1/ Nhân loại.
Nhân
loại là một thực tại siêu việt biểu
hiện thành một sinh vật đặc biệt bao
gồm tất cả các cá nhân vừa khác nhau vừa giống nhau: khác nhau về cả thể chất lẫn trí tuệ nhưng giống nhau về bản năng sinh tồn, tức là bản năng ham sống hoặc bản
năng sợ chết; bản năng này bắt buộc mỗi
cá nhân nhất định phải tiêu dùng
nhiều thứ khác nhau để kéo dài sự
sống cho mình, nhưng mỗi cá nhân nhất
định lại chỉ tạo ra được một hoặc một
số ít thứ nhất định để thoả mãn mình
mà thôi, tức là mỗi cá nhân nhất định luôn luôn có một mâu thuẫn nội tại giữa nhu cầu tiêu dùng vô hạn với khả năng sản
xuất hữu hạn; chính cái mâu thuẫn này đã làm cho mỗi cá nhân nhất định luôn
luôn có bản tính vị kỷ; hoặc có thể
nói ngắn gọn hơn theo một cách khác: cái mâu
thuẫn tự nhiên giữa sự khác nhau về
cả thể chất lẫn trí tuệ với sự giống
nhau về bản năng sinh tồn biểu hiện cụ thể qua mỗi cá nhân nhất định thành bản
tính vị kỷ.
Đây
là khái niệm trung tâm cho chủ nghĩa nhân bản vốn lấy nhân loại làm căn bản cho mình.
Chủ
nghĩa nhân bản có thể biểu hiện thành chủ
nghĩa cá nhân nhưng cũng có thể biểu hiện thành chủ nghĩa xã hội tùy theo người ta quy nhân loại thành cá nhân hay quy nhân loại thành xã hội, tức là tùy theo người ta quan niệm nhân loại có thực thể biểu hiện thành cá nhân hay biểu hiện thành xã hội. Suy diễn sâu rộng hơn, chủ nghĩa nhân bản không chỉ biểu hiện thành nhân sinh quan hoặc “các khoa học nhân văn” mà còn phải biểu
hiện thành cả thế giới quan nữa, bao
gồm cả “các khoa học nhân văn” lẫn “các khoa học tự nhiên”. Chỉ nhân loại
mới có thể suy tư về tự nhiên thôi làm
cho chủ nghĩa nhân bản không chỉ biểu hiện thành nhân sinh quan mà còn phải biểu hiện thành cả thế giới quan nữa, trong đó bao gồm cả “các khoa học nhân văn” lẫn “các
khoa học tự nhiên”.
Cái
mâu thuẫn tự nhiên giữa sự khác nhau về thực thể (cả thể chất lẫn tinh thần hoặc trí tuệ)
với sự giống nhau về thuộc tính (bản năng sinh tồn hoặc bản năng ham sống, cũng tức là bản năng sợ chết) làm cái trục quay cho chủ nghĩa nhân bản
quay xung quanh nó.
Trong
nhân loại có một cái duy nhất tồn tại cố
định hoặc tồn tại bất biến mà không bao giờ thay đổi, đó là bản tính vị kỷ, bản tính này làm cơ sở khách quan để xác định giá trị chân thực cho chủ nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa xã hội, nếu cái nào trong hai
cái đó mà lấy bản tính vị kỷ làm căn bản cho mình thì cái đó có giá trị chân thực hoặc giá trị chân thực
sẽ thuộc về cái đó.
2/ Cá nhân.
Cá
nhân là nhân loại tồn tại với một thể
chất nhất định cùng với một trí tuệ
nhất định để thực hiện bản tính vị kỷ.
Đây
là khái niệm trung tâm cho chủ nghĩa cá nhân vốn lấy cá nhân làm căn bản cho mình.
Bản
tính vị kỷ là khuynh hướng tâm lý lấy mình
làm mục đích đồng thời lấy mọi thứ khác làm phương tiện để thoả mãn mình;
khuynh hướng này làm cái trục quay
cho chủ nghĩa cá nhân quay xung quanh nó. Do bản tính vị kỷ tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến nên chủ nghĩa cá nhân chỉ tồn tại cố định với một hình thái duy nhất. Đó là chủ nghĩa
cá nhân tự đồng nhất với chính mình.
Do
quan niệm đúng đắn về nhân loại nên chủ nghĩa cá nhân làm con đường đúng đắn để giải
phóng nhân loại khỏi sự chuyên chế. Suy nghĩ bằng bản tính vị kỷ, người ta có thể thiết lập được một trật tự ổn định, tức là chính
thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa,
để nhân loại được sống trong Tự do – Bình
đẳng – Bác ái.
3/ Xã hội.
Xã
hội là một hệ thống quan hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác được tổ chức theo
một trật tự nhất định hoặc một chính thể nhất định.
Đây
là khái niệm trung tâm cho chủ nghĩa xã hội vốn lấy xã hội làm căn bản cho mình.
Do
xã hội biến chuyển liên tục nên chủ
nghĩa xã hội luôn luôn tồn tại năng động
với nhiều dạng khác nhau. Chính vì xã
hội biến chuyển liên tục nên sự biến
chuyển liên tục làm nền tảng cố định
hoặc nền tảng bất biến cho chủ nghĩa xã hội, tức là sự biến chuyển làm thành cái cố định hoặc cái bất biến cho chủ nghĩa xã
hội. Hoặc có thể nói ngược lại: chủ nghĩa xã hội có cái cố đinh hoặc cái
bất biến biểu hiện thành sự biến chuyển. Với nền tảng cố định luôn luôn biến
chuyển như vậy, chủ nghĩa xã hội không thể nào tạo ra được một trật tự ổn định hoặc một
chính thể ổn định, tức là chính thể
dân chủ hoặc chính thể cộng hòa,
mà chỉ có thể tạo ra được nhiều trật tự
bấp bênh, tức là chính thể chuyên chế
hoặc chế độ độc tài. Chỉ với dạng nào
quay trở về chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa xã hội mới có thể tạo ra được một trật
tự ổn định cho nhân loại, đó là chủ nghĩa
xã hội dân chủ. Có thể nói rõ ràng hơn: chủ nghĩa xã hội luôn luôn tồn tại
với nhiều dạng khác nhau nhưng chỉ dạng nào quay trở về chủ nghĩa cá nhân mới
có thể trở thành con đường đúng đắn cho nhân loại tiến lên.
4/ Cái Không.
Cái
Không hoặc Không tính là một khái niệm
trung tâm cho Phật giáo chỉ sự trống rỗng hoặc sự trống không theo giả định cho rằng mọi cái đều trống rỗng
hoặc trống không hoặc không tồn tại.
Đây
là một khái niệm vừa trừu tượng nhất vừa quan trọng nhất trong Phật giáo. Trong
thế giới vô thường, Phật giáo chứng ngộ được cái Không hoặc Không tính
tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến mà không bao giờ biến chuyển. Xác quyết tư tưởng cũng có Không tính,
Phật giáo muốn xác quyết rằng không thể
dùng tư tưởng để tiếp cận ngược lại cái Không đồng thời cũng không thể dùng tư tưởng để tiếp cận
được chính tư tưởng, tức là tư tưởng
không thể biết được chính mình! Phật giáo Tiểu thừa hình dung thế giới như một cái thùng trống rỗng nhưng Phật giáo Đại thừa lại phủ nhận luôn
cả cái thùng đó hoặc xem cái thùng đó như
không tồn tại, tức là quy kỳ cùng cái
thùng đó về cái Không hoặc tuyệt đối
hóa cái Không. Vậy Phật giáo nói chung xem mọi thứ đều không tồn tại hoặc
quy mọi thứ thành cái Không vốn không
hình thành mà cũng không mất đi
làm cho cái Không chỉ biểu hiện thuần túy
– theo quan điểm khoa học hoặc triết học khoa học – thành một sự kiện tư duy mà thôi. Sự kiện này
đặc biệt có ý nghĩa quan trọng, nó có
thể chỉ dẫn cho nhân loại dựa vào đó mà có thể thiết lập được một trật tự ổn định, tức là chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa, để nhân loại có thể
sống theo các giá trị tích cực đã
được xác lập bởi chính Phật giáo: từ bi –
hỷ xả, v. v..
5/ Quân tử.
Quân
tử là những người được đào tạo theo Nho
giáo để làm công việc cai trị
trong xã hội chuyên chế lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống.
Đây
là khái niệm trung tâm cho Nho giáo vốn lấy quân tử làm căn bản cho
mình.
Quân
tử đối lập thù địch với tiểu nhân: nếu
quân tử phải cao thượng thì tiểu nhân phải thấp hèn. Tuy nhiên, vì xã hội
chuyên chế có mâu thuẫn đối kháng
giữa tầng lớp cai trị với tầng lớp bị cai trị biểu hiện về tư tưởng thành mâu thuẫn đối kháng giữa quân
tử với tiểu nhân trong Nho giáo, mâu thuẫn này thường xuyên làm đảo lộn mọi thứ hoặc làm cho mọi thứ đều có thể bị tha hóa,
nên quân tử có thể bị tha hóa thành tiểu
nhân cũng như tiểu nhân có thể bị tha
hóa thành quân tử.
Với
các chuẩn mực cực đoan như vậy về cả quân tử lẫn tiểu nhân, Nho giáo không thể
tạo ra được một trật tự ổn định, tức
là chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa, mà chỉ có thể tạo ra
được các trật tự bấp bênh, tức là chính thể chuyên chế hoặc chế độ độc tài. Với lịch sử kéo dài qua nhiều
biến động tang thương, nước Tàu đã chứng tỏ rõ ràng như vậy.
Nho
giáo xung khắc với dân chủ: lẽ nào lại quy kết các công dân vốn làm chủ xã hội thành tiểu nhân, hoặc giả: lẽ nào lại quy kết thành tiểu nhân đối với các cá nhân
tinh hoa được bầu chọn cẩn thận thông qua các cuộc bầu cử tự do làm nhà
cầm quyền? Sự xung khắc giữa Nho giáo với dân chủ chẳng khác gì sự xung
khắc giữa nước với lửa!
6/ Jesus.
Jesus theo tiếng Do thái
có nghĩa là Cứu độ. Cứu độ như thế nào hoặc cứu độ bằng cách nào? Câu trả lời ngắn gọn nhất là cứu độ bằng Mầu nhiệm Ba Ngôi. Theo sự
thể này, Chúa sẽ thể hiện mình thành ba
ngôi nhất thể, tức là ba ngôi vị khác nhau thống nhất với nhau thành một thể
thống nhất hoặc một thể thống nhất thể hiện thành ba ngôi vị khác nhau: ngôi vị
thứ nhất là Chúa Cha, tức là Đấng Toàn năng hoặc Đạo Vũ trụ; ngôi vị thứ hai là Chúa
Con, tức là Chúa Jesus (Jesus
Christ); ngôi vị thứ ba là Chúa Thánh
thần hoặc Chúa Quan phòng. Chúa
thể hiện thành ba ngôi vị như vậy có thể nhằm chỉ dẫn cho nhân loại
cách thức để đạt được hạnh phúc. Nếu có thể diễn đạt Jesus thành Mầu nhiệm Ba
Ngôi (Jesus = Mầu nhiệm Ba Ngôi) thì cũng có thể diễn đạt Mầu nhiệm Ba Ngôi
thành Jesus (Mầu nhiệm Ba Ngôi = Jesus).
Jesus hoặc Mầu nhiệm Ba
Ngôi là sự kiện trung tâm cho Chúa giáo (Christianity), sự kiện này tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến mà không bao giờ thay đổi trong Chúa
giáo. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, Mầu nhiệm Ba Ngôi có tác dụng khai sáng vô cùng to lớn.
So với cái Không hoặc
Không tính trong Phật giáo, Jesus trong Chúa giáo có ý nghĩa tương đương nhưng biểu hiện rõ ràng hơn làm cho người ta
tiếp nhận dễ dàng hơn. Cụ thể là người ta có thể dựa vào Jesus = Mầu nhiệm Ba
Ngôi để thiết lập chính thể dân chủ
hoặc chính thể cộng hòa với ba thiết chế cơ bản: 1/ Nhà nước dân chủ
phải được tổ chức theo quy chế phân lập
tam quyền, theo đó nhà nước này phải được phân chia độc lập về nhân sự
thành ba cơ quan khác nhau để thực hiện ba quyền lực tương ứng: cơ quan lập
pháp thực hiện quyền lực lập pháp, cơ quan hành pháp thực hiện quyền lực hành
pháp và cơ quan tư pháp thực hiện quyền lực tư pháp; sự phân chia quyền lực như
vậy làm cho các nhà cầm quyền không thể lạm dụng được quyền lực nhà nước; 2/
Nhà nước dân chủ phải được làm chủ theo nguyên
tắc đa nguyên bình đẳng bởi toàn thể
nhân dân, theo đó nhà nước này phải bị kiểm sát chặt chẽ bởi nhiều tổ chức độc lập để ngăn ngừa các điều luật bất công dẫn đến tai
hoạ cho dân chúng, cũng như phương
tiện giao thông phải có phanh hãm thật tốt để phòng tránh tai nạn giao thông; 3/ Nhà nước dân chủ phải được bảo
tồn theo chế độ bầu cử tự do hoặc
phải hoạt động theo nhiệm kỳ; sau mỗi
nhiệm kỳ nhất định, nhà nước này phải thay
đổi nhân sự thông qua bầu cử tự do,
theo đó mọi cá nhân đều phải được tham gia lựa chọn những người có cả tài năng
lẫn đức hạnh làm người lãnh đạo đồng thời cũng đều phải được ứng cử làm người
lãnh đạo, nhưng chỉ được ứng cử vào một
trong ba cơ quan khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, nếu
ứng cử vào cơ quan này thì thôi không được ứng cử vào hai cơ quan kia hoặc nếu
đắc cử vào cơ quan này thì phải từ bỏ chức vụ ở hai cơ quan kia để người đắc cử
chỉ nắm được một trong ba quyền lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vậy
Mầu nhiệm Ba Ngôi vừa có ý nghĩa là quy
chế phân lập tam quyền, vừa có ý nghĩa là chính thể cộng hòa với ba
thiết chế cơ bản đã được trình bày ở trên.
7/ Lao
động.
Lao động là hoạt động cần thiết để nhân loại tồn tại
được.
Đây là khái niệm trung tâm cho Chủ nghĩa Marx, vốn lấy lao động làm căn bản cho mình.
Vladimir Ilich Lenin đã
từng nhận xét chính xác rằng: lý thuyết kinh tế của Karl Marx là nội dung
chủ yếu của Chủ nghĩa Marx, trong đó giá
trị được biểu hiện phổ biến thành một
khái niệm nền tảng đúng như các nhà marxist vẫn xác tín như vậy mặc dù nó được định nghĩa sai lầm. Trong Chủ nghĩa
Marx, giá trị vừa trừu tượng nhất vừa quan trọng nhất: vì biểu hiện lao động xã hội vốn chỉ được thực hiện hiện thực bởi một bộ phận nhất định trong nhân
loại mà thôi, tức là những cá nhân
nào đó có khả năng lao động, nên giá trị trừu tượng nhất mặc dù cái trừu
tượng nhất trong Chủ nghĩa Marx vẫn còn có tính
chất phiến diện sẽ được biểu hiện ở cuối sự kiện này; vì biểu hiện phương pháp luận nên giá trị quan trọng
nhất trong Chủ nghĩa Marx. Với ý nghĩa đó, giá trị đã bước đầu biểu hiện được một phần nào đó sự giống nhau giữa người
với người hoặc một phần nào đó đã
vượt lên trên sự khác nhau giữa người với người. Lẽ ra K. Marx phải bảo tồn “giá trị” để phát triển khái niệm này
thành một triết lý nhân bản cho người
ta có thể thiết lập được một trật tự ổn
định, tức là chính thể dân chủ
hoặc chính thể cộng hòa. Nhưng thật
đáng tiếc, mọi khái niệm cấu thành Chủ
nghĩa Marx – không trừ một khái niệm nào, kể cả “giá trị” vốn được coi như “hòn đá thử vàng” – đều không được phép tồn tại vĩnh cửu mà đều bị tiêu diệt không thương tiếc bởi phép biện chứng duy vật!
Trước K. Marx hơn hai
ngàn năm, Heraclitus đã từng nói rằng không ai tắm được hai lần trên một dòng sông.
K. Marx đã đi xa hơn theo chiều hướng cực đoan bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng với điểm tận cùng biểu hiện thành một ý kiến triết học cho rằng: vận động là thuộc tính cố hữu biểu hiện sinh
mệnh của vật chất. Đạt đến điểm
đó, K. Marx đột ngột dừng lại mà không bao giờ tiến lên nữa, ông ta thiếu hẳn năng lực khái quát cho việc trừu tượng hóa mọi biến chuyển
thành một cái cố định: tuy đã thoáng
thấy cái cố định hoặc cái bất biến trong sự biến chuyển nhưng K. Marx không biết giữ lại cái cố định hoặc
cái bất biến để thiết lập một trật tự cố
định, tức là chính thể dân chủ
hoặc chính thể cộng hòa, mà đã bỏ rơi cho cái cố định hoặc cái bất
biến bị tiêu tan theo sự biến chuyển. Vì tự giới hạn mình vào chủ nghĩa duy vật biện chứng vốn xác
quyết chắc chắn rằng mọi cái đều biến chuyển vô tận làm cho mọi khái niệm đều
bị vong thân nên K. Marx đã thẳng tay tiêu diệt “giá trị” bằng chính phép biện
chứng duy vật với một kết luận cực
đoan nhất cho rằng giá trị chỉ tồn
tại tạm thời hoặc sẽ bị tiêu vong
theo lao động được giải thoát khỏi sự tha hóa. Không một triết học nào lại
tự phủ định chính mình rồi bị vong thân
tuyệt đối như Chủ nghĩa Marx, một thứ triết học lấy việc giải phóng lao động làm mục
đích cho mình nhưng lại tự phủ định chính mình để trở thành một thứ triết
học lấy việc nô dịch lao động làm kết quả cho mình. Về mặt logic, sự thể
đó tự nó đã rõ ràng; về mặt lịch sử, sự thể đó đã được xác nhận rõ ràng bởi
chính cái hiện thực marxist, trong đó
chủ nhân biểu hiện trái ngược thành đầy
tớ cũng như đầy tớ biểu hiện trái
ngược thành chủ nhân, tức là “chủ
nhân” bị bóc lột tàn tệ bởi “đầy tớ” hoặc người lao động không những không được tự do mà còn bị nô lệ nặng nề hơn
nữa. Vậy Chủ nghĩa Marx chỉ có một thứ duy nhất không biến chuyển, đó chính là sự
biến chuyển. Một triết học như vậy không thể tạo ra được một trật tự ổn
định mà chỉ có thể tạo ra được các trật tự bấp bênh để mọi cái đều có thể tự
phủ định chính mình!
Chỉ cần tinh ý một chút
cũng có thể nhận thấy được lao động
chỉ được thực hiện hiện thực bởi một bộ phận
nhất định trong nhân loại mà
thôi, tức là các cá nhân nào đó có khả
năng lao động. Sự thể đó cho thấy lao
động không có tính chất phổ quát. Từ đó suy ra rằng một triết học lấy lao động làm căn bản cho mình như Chủ nghĩa Marx ắt sẽ không thể có giá trị phổ quát.
8/ Cái
Tương đối.
Cái Tương đối được xác
lập bởi Albert Einstein (1879 – 1955)
với lý thuyết tương đối vốn dựa trên hai giả thiết nền tảng. Giả thiết thứ
nhất cho rằng ánh sáng lan truyền
trong chân không với một vận tốc như nhau theo mọi hướng mà không phụ thuộc vào hệ quy chiếu hoặc không phụ thuộc vào nguồn sáng chuyển động
với vận tốc nào theo hướng nào. Giả thiết thứ hai cho rằng mọi chuyển động đều tương đối, tức là vì
mọi vật đều chuyển động nên chuyển động này tương đối với chuyển động
khác. Chính giả thiết thứ hai lại dẫn đến giả thiết thứ nhất. Vì ánh sáng
lan truyền trong chân không với một vận tốc cố định theo mọi hướng nên vận tốc này cũng tương đối
với mọi vận tốc khác thuộc về mọi chuyển động khác, tức là ánh sáng cũng tương đối với mọi vật khác. Đối với lý thuyết tương đối, cả chuyển động lẫn đứng yên đều tương đối như
nhau. Vậy chỉ có cái Tương đối
mới có thể tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến mà không bao giờ thay đổi trong vũ
trụ. Đó là kết luận trực tiếp
được rút ra từ lý thuyết tương đối. Kết luận này có ý nghĩa quan trọng để ta
rút ra được nhiều kết luận triết học
về cái Tương đối, rồi từ đó ta có thể
suy ra các nguyên tắc triết học cho đời sống chính trị.
Thứ nhất, cái Tương đối
chỉ có thể tồn tại hiện thực với hoạt
động nhận thức hoặc chỉ có thể tồn tại hiện thực thông qua hoạt động nhận
thức, người nào không có khả năng nhận thức sẽ không thể hình dung được cái
Tương đối, làm cho cái Tương đối chỉ biểu
hiện thuần túy thành một sự kiện tư
duy mà thôi. Sự kiện này làm cho hoạt động nhận thức trở thành một hoạt động thường trực, tức là người
ta chỉ có thể kiểm chứng được cái Tương đối bằng hoạt động nhận thức làm cho
hoạt động nhận thức luôn luôn có khả năng
sáng tạo để có thể sáng tạo thế giới,
theo đó cả “vật chất” lẫn “tinh thần” đều chỉ có thể được tạo ra từ
chính hoạt động nhận thức. Hoặc có thể nói theo một cách khác: cái Tương đối đã
cho thấy dù quy thế giới về “vật chất”
hay quy thế giới về “tinh thần” cũng
đều sai lầm về mặt khoa học đồng thời đã cho thấy việc phân chia triết học thành hai loại đối lập nhau: chủ nghĩa duy vật đối lập với chủ nghĩa duy
tâm, cũng đều sai lầm về mặt khoa học. Quả thật, cái Tương đối đã
bác bỏ thẳng thừng mọi triết học tư biện
vốn quy thế giới về một thái cực nào đó, như “vật chất” hoặc “tinh thần”, v. v., rồi
chỉ cho thấy mọi cái đều biến chuyển liên tục mà không hề cho thấy bất cứ cái
gì có thể tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến như cái Tương đối, tức là cái Tương đối đã
cho thấy rõ ràng rằng cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm đều không hề có giá trị khoa học mà chỉ có giá trị tư biện hoặc chỉ có tính chất siêu hình mà không thể có tính chất biện chứng!
Thứ hai, cái Tương đối
đã xác nhận rõ ràng giá trị chân thực
cho cái Không hoặc Không tính trong Phật giáo vốn cũng chỉ biểu
hiện thuần túy – theo quan điểm khoa
học – thành một sự kiện tư duy mà
thôi. Đó chính là lý do sâu xa để có
thể hiểu được tại sao A. Einstein đã đánh giá cao Phật giáo. Giữa cái
Không với cái Tương đối chỉ có thể có một sự khác biệt duy nhất: nếu cái Không
không thể được kiểm chứng rõ ràng bởi hoạt động nhận thức mà chỉ có thể được
giác ngộ mơ hồ bởi chủ thể giác ngộ thông qua cái Niết bàn vốn cũng mơ hồ như vậy thì cái Tương đối lại có thể
được kiểm chứng rõ ràng bởi hoạt động nhận thức, trong đó toán học có vai trò quan trọng. Hơn nữa, theo logic vận hành, cái
Tương đối sẽ dẫn dắt hoạt động nhận thức đến sự Giải thoát hoặc sự Cứu độ
(Jesus) bằng Mầu nhiệm Ba Ngôi trong Chúa giáo (Christianity). Nói như vậy,
tôi muốn nhấn mạnh rằng cái Tương đối cũng tương đồng với Jesus hoặc Mầu nhiệm
Ba Ngôi trong Chúa giáo. A. Einstein có thể không
biết như vậy hoặc không ngờ như vậy
nhưng chính sự kiện này đã hiện hữu trong khoa
học với giả định đúng đắn đã được
xác lập chắc chắn bởi chính vật lý học
cho rằng đơn vị cơ bản của vật lý là ba mối quan hệ: sự kiện, tín hiệu và sự quan sát, tạo thành một
tổng thể. Chính sự kiện đó có thể cho phép người ta suy ra cơ sở triết học để dựa vào đó mà thiết
lập được một trật tự ổn định, tức là chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa, cho xã hội vốn bao gồm tất cả các quan hệ giữa người với người. Hệ quả này cho phép ta
hiểu được tại sao A. Einstein không chỉ đánh giá cao tôn giáo mà còn phê phán
gay gắt chế độ độc tài ở Nga, Đức
và Italia vào đầu thế kỷ XX. Không phải ngẫu nhiên mà A. Einstein đã lựa chọn lý tưởng dân chủ làm lý tưởng chính trị cho mình.
Thứ ba, cái Tương đối
theo quan điểm khoa học hoặc triết học khoa học khác hẳn cái Tương
đối theo quan điểm thông thường. Theo
quan điểm khoa học, cái Tương đối được xác lập nhằm khẳng định sự khác biệt bằng sự tương đồng. Nhưng theo quan điểm
thông thường, cái Tương đối lại thường bị xuyên tạc nhằm phủ nhận sự khác biệt bằng sự tương đồng, như phủ nhận sự khác biệt
giữa độc tài với dân chủ chẳng hạn; nhà nước độc tài thường tương đối hoá cả hai khái niệm đó bằng luận điệu quen thuộc cho rằng: dù
dân chủ hay độc tài cũng đều chỉ tương đối mà thôi, nhằm mê hoặc quần chúng
để quần chúng cam tâm chịu đựng sự áp bức đồng thời cũng qua đó mà củng cố chế
độ độc tài, v. v.. Vấn đề cốt tử là cần phải hiểu được đúng đắn về cái Tương đối để mới có thể né tránh được những cạm bẫy tư tưởng!
Lý thuyết tương đối biểu hiện cụ thể qua một trường hợp đặc biệt thành Hệ thức
Einstein: E = m.c2, tức là năng lượng (E) của một vật nào đó bằng khối lượng (m) của chính vật đó nhân với vận tốc (c) của ánh sáng rồi lại nhân với vận tốc (c) của ánh sáng, trong đó c
luôn luôn cố định hoặc luôn luôn bất biến bằng 299.792.458 m/s. Gần đây người ta đã
tiến hành một thí nghiệm đặc biệt tại
Âu châu. Kết quả sơ bộ được công bố
vào ngày 20 Tháng Chín 2011 đã cho
thấy neutrino chuyển động với vận tốc
lớn hơn 299.792.458 m/s. Kết quả này
chưa được kiểm chứng rõ ràng. Một số người vội vã kết luận rằng cần phải viết lại sách giáo khoa về vật lý. Có
thể cần phải viết lại sách giáo khoa về vật lý nhưng xin hãy nhớ rằng ánh sáng
lan truyền trong chân không với một vận tốc như nhau theo mọi hướng mà không phụ thuộc vào hệ quy chiếu hoặc không phụ thuộc vào nguồn sáng chuyển động
với vận tốc nào theo hướng nào! Liệu neutrino
có hay không có tính chất đặc biệt
như vậy? Vấn đề mấu chốt không phải là vận tốc nào (lớn hay nhỏ) theo hướng
nào, mà là vận tốc như nhau theo mọi
hướng. Vả lại, nếu neutrino cũng
có tính chất đặc biệt như ánh sáng
thì vì khác nhau về vận tốc nên giữa neutrino với ánh sáng vẫn
có sự tương đối, tức là sự tương đối vẫn tồn tại, hơn nữa còn tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến. Hệ quả này không hề
bác bỏ lý thuyết tương đối mà còn đòi hỏi phải mở rộng lý thuyết đó nữa.
Cái Tương đối khác cái Bất định hoặc cái Bấp bênh nhưng cái Bất định lại song hành với cái Tương đối để cùng biểu hiện cái Cố định hoặc cái Bất biến
cho thế giới, tức là cũng như sự vận động hoặc sự biến đổi, cái Bất định hoặc cái Bấp bênh làm thành cái Cố định
hoặc cái Bất biến cho thế giới. Ở đây cái Cố định hoặc cái Bất biến chỉ biểu hiện thuần túy – theo quan điểm khoa học hoặc triết học khoa học – thành một sự kiện tư duy mà thôi, theo đó cái
Cố định hoặc cái Bất biến chỉ có thể tồn
tại được thông qua hoạt động nhận thức hoặc không thể tồn tại được ở đâu ngoài hoạt động nhận thức làm cho hoạt
động đó phải trở thành một hoạt động
thường trực mới có thể tạo tác được
cái Cố định hoặc cái Bất biến cho thế giới để thế giới có tính chất cố định hoặc tính
chất bất biến. Tính chất cố định hoặc tính chất bất biến biểu hiện qua lý thuyết tương đối thành tính chất tương đối nhưng lại biểu hiện
qua lý thuyết lượng tử thành tính chất bất định hoặc tính chất bấp bênh.
Werner Karl Heisenberg
(1901 – 1976) đã diễn đạt tính chất bất
định bằng lời nói vào năm 1927 như sau: “The more precisely the
position is determined, the less precisely the momentum is known in this instant, and vice versa” (Vị trí càng được xác định chính xác bao nhiêu, động lượng càng ít được biết chính xác bấy nhiêu tại thời điểm đó, và ngược lại). Rồi W. K. Heisenberg
diễn đạt tính chất bất định bằng toán học
với một bất đẳng thức như sau:
Trong
công thức đó, là sai số của phép đo vị trí, là sai
số của phép đo động lượng, và h là Hằng số Planck.
Trị
số của Hằng số Planck (h) trong Hệ Đo lường Quốc tế:
J.s.
Sai
số tương đối trên trị số này là 1,7×10-7, đưa đến sai số tuyệt đối
là 1,1×10-40 J.s.
Theo lý thuyết lượng tử,
thế giới luôn luôn tồn tại cố định
hoặc tồn tại bất biến với tính chất bất định hoặc tính chất bấp bênh để thông qua hoạt động nhận thức vốn cũng có tính chất bất định hoặc tính chất bấp bênh, tính chất đó lại biểu hiện trái ngược theo nguyên tắc bất định thành tính chất cố định hoặc tính chất bất biến cho thế giới. Ở đây tính chất cố định hoặc
tính chất bất biến cũng chỉ biểu hiện
thuần túy – theo quan điểm khoa học
hoặc triết học khoa học – thành một sự kiện tư duy như tính chất đó biểu hiện tương đối bằng tính chất tương đối qua lý thuyết tương đối. Vậy mà có lẽ vì không thể hình dung nổi cái Bất định hoặc cái Bấp bênh lại có thể biểu hiện trái ngược theo chính nguyên tắc bất định thành cái Cố định
hoặc cái Bất biến mà (lại có lẽ) chỉ xác tín tuyệt đối rằng mọi cái vào mọi lúc đều bất định làm cho
người ta dù ở đâu vào lúc nào cũng bấp
bênh nên W. K. Heisenberg đã không rời bỏ nền chuyên chế fascist vốn đầy
bất định? Nguyên tắc bất định lại có thể gợi mở bấp bênh rằng không thể có câu trả lời chắc chắn cho câu
hỏi đó.
Với ý nghĩa sâu xa vượt qua cả trực giác lẫn kinh nghiệm, cả lý thuyết tương đối lẫn lý thuyết lượng tử đều tham gia làm linh hồn cho phép biện chứng khoa học đồng thời đều đòi hỏi nhân loại phải tổ chức xã hội theo chính thể dân chủ hoặc chính
thể cộng hòa để nhân loại được sống
ổn định bằng Tự do – Bình đẳng – Bác
ái. Tôi xác tín chắc chắn rằng nhân loại có thể tạo tác được một trật tự ổn định cho một thế giới bấp bênh bằng triết học khoa học. Chính Chúa đã mang
lại sự xác tín đó cho tôi bằng Mầu nhiệm
Ba Ngôi. Vả lại, một thế giới bất định càng bấp bênh bao nhiêu càng đòi hỏi
bấy nhiêu nhân loại phải tổ chức xã hội theo chính thể dân chủ để bảo tồn mình,
nếu không thì nhân loại sẽ bị diệt vong bởi chính cái thế giới bấp bênh đầy bất
định. Chúa thể hiện mình thành Ba Ngôi
Nhất thể rất có thể chỉ nhằm mở ra con đường sống cho nhân loại bảo tồn mình bằng chính thể dân chủ hoặc chính
thể cộng hòa để nhân loại được sống ổn định trong một thế giới bất định đầy
bấp bênh. Có thể chính sự thể này đã giải thích được tại sao càng hiểu biết nhiều sẽ làm cho người ta càng xác tín nhiều
hơn vào Chúa.
Nói bằng giọng triết lý để kích thích tư duy: lý
thuyết lượng tử làm động lực cho nhân
loại tổ chức xã hội theo chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa để bảo tồn
mình nhưng lý thuyết tương đối lại làm phương
pháp cho nhân loại làm việc đó!
9/ Cái Vị
kỷ.
Cái Vị kỷ (hoặc bản tính vị kỷ) tồn tại cố định hoặc tồn tại
bất biến trong mọi cá nhân vào mọi thời điểm. Mọi cá nhân dù ở bất cứ đâu vào bất cứ lúc nào cũng đều có cái vị kỷ. Cái vị kỷ vừa tồn tại xuyên không gian vừa tồn tại vượt thời gian. Quan điểm lịch sử không
có tác dụng gì đối với cái vị kỷ. Sự thể này cho thấy cái vị kỷ tương đồng bản chất với cả cái Tương đối trong lý thuyết tương đối lẫn cái
Không hoặc Không tính trong Phật giáo. Sự tương đồng này lại dẫn đến
sự Giải thoát hoặc sự Cứu độ, tức là Jesus hoặc Mầu nhiệm Ba Ngôi
trong Chúa giáo (Christianity). Kinh
thánh đã nói rằng: ta là ánh sáng, là
sự sống và là chân lý. Lý thuyết khoa học về chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng
hòa đã chứng tỏ rõ ràng như vậy!
Các cá nhân khác nhau về thực thể nhưng giống nhau về thuộc tính. Thực thể được
nói đến ở đây phải bao gồm cả thể chất
lẫn trí tuệ hoặc tinh thần. Thuộc tính được nói đến ở đây lại chỉ bao gồm bản năng sinh tồn, tức là bản năng ham sống hoặc bản năng sợ chết. Chính sự đối lập giữa thực thể với thuộc tính
đã cấu thành cái vị kỷ; hoặc có thể
nói theo một cách khác: cái vị kỷ chỉ hiện hữu trong sự đối lập giữa thực thể
với thuộc tính đã được nói đến ở trên.
Với ý nghĩa như vậy, cái
vị kỷ làm cơ sở tự nhiên cho đời sống chính trị, theo đó mọi thể chế chính trị đều phải dựa vào cái vị kỷ. Tuy nhiên, nếu chính thể nào dựa chủ yếu vào sự khác nhau về thực thể
(cả thể chất lẫn tinh thần hoặc trí tuệ)
giữa các cá nhân thì chính thể đó sẽ tồn
tại bấp bênh; ngược lại, nếu chính thể nào dựa chủ yếu vào sự giống nhau
về thuộc tính (bản năng sinh tồn) giữa các cá nhân thì chính thể đó sẽ tồn tại bền vững. Quả thật, cái vị kỷ
đòi hỏi phải có pháp luật để ngăn
ngừa các cá nhân làm hại cho nhau đồng thời khuyến khích các cá nhân làm lợi
cho nhau hoặc được sống theo Tự do – Bình
đẳng – Bác ái. Nhưng muốn có pháp luật, nhân loại bao gồm tất cả các cá
nhân vừa khác nhau về thực thể vừa giống nhau về thuộc tính phải tổ chức xã hội theo chính thể dân chủ hoặc chính
thể cộng hòa. Vậy cái vị kỷ làm cho chính
thể dân chủ hoặc chính thể cộng hoà
phải dựa chủ yếu vào sự giống nhau về
thuộc tính (bản năng sinh tồn) giữa các cá nhân để chính thể này tồn tại bền vững.
Chính thể dân chủ bảo
đảm cho pháp luật tồn tại. Pháp luật
tồn tại lại thôi thúc mọi người đều phải hành xử theo đạo đức. Đạo đức thể hiện
cụ thể thành ít nhất ba giá trị cơ bản: Tự do
– Bình đẳng – Bác ái, làm cho người ta biết hướng tới cái Thiện đồng
thời cũng biết chối bỏ cái Ác.
Tự do là tình trạng được làm tất cả những gì có lợi
cho mình đồng thời cũng có lợi cho cả người khác biểu hiện thành toàn bộ các
quyền làm người thuộc về mỗi cá nhân nhất định hoặc nhân quyền như vẫn thường
gọi.
Bình đẳng là như nhau
hoặc giống nhau về cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ.
Bác ái là yêu thương
người khác như yêu thương chính mình.
Đạo đức phải tồn
tại cố định hoặc tồn tại bất biến cho dù mọi thứ khác
đều có thể phải biến chuyển liên tục.
Tóm lại, cái vị kỷ đòi
hỏi mỗi cá nhân nhất định phải có tinh thần khoan dung để ứng xử với
các cá nhân khác bằng thái độ tương kính mới có thể làm
chủ được cái vị kỷ.
J. B. Hàvăn
Huytoàn
(Viêt vào Tháng Mười 2011)
(Viêt vào Tháng Mười 2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét