhờ có chính thể dân chủ mà đang
tiến triển nhanh chóng theo chiều hướng như vậy, nếu không bị hãm hại bởi chế độ độc tài ở nước Tàu cũng như Bắc
Triều tiên thì các dân tộc đó cũng sẽ thăng hoa như Dân tộc Nhật bản.
Làm
nền tảng tư tưởng cho chính thể chuyên chế, Nho giáo ắt phải
mang những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một,
sùng bái bạo lực thể hiện qua “Dũng”, một trong ba đức phải có ở người
quân tử. Tuy nhiên “kẻ nào có Dũng mà
ghét cảnh bần hàn tất sẽ làm loạn” như đã được xác quyết chắc chắn bởi
chính Khổng Tử, làm cho các Xã hội Nho giáo phải thường xuyên trải
nghiệm cách mạng bạo lực.
Hai,
lập trường đế quốc thể hiện qua thái độ tự tôn đối với chính mình hoặc thái độ coi khinh đối với các
dân tộc khác. Khổng Tử nói: “các
nước Di cũng như Địch dù có vua nhưng cũng không bằng Hoa hạ (Trung hoa)
không có vua”. Lập trường này được dùng làm nền tảng tư tưởng cho
chính sách bành trướng.
Ba, nô dịch nữ giới thể hiện qua việc đặt
để nữ giới vào địa vị phụ thuộc, từ đó dẫn đến thái độ khinh bỉ đối với nữ
giới: “chỉ hạng đàn bà cũng như tiểu nhân thường khó dạy bảo, gần họ
sẽ làm cho họ nhờn, xa họ sẽ làm cho họ oán hờn” (Khổng Tử), làm cho
nữ giới thường có ảo tưởng thảm hại về chính mình. Cứ lặng lẽ quan sát các nước
chuyên chế lấy Nho giáo hoặc một tư tưởng tương tự làm hệ tư
tưởng chính thống, sẽ thấy nhiều phụ nữ bị đau khổ cùng cực nhưng vẫn cứ
tin tưởng rằng mình đang được sung sướng nhất trên đời!
Bốn, thái độ bất dung thể hiện qua nguyên
tắc độc đoán; do làm công cụ tư tưởng cho một người cai trị mọi
người theo nguyên tắc chuyên chế nên Nho giáo không chấp nhận các
quan điểm khác biệt với mình đồng thời chủ trương trừng phạt nghiêm khắc
đối với mọi tư tưởng khác.
Năm,
tiêu diệt sự sống không chỉ thể hiện qua việc áp bức nghiệt ngã đối với từng
cá nhân nhất định mà còn thể hiện qua việc ngăn cách phá hoại đối với sự
giao kết hài hòa giữa nam giới với nữ giới, sự giao kết đó vốn tuyệt đối
cần thiết để bảo tồn nhân loại nhưng lại bị ngăn cách phá hoại bởi một quan
niệm tai ác nhất: “nam nữ thụ thụ bất thân”!? Quan niệm này không chỉ
chống lại nhân loại mà còn chống lại cả tự nhiên nữa, không chỉ chống lại đạo
người mà còn chống lại cả đạo trời nữa. Thật quái lạ: một hệ tư tưởng nhân
danh đạo trời lại chống lại cả đạo trời!
Vân vân.
Với các đặc điểm đó, Nho giáo cũng chỉ thuộc về tư
tưởng vong thân như đã nói ở trên. Sự thật này thể hiện rõ ràng hơn qua thuật
ngữ được dùng để chỉ Nho giáo. Cứ chiết tự sẽ thấy được ngay:
Theo
Hán tự, chữ “Nho” (儒) được tạo thành bởi chữ “Nhân” (亻, tức là Người) ghép với chữ “Nhu” (需, tức là Cần thiết hoặc Nhu cầu). Chuyển dịch đầy đủ, “Nho” có nghĩa là người cần thiết cho việc gì đó hoặc người cần được dùng vào việc nào đó. Từ đó suy ra rằng, “Nho” có nghĩa là con người công cụ hoặc con
người được dùng làm phương tiện (cho người khác sử dụng). Quả thật, thực tế xã hội đã chứng thực rằng, nho sỹ (hoặc “nhà nho” theo Việt ngữ)
chẳng qua chỉ là người cần thiết để các
vua chúa trị nước mà thôi, tức là tầng lớp được đào tạo để làm tay sai hoặc đầu sai cho vua chúa cai trị tất cả các tầng lớp dưới (vì tầng lớp
này “có học” hoặc chỉ làm việc bằng đầu óc nên nói “đầu sai” sẽ chính xác hơn nói “tay
sai”). Vậy Nho giáo (儒 教) chính là một hệ tư tưởng vong thân, tức là cái hệ tư tưởng làm cho người ta bị mất mình.
Quả
thật, Nho giáo được trọng dụng nhưng Khổng Tử lại bị bạc đãi. Khổng Tử bị bạc
đãi thể hiện cái tất yếu nội tại cho
chính Nho giáo. Vì Nho giáo làm nền tảng
tư tưởng cho chính thể chuyên chế
vốn chỉ tập trung cả ba quyền lực
khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, vào một cá nhân duy
nhất hoặc một số ít cá nhân nào đó có
chung cả quyền lợi lẫn ý đồ nên theo bản tính vị kỷ vốn có ở mọi cá nhân, nếu
Nho giáo mà được trọng dụng thì Khổng Tử ắt phải bị bạc đãi: Khổng Tử được
trọng dụng ắt sẽ trở thành Đế vương làm cho kẻ nào trọng dụng Khổng Tử hoặc a –
dua theo Khổng Tử sẽ phải làm nô lệ
cho Khổng Tử. Làm nô lệ bị giết dễ hơn làm chủ nô! Chính vì hiểu được rõ ràng
như vậy nên tất cả các Đế vương đều bạc đãi Khổng Tử: họ càng trọng dụng Nho
giáo, họ sẽ càng bạc đãi Khổng Tử. Chưa kể Khổng Tử đề cao Nhà Chu làm cho các Đế vương càng bạc đãi Khổng Tử. Khổng Tử chỉ có thể được trọng dụng sau khi
đã chết. Vì đóng góp công lao nhiều
nhất vào việc phát triển Nho giáo làm nền tảng tư tưởng cho chính thể
chuyên chế nên Khổng Tử không thể được
trọng dụng khi đang sống mà chỉ có
thể được trọng dụng khi đã chết. Các Đế vương chỉ có thể trọng dụng Khổng Tử đã chết mà không thể trọng dụng Khổng Tử đang sống.
Nho giáo rất dễ dàng xâm nhập đời sống thực tế
không phải nhờ được diễn dịch công phu như ở đây mà chỉ nhờ được đơn giản hóa thô thiển thành một
nguyên tắc đơn giản nhất: làm gì tùy ý nhưng con phải phục tùng cha,
vợ
phải phục tùng chồng, dân chúng phải phục tùng vua chúa bất kể vua
chúa đúng đắn hay sai lầm!? Nguyên tắc này hiểm độc cùng cực đương
nhiên không cần người tiếp nhận phải thông minh uyên bác mà chỉ cần người tiếp
nhận phải ngu sy trì độn để kẻ nào càng ngu sy trì độn sẽ càng dễ dàng
tiếp nhận Nho giáo.
Tuyệt
đối không
được đồng nhất Tam Cương với Mầu nhiệm Ba Ngôi vốn chỉ thuộc về Chúa
giáo mà phải thấy được sự xung khắc như nước với lửa giữa Tam Cương với
Mầu nhiệm Ba Ngôi: nếu Mầu nhiệm Ba Ngôi chủ trương một trật tự cân bằng để bảo tồn trật
tự đó thì Tam Cương lại chủ trương một trật tự xiêu lệch để củng cố trật tự đó.
Muốn làm cho Tam Cương dẫn đến một trật tự cân bằng, nhất thiết cần phải làm thay
đổi triệt để Tam Cương về cả nội dung lẫn hình thức, theo đó người lãnh đạo phải được ưng chuẩn bởi người
bị lãnh đạo thông qua bầu cử tự do cũng như con phải bình đẳng với cha đồng thời vợ phải bình đẳng với chồng. Nhưng làm như vậy sẽ không còn Nho
giáo nữa. Vậy cần phải từ bỏ Nho giáo như người ta phải vượt qua giai đoạn trẻ
thơ trong cuộc đời vậy.
J. B. Hàvăn Huytoàn
(Viêt vào Tháng Tư 2010)
(Viêt vào Tháng Tư 2010)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét