Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

MỘT SỐ SỰ KIỆN TRIẾT HỌC

1/ Nhân loại.
Nhân loại là một thực tại siêu việt biểu hiện thành một sinh vật đặc biệt bao gồm tất cả các cá nhân vừa khác nhau vừa giống nhau: khác nhau về cả thể chất lẫn trí tuệ nhưng giống nhau về bản năng sinh tồn, tức là bản năng ham sống hoặc bản năng sợ chết; bản năng này bắt buộc mỗi cá nhân nhất định phải tiêu dùng nhiều thứ khác nhau để kéo dài sự sống cho mình, nhưng mỗi cá nhân nhất định lại chỉ tạo ra được một hoặc một số ít thứ nhất định để thoả mãn mình mà thôi, tức là mỗi cá nhân nhất định luôn luôn có một mâu thuẫn nội tại giữa nhu cầu tiêu dùng vô hạn với khả năng sản xuất hữu hạn; chính cái mâu thuẫn này đã làm cho mỗi cá nhân nhất định luôn luôn có bản tính vị kỷ; hoặc có thể nói ngắn gọn hơn theo một cách khác: cái mâu thuẫn tự nhiên giữa sự khác nhau về cả thể chất lẫn trí tuệ với sự giống nhau về bản năng sinh tồn biểu hiện cụ thể qua mỗi cá nhân nhất định thành bản tính vị kỷ.
Đây là khái niệm trung tâm cho chủ nghĩa nhân bản vốn lấy nhân loại làm căn bản cho mình.
Chủ nghĩa nhân bản có thể biểu hiện thành chủ nghĩa cá nhân nhưng cũng có thể biểu hiện thành chủ nghĩa xã hội tùy theo người ta quy nhân loại thành cá nhân hay quy nhân loại thành xã hội, tức là tùy theo người ta quan niệm nhân loại có thực thể biểu hiện thành cá nhân hay biểu hiện thành xã hội. Suy diễn sâu rộng hơn, chủ nghĩa nhân bản không chỉ biểu hiện thành nhân sinh quan hoặc “các khoa học nhân văn” mà còn phải biểu hiện thành cả thế giới quan nữa, bao gồm cả “các khoa học nhân văn” lẫn “các khoa học tự nhiên”. Chỉ nhân loại mới có thể suy tư về tự nhiên thôi làm cho chủ nghĩa nhân bản không chỉ biểu hiện thành nhân sinh quan mà còn phải biểu hiện thành cả thế giới quan nữa, trong đó bao gồm cả “các khoa học nhân văn” lẫn “các khoa học tự nhiên”.
Cái mâu thuẫn tự nhiên giữa sự khác nhau về thực thể (cả thể chất lẫn tinh thần hoặc trí tuệ) với sự giống nhau về thuộc tính (bản năng sinh tồn hoặc bản năng ham sống, cũng tức là bản năng sợ chết) làm cái trục quay cho chủ nghĩa nhân bản quay xung quanh nó.
Trong nhân loại có một cái duy nhất tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biếnkhông bao giờ thay đổi, đó là bản tính vị kỷ, bản tính này làm cơ sở khách quan để xác định giá trị chân thực cho chủ nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa xã hội, nếu cái nào trong hai cái đó mà lấy bản tính vị kỷ làm căn bản cho mình thì cái đó có giá trị chân thực hoặc giá trị chân thực sẽ thuộc về cái đó.
2/ Cá nhân.
Cá nhân là nhân loại tồn tại với một thể chất nhất định cùng với một trí tuệ nhất định để thực hiện bản tính vị kỷ.
Đây là khái niệm trung tâm cho chủ nghĩa cá nhân vốn lấy cá nhân làm căn bản cho mình.
Bản tính vị kỷ là khuynh hướng tâm lý lấy mình làm mục đích đồng thời lấy mọi thứ khác làm phương tiện để thoả mãn mình; khuynh hướng này làm cái trục quay cho chủ nghĩa cá nhân quay xung quanh nó. Do bản tính vị kỷ tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến nên chủ nghĩa cá nhân chỉ tồn tại cố định với một hình thái duy nhất. Đó là chủ nghĩa cá nhân tự đồng nhất với chính mình.
Do quan niệm đúng đắn về nhân loại nên chủ nghĩa cá nhân làm con đường đúng đắn để giải phóng nhân loại khỏi sự chuyên chế. Suy nghĩ bằng bản tính vị kỷ, người ta có thể thiết lập được một trật tự ổn định, tức là chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa, để nhân loại được sống trong Tự do – Bình đẳng – Bác ái.
3/ Xã hội.
Xã hội là một hệ thống quan hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác được tổ chức theo một trật tự nhất định hoặc một chính thể nhất định.
Đây là khái niệm trung tâm cho chủ nghĩa xã hội vốn lấy xã hội làm căn bản cho mình.
Do xã hội biến chuyển liên tục nên chủ nghĩa xã hội luôn luôn tồn tại năng động với nhiều dạng khác nhau. Chính vì xã hội biến chuyển liên tục nên sự biến chuyển liên tục làm nền tảng cố định hoặc nền tảng bất biến cho chủ nghĩa xã hội, tức là sự biến chuyển làm thành cái cố định hoặc cái bất biến cho chủ nghĩa xã hội. Hoặc có thể nói ngược lại: chủ nghĩa xã hội có cái cố đinh hoặc cái bất biến biểu hiện thành sự biến chuyển. Với nền tảng cố định luôn luôn biến chuyển như vậy, chủ nghĩa xã hội không thể nào tạo ra được một trật tự ổn định hoặc một chính thể ổn định, tức là chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa, mà chỉ có thể tạo ra được nhiều trật tự bấp bênh, tức là chính thể chuyên chế hoặc chế độ độc tài. Chỉ với dạng nào quay trở về chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa xã hội mới có thể tạo ra được một trật tự ổn định cho nhân loại, đó là chủ nghĩa xã hội dân chủ. Có thể nói rõ ràng hơn: chủ nghĩa xã hội luôn luôn tồn tại với nhiều dạng khác nhau nhưng chỉ dạng nào quay trở về chủ nghĩa cá nhân mới có thể trở thành con đường đúng đắn cho nhân loại tiến lên.
4/ Cái Không.
Cái Không hoặc Không tính là một khái niệm trung tâm cho Phật giáo chỉ sự trống rỗng hoặc sự trống không theo giả định cho rằng mọi cái đều trống rỗng hoặc trống không hoặc không tồn tại.
Đây là một khái niệm vừa trừu tượng nhất vừa quan trọng nhất trong Phật giáo. Trong thế giới vô thường, Phật giáo chứng ngộ được cái Không hoặc Không tính tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biếnkhông bao giờ biến chuyển. Xác quyết tư tưởng cũng có Không tính, Phật giáo muốn xác quyết rằng không thể dùng tư tưởng để tiếp cận ngược lại cái Không đồng thời cũng không thể dùng tư tưởng để tiếp cận được chính tư tưởng, tức là tư tưởng không thể biết được chính mình! Phật giáo Tiểu thừa hình dung thế giới như một cái thùng trống rỗng nhưng Phật giáo Đại thừa lại phủ nhận luôn cả cái thùng đó hoặc xem cái thùng đó như không tồn tại, tức là quy kỳ cùng cái thùng đó về cái Không hoặc tuyệt đối hóa cái Không. Vậy Phật giáo nói chung xem mọi thứ đều không tồn tại hoặc quy mọi thứ thành cái Không vốn không hình thànhcũng không mất đi làm cho cái Không chỉ biểu hiện thuần túy – theo quan điểm khoa học hoặc triết học khoa học – thành một sự kiện tư duy mà thôi. Sự kiện này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng, nó có thể chỉ dẫn cho nhân loại dựa vào đó mà có thể thiết lập được một trật tự ổn định, tức là chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa, để nhân loại có thể sống theo các giá trị tích cực đã được xác lập bởi chính Phật giáo: từ bi – hỷ xả, v. v..
5/ Quân tử.
Quân tử là những người được đào tạo theo Nho giáo để làm công việc cai trị trong xã hội chuyên chế lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống.
Đây là khái niệm trung tâm cho Nho giáo vốn lấy quân tử làm căn bản cho mình.
Quân tử đối lập thù địch với tiểu nhân: nếu quân tử phải cao thượng thì tiểu nhân phải thấp hèn. Tuy nhiên, vì xã hội chuyên chế có mâu thuẫn đối kháng giữa tầng lớp cai trị với tầng lớp bị cai trị biểu hiện về tư tưởng thành mâu thuẫn đối kháng giữa quân tử với tiểu nhân trong Nho giáo, mâu thuẫn này thường xuyên làm đảo lộn mọi thứ hoặc làm cho mọi thứ đều có thể bị tha hóa, nên quân tử có thể bị tha hóa thành tiểu nhân cũng như tiểu nhân có thể bị tha hóa thành quân tử.
Với các chuẩn mực cực đoan như vậy về cả quân tử lẫn tiểu nhân, Nho giáo không thể tạo ra được một trật tự ổn định, tức là chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa, mà chỉ có thể tạo ra được các trật tự bấp bênh, tức là chính thể chuyên chế hoặc chế độ độc tài. Với lịch sử kéo dài qua nhiều biến động tang thương, nước Tàu đã chứng tỏ rõ ràng như vậy.
Nho giáo xung khắc với dân chủ: lẽ nào lại quy kết các công dân vốn làm chủ xã hội thành tiểu nhân, hoặc giả: lẽ nào lại quy kết thành tiểu nhân đối với các cá nhân tinh hoa được bầu chọn cẩn thận thông qua các cuộc bầu cử tự do làm nhà cầm quyền? Sự xung khắc giữa Nho giáo với dân chủ chẳng khác gì sự xung khắc giữa nước với lửa!
6/ Jesus.
Jesus theo tiếng Do thái có nghĩa là Cứu độ. Cứu độ như thế nào hoặc cứu độ bằng cách nào? Câu trả lời ngắn gọn nhất là cứu độ bằng Mầu nhiệm Ba Ngôi. Theo sự thể này, Chúa sẽ thể hiện mình thành ba ngôi nhất thể, tức là ba ngôi vị khác nhau thống nhất với nhau thành một thể thống nhất hoặc một thể thống nhất thể hiện thành ba ngôi vị khác nhau: ngôi vị thứ nhất là Chúa Cha, tức là Đấng Toàn năng hoặc Đạo Vũ trụ; ngôi vị thứ hai là Chúa Con, tức là Chúa Jesus (Jesus Christ); ngôi vị thứ ba là Chúa Thánh thần hoặc Chúa Quan phòng. Chúa thể hiện thành ba ngôi vị như vậy có thể nhằm chỉ dẫn cho nhân loại cách thức để đạt được hạnh phúc. Nếu có thể diễn đạt Jesus thành Mầu nhiệm Ba Ngôi (Jesus = Mầu nhiệm Ba Ngôi) thì cũng có thể diễn đạt Mầu nhiệm Ba Ngôi thành Jesus (Mầu nhiệm Ba Ngôi = Jesus).
Jesus hoặc Mầu nhiệm Ba Ngôi là sự kiện trung tâm cho Chúa giáo (Christianity), sự kiện này tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biếnkhông bao giờ thay đổi trong Chúa giáo. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, Mầu nhiệm Ba Ngôi có tác dụng khai sáng vô cùng to lớn.
So với cái Không hoặc Không tính trong Phật giáo, Jesus trong Chúa giáo có ý nghĩa tương đương nhưng biểu hiện rõ ràng hơn làm cho người ta tiếp nhận dễ dàng hơn. Cụ thể là người ta có thể dựa vào Jesus = Mầu nhiệm Ba Ngôi để thiết lập chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa với ba thiết chế cơ bản: 1/ Nhà nước dân chủ phải được tổ chức theo quy chế phân lập tam quyền, theo đó nhà nước này phải được phân chia độc lập về nhân sự thành ba cơ quan khác nhau để thực hiện ba quyền lực tương ứng: cơ quan lập pháp thực hiện quyền lực lập pháp, cơ quan hành pháp thực hiện quyền lực hành pháp và cơ quan tư pháp thực hiện quyền lực tư pháp; sự phân chia quyền lực như vậy làm cho các nhà cầm quyền không thể lạm dụng được quyền lực nhà nước; 2/ Nhà nước dân chủ phải được làm chủ theo nguyên tắc đa nguyên bình đẳng bởi toàn thể nhân dân, theo đó nhà nước này phải bị kiểm sát chặt chẽ bởi nhiều tổ chức độc lập để ngăn ngừa các điều luật bất công dẫn đến tai hoạ cho dân chúng, cũng như phương tiện giao thông phải có phanh hãm thật tốt để phòng tránh tai nạn giao thông; 3/ Nhà nước dân chủ phải được bảo tồn theo chế độ bầu cử tự do hoặc phải hoạt động theo nhiệm kỳ; sau mỗi nhiệm kỳ nhất định, nhà nước này phải thay đổi nhân sự thông qua bầu cử tự do, theo đó mọi cá nhân đều phải được tham gia lựa chọn những người có cả tài năng lẫn đức hạnh làm người lãnh đạo đồng thời cũng đều phải được ứng cử làm người lãnh đạo, nhưng chỉ được ứng cử vào một trong ba cơ quan khác nhau: lập pháp, hành pháptư pháp, nếu ứng cử vào cơ quan này thì thôi không được ứng cử vào hai cơ quan kia hoặc nếu đắc cử vào cơ quan này thì phải từ bỏ chức vụ ở hai cơ quan kia để người đắc cử chỉ nắm được một trong ba quyền lực khác nhau: lập pháp, hành pháptư pháp. Vậy Mầu nhiệm Ba Ngôi vừa có ý nghĩa là quy chế phân lập tam quyền, vừa có ý nghĩa là chính thể cộng hòa với ba thiết chế cơ bản đã được trình bày ở trên.
7/ Lao động.
Lao động là hoạt động cần thiết để nhân loại tồn tại được.
Đây là khái niệm trung tâm cho Chủ nghĩa Marx, vốn lấy lao động làm căn bản cho mình.
Vladimir Ilich Lenin đã từng nhận xét chính xác rằng: lý thuyết kinh tế của Karl Marx là nội dung chủ yếu của Chủ nghĩa Marx, trong đó giá trị được biểu hiện phổ biến thành một khái niệm nền tảng đúng như các nhà marxist vẫn xác tín như vậy mặc dù nó được định nghĩa sai lầm. Trong Chủ nghĩa Marx, giá trị vừa trừu tượng nhất vừa quan trọng nhất: vì biểu hiện lao động xã hội vốn chỉ được thực hiện hiện thực bởi một bộ phận nhất định trong nhân loại mà thôi, tức là những cá nhân nào đó có khả năng lao động, nên giá trị trừu tượng nhất mặc dù cái trừu tượng nhất trong Chủ nghĩa Marx vẫn còn có tính chất phiến diện sẽ được biểu hiện ở cuối sự kiện này; vì biểu hiện phương pháp luận nên giá trị quan trọng nhất trong Chủ nghĩa Marx. Với ý nghĩa đó, giá trị đã bước đầu biểu hiện được một phần nào đó sự giống nhau giữa người với người hoặc một phần nào đó đã vượt lên trên sự khác nhau giữa người với người. Lẽ ra K. Marx phải bảo tồn “giá trị” để phát triển khái niệm này thành một triết lý nhân bản cho người ta có thể thiết lập được một trật tự ổn định, tức là chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa. Nhưng thật đáng tiếc, mọi khái niệm cấu thành Chủ nghĩa Marx – không trừ một khái niệm nào, kể cả “giá trị” vốn được coi như “hòn đá thử vàng” – đều không được phép tồn tại vĩnh cửuđều bị tiêu diệt không thương tiếc bởi phép biện chứng duy vật!
Trước K. Marx hơn hai ngàn năm, Heraclitus đã từng nói rằng không ai tắm được hai lần trên một dòng sông. K. Marx đã đi xa hơn theo chiều hướng cực đoan bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng với điểm tận cùng biểu hiện thành một ý kiến triết học cho rằng: vận độngthuộc tính cố hữu biểu hiện sinh mệnh của vật chất. Đạt đến điểm đó, K. Marx đột ngột dừng lại mà không bao giờ tiến lên nữa, ông ta thiếu hẳn năng lực khái quát cho việc trừu tượng hóa mọi biến chuyển thành một cái cố định: tuy đã thoáng thấy cái cố định hoặc cái bất biến trong sự biến chuyển nhưng K. Marx không biết giữ lại cái cố định hoặc cái bất biến để thiết lập một trật tự cố định, tức là chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa, mà đã bỏ rơi cho cái cố định hoặc cái bất biến bị tiêu tan theo sự biến chuyển. Vì tự giới hạn mình vào chủ nghĩa duy vật biện chứng vốn xác quyết chắc chắn rằng mọi cái đều biến chuyển vô tận làm cho mọi khái niệm đều bị vong thân nên K. Marx đã thẳng tay tiêu diệt “giá trị” bằng chính phép biện chứng duy vật với một kết luận cực đoan nhất cho rằng giá trị chỉ tồn tại tạm thời hoặc sẽ bị tiêu vong theo lao động được giải thoát khỏi sự tha hóa. Không một triết học nào lại tự phủ định chính mình rồi bị vong thân tuyệt đối như Chủ nghĩa Marx, một thứ triết học lấy việc giải phóng lao động làm mục đích cho mình nhưng lại tự phủ định chính mình để trở thành một thứ triết học lấy việc nô dịch lao động làm kết quả cho mình. Về mặt logic, sự thể đó tự nó đã rõ ràng; về mặt lịch sử, sự thể đó đã được xác nhận rõ ràng bởi chính cái hiện thực marxist, trong đó chủ nhân biểu hiện trái ngược thành đầy tớ cũng như đầy tớ biểu hiện trái ngược thành chủ nhân, tức là “chủ nhânbị bóc lột tàn tệ bởiđầy tớ” hoặc người lao động không những không được tự do mà còn bị nô lệ nặng nề hơn nữa. Vậy Chủ nghĩa Marx chỉ có một thứ duy nhất không biến chuyển, đó chính là sự biến chuyển. Một triết học như vậy không thể tạo ra được một trật tự ổn định mà chỉ có thể tạo ra được các trật tự bấp bênh để mọi cái đều có thể tự phủ định chính mình!
Chỉ cần tinh ý một chút cũng có thể nhận thấy được lao động chỉ được thực hiện hiện thực bởi một bộ phận nhất định trong nhân loại mà thôi, tức là các cá nhân nào đó có khả năng lao động. Sự thể đó cho thấy lao động không có tính chất phổ quát. Từ đó suy ra rằng một triết học lấy lao động làm căn bản cho mình như Chủ nghĩa Marx ắt sẽ không thể có giá trị phổ quát.
8/ Cái Tương đối.
Cái Tương đối được xác lập bởi Albert Einstein (1879 – 1955) với lý thuyết tương đối vốn dựa trên hai giả thiết nền tảng. Giả thiết thứ nhất cho rằng ánh sáng lan truyền trong chân không với một vận tốc như nhau theo mọi hướngkhông phụ thuộc vào hệ quy chiếu hoặc không phụ thuộc vào nguồn sáng chuyển động với vận tốc nào theo hướng nào. Giả thiết thứ hai cho rằng mọi chuyển động đều tương đối, tức là vì mọi vật đều chuyển động nên chuyển động này tương đối với chuyển động khác. Chính giả thiết thứ hai lại dẫn đến giả thiết thứ nhất. Vì ánh sáng lan truyền trong chân không với một vận tốc cố định theo mọi hướng nên vận tốc này cũng tương đối với mọi vận tốc khác thuộc về mọi chuyển động khác, tức là ánh sáng cũng tương đối với mọi vật khác. Đối với lý thuyết tương đối, cả chuyển động lẫn đứng yên đều tương đối như nhau. Vậy chỉ có cái Tương đối mới có thể tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biếnkhông bao giờ thay đổi trong vũ trụ. Đó là kết luận trực tiếp được rút ra từ lý thuyết tương đối. Kết luận này có ý nghĩa quan trọng để ta rút ra được nhiều kết luận triết học về cái Tương đối, rồi từ đó ta có thể suy ra các nguyên tắc triết học cho đời sống chính trị.
Thứ nhất, cái Tương đối chỉ có thể tồn tại hiện thực với hoạt động nhận thức hoặc chỉ có thể tồn tại hiện thực thông qua hoạt động nhận thức, người nào không có khả năng nhận thức sẽ không thể hình dung được cái Tương đối, làm cho cái Tương đối chỉ biểu hiện thuần túy thành một sự kiện tư duy mà thôi. Sự kiện này làm cho hoạt động nhận thức trở thành một hoạt động thường trực, tức là người ta chỉ có thể kiểm chứng được cái Tương đối bằng hoạt động nhận thức làm cho hoạt động nhận thức luôn luôn có khả năng sáng tạo để có thể sáng tạo thế giới, theo đó cả “vật chất” lẫn “tinh thần” đều chỉ có thể được tạo ra từ chính hoạt động nhận thức. Hoặc có thể nói theo một cách khác: cái Tương đối đã cho thấy dù quy thế giới về “vật chất” hay quy thế giới về “tinh thần” cũng đều sai lầm về mặt khoa học đồng thời đã cho thấy việc phân chia triết học thành hai loại đối lập nhau: chủ nghĩa duy vật đối lập với chủ nghĩa duy tâm, cũng đều sai lầm về mặt khoa học. Quả thật, cái Tương đối đã bác bỏ thẳng thừng mọi triết học tư biện vốn quy thế giới về một thái cực nào đó, như “vật chất” hoặc “tinh thần”, v. v., rồi chỉ cho thấy mọi cái đều biến chuyển liên tục mà không hề cho thấy bất cứ cái gì có thể tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến như cái Tương đối, tức là cái Tương đối đã cho thấy rõ ràng rằng cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm đều không hề có giá trị khoa họcchỉ có giá trị tư biện hoặc chỉ có tính chất siêu hìnhkhông thể có tính chất biện chứng!
Thứ hai, cái Tương đối đã xác nhận rõ ràng giá trị chân thực cho cái Không hoặc Không tính trong Phật giáo vốn cũng chỉ biểu hiện thuần túy – theo quan điểm khoa học – thành một sự kiện tư duy mà thôi. Đó chính là lý do sâu xa để có thể hiểu được tại sao A. Einstein đã đánh giá cao Phật giáo. Giữa cái Không với cái Tương đối chỉ có thể có một sự khác biệt duy nhất: nếu cái Không không thể được kiểm chứng rõ ràng bởi hoạt động nhận thức mà chỉ có thể được giác ngộ mơ hồ bởi chủ thể giác ngộ thông qua cái Niết bàn vốn cũng mơ hồ như vậy thì cái Tương đối lại có thể được kiểm chứng rõ ràng bởi hoạt động nhận thức, trong đó toán học có vai trò quan trọng. Hơn nữa, theo logic vận hành, cái Tương đối sẽ dẫn dắt hoạt động nhận thức đến sự Giải thoát hoặc sự Cứu độ (Jesus) bằng Mầu nhiệm Ba Ngôi trong Chúa giáo (Christianity). Nói như vậy, tôi muốn nhấn mạnh rằng cái Tương đối cũng tương đồng với Jesus hoặc Mầu nhiệm Ba Ngôi trong Chúa giáo. A. Einstein có thể không biết như vậy hoặc không ngờ như vậy nhưng chính sự kiện này đã hiện hữu trong khoa học với giả định đúng đắn đã được xác lập chắc chắn bởi chính vật lý học cho rằng đơn vị cơ bản của vật lýba mối quan hệ: sự kiện, tín hiệusự quan sát, tạo thành một tổng thể. Chính sự kiện đó có thể cho phép người ta suy ra cơ sở triết học để dựa vào đó mà thiết lập được một trật tự ổn định, tức là chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa, cho xã hội vốn bao gồm tất cả các quan hệ giữa người với người. Hệ quả này cho phép ta hiểu được tại sao A. Einstein không chỉ đánh giá cao tôn giáo mà còn phê phán gay gắt chế độ độc tàiNga, ĐứcItalia vào đầu thế kỷ XX. Không phải ngẫu nhiên mà A. Einstein đã lựa chọn lý tưởng dân chủ làm lý tưởng chính trị cho mình.
Thứ ba, cái Tương đối theo quan điểm khoa học hoặc triết học khoa học khác hẳn cái Tương đối theo quan điểm thông thường. Theo quan điểm khoa học, cái Tương đối được xác lập nhằm khẳng định sự khác biệt bằng sự tương đồng. Nhưng theo quan điểm thông thường, cái Tương đối lại thường bị xuyên tạc nhằm phủ nhận sự khác biệt bằng sự tương đồng, như phủ nhận sự khác biệt giữa độc tài với dân chủ chẳng hạn; nhà nước độc tài thường tương đối hoá cả hai khái niệm đó bằng luận điệu quen thuộc cho rằng: dù dân chủ hay độc tài cũng đều chỉ tương đối mà thôi, nhằm mê hoặc quần chúng để quần chúng cam tâm chịu đựng sự áp bức đồng thời cũng qua đó mà củng cố chế độ độc tài, v. v.. Vấn đề cốt tử là cần phải hiểu được đúng đắn về cái Tương đối để mới có thể né tránh được những cạm bẫy tư tưởng!
Lý thuyết tương đối biểu hiện cụ thể qua một trường hợp đặc biệt thành Hệ thức Einstein: E = m.c2, tức là năng lượng (E) của một vật nào đó bằng khối lượng (m) của chính vật đó nhân với vận tốc (c) của ánh sáng rồi lại nhân với vận tốc (c) của ánh sáng, trong đó c luôn luôn cố định hoặc luôn luôn bất biến bằng 299.792.458 m/s. Gần đây người ta đã tiến hành một thí nghiệm đặc biệt tại Âu châu. Kết quả sơ bộ được công bố vào ngày 20 Tháng Chín 2011 đã cho thấy neutrino chuyển động với vận tốc lớn hơn 299.792.458 m/s. Kết quả này chưa được kiểm chứng rõ ràng. Một số người vội vã kết luận rằng cần phải viết lại sách giáo khoa về vật lý. Có thể cần phải viết lại sách giáo khoa về vật lý nhưng xin hãy nhớ rằng ánh sáng lan truyền trong chân không với một vận tốc như nhau theo mọi hướngkhông phụ thuộc vào hệ quy chiếu hoặc không phụ thuộc vào nguồn sáng chuyển động với vận tốc nào theo hướng nào! Liệu neutrino có hay không có tính chất đặc biệt như vậy? Vấn đề mấu chốt không phải là vận tốc nào (lớn hay nhỏ) theo hướng nào, mà là vận tốc như nhau theo mọi hướng. Vả lại, nếu neutrino cũng có tính chất đặc biệt như ánh sáng thì vì khác nhau về vận tốc nên giữa neutrino với ánh sáng vẫn có sự tương đối, tức là sự tương đối vẫn tồn tại, hơn nữa còn tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến. Hệ quả này không hề bác bỏ lý thuyết tương đối mà còn đòi hỏi phải mở rộng lý thuyết đó nữa.
Cái Tương đối khác cái Bất định hoặc cái Bấp bênh nhưng cái Bất định lại song hành với cái Tương đối để cùng biểu hiện cái Cố định hoặc cái Bất biến cho thế giới, tức là cũng như sự vận động hoặc sự biến đổi, cái Bất định hoặc cái Bấp bênh làm thành cái Cố định hoặc cái Bất biến cho thế giới. Ở đây cái Cố định hoặc cái Bất biến chỉ biểu hiện thuần túy – theo quan điểm khoa học hoặc triết học khoa học – thành một sự kiện tư duy mà thôi, theo đó cái Cố định hoặc cái Bất biến chỉ có thể tồn tại được thông qua hoạt động nhận thức hoặc không thể tồn tại được ở đâu ngoài hoạt động nhận thức làm cho hoạt động đó phải trở thành một hoạt động thường trực mới có thể tạo tác được cái Cố định hoặc cái Bất biến cho thế giới để thế giới có tính chất cố định hoặc tính chất bất biến. Tính chất cố định hoặc tính chất bất biến biểu hiện qua lý thuyết tương đối thành tính chất tương đối nhưng lại biểu hiện qua lý thuyết lượng tử thành tính chất bất định hoặc tính chất bấp bênh.
Werner Karl Heisenberg (1901 – 1976) đã diễn đạt tính chất bất định bằng lời nói vào năm 1927 như sau: “The more precisely the position is determined, the less precisely the momentum is known in this instant, and vice versa” (Vị trí càng được xác định chính xác bao nhiêu, động lượng càng ít được biết chính xác bấy nhiêu tại thời điểm đó, và ngược lại). Rồi W. K. Heisenberg diễn đạt tính chất bất định bằng toán học với một bất đẳng thức như sau:
 (\Delta\ x) (\Delta\ P_x) \ge\  \frac{h}{4 \pi\ }
Trong công thức đó,  \Delta\ x  sai số của phép đo vị trí, \Delta\ P_x  sai số của phép đo động lượng,  h  Hằng số Planck.
Trị số của Hằng số Planck (h) trong Hệ Đo lường Quốc tế:
h \simeq 6,626\ 069\ 3\times10^{-34} J.s.
Sai số tương đối trên trị số này là 1,7×10-7, đưa đến sai số tuyệt đối là 1,1×10-40 J.s.
Theo lý thuyết lượng tử, thế giới luôn luôn tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến với tính chất bất định hoặc tính chất bấp bênh để thông qua hoạt động nhận thức vốn cũng có tính chất bất định hoặc tính chất bấp bênh, tính chất đó lại biểu hiện trái ngược theo nguyên tắc bất định thành tính chất cố định hoặc tính chất bất biến cho thế giới. Ở đây tính chất cố định hoặc tính chất bất biến cũng chỉ biểu hiện thuần túy – theo quan điểm khoa học hoặc triết học khoa học – thành một sự kiện tư duy như tính chất đó biểu hiện tương đối bằng tính chất tương đối qua lý thuyết tương đối. Vậy mà có lẽkhông thể hình dung nổi cái Bất định hoặc cái Bấp bênh lại có thể biểu hiện trái ngược theo chính nguyên tắc bất định thành cái Cố định hoặc cái Bất biến mà (lại có lẽ) chỉ xác tín tuyệt đối rằng mọi cái vào mọi lúc đều bất định làm cho người ta dù ở đâu vào lúc nào cũng bấp bênh nên W. K. Heisenberg đã không rời bỏ nền chuyên chế fascist vốn đầy bất định? Nguyên tắc bất định lại có thể gợi mở bấp bênh rằng không thể có câu trả lời chắc chắn cho câu hỏi đó.
Với ý nghĩa sâu xa vượt qua cả trực giác lẫn kinh nghiệm, cả lý thuyết tương đối lẫn lý thuyết lượng tử đều tham gia làm linh hồn cho phép biện chứng khoa học đồng thời đều đòi hỏi nhân loại phải tổ chức xã hội theo chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa để nhân loại được sống ổn định bằng Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Tôi xác tín chắc chắn rằng nhân loại có thể tạo tác được một trật tự ổn định cho một thế giới bấp bênh bằng triết học khoa học. Chính Chúa đã mang lại sự xác tín đó cho tôi bằng Mầu nhiệm Ba Ngôi. Vả lại, một thế giới bất định càng bấp bênh bao nhiêu càng đòi hỏi bấy nhiêu nhân loại phải tổ chức xã hội theo chính thể dân chủ để bảo tồn mình, nếu không thì nhân loại sẽ bị diệt vong bởi chính cái thế giới bấp bênh đầy bất định. Chúa thể hiện mình thành Ba Ngôi Nhất thể rất có thể chỉ nhằm mở ra con đường sống cho nhân loại bảo tồn mình bằng chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa để nhân loại được sống ổn định trong một thế giới bất định đầy bấp bênh. Có thể chính sự thể này đã giải thích được tại sao càng hiểu biết nhiều sẽ làm cho người ta càng xác tín nhiều hơn vào Chúa.
Nói bằng giọng triết lý để kích thích tư duy: lý thuyết lượng tử làm động lực cho nhân loại tổ chức xã hội theo chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa để bảo tồn mình nhưng lý thuyết tương đối lại làm phương pháp cho nhân loại làm việc đó!
9/ Cái Vị kỷ.
Cái Vị kỷ (hoặc bản tính vị kỷ) tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến trong mọi cá nhân vào mọi thời điểm. Mọi cá nhân dù ở bất cứ đâu vào bất cứ lúc nào cũng đều có cái vị kỷ. Cái vị kỷ vừa tồn tại xuyên không gian vừa tồn tại vượt thời gian. Quan điểm lịch sử không có tác dụng gì đối với cái vị kỷ. Sự thể này cho thấy cái vị kỷ tương đồng bản chất với cả cái Tương đối trong lý thuyết tương đối lẫn cái Không hoặc Không tính trong Phật giáo. Sự tương đồng này lại dẫn đến sự Giải thoát hoặc sự Cứu độ, tức là Jesus hoặc Mầu nhiệm Ba Ngôi trong Chúa giáo (Christianity). Kinh thánh đã nói rằng: ta là ánh sáng, là sự sống và là chân lý. Lý thuyết khoa học về chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa đã chứng tỏ rõ ràng như vậy!
Các cá nhân khác nhau về thực thể nhưng giống nhau về thuộc tính. Thực thể được nói đến ở đây phải bao gồm cả thể chất lẫn trí tuệ hoặc tinh thần. Thuộc tính được nói đến ở đây lại chỉ bao gồm bản năng sinh tồn, tức là bản năng ham sống hoặc bản năng sợ chết. Chính sự đối lập giữa thực thể với thuộc tính đã cấu thành cái vị kỷ; hoặc có thể nói theo một cách khác: cái vị kỷ chỉ hiện hữu trong sự đối lập giữa thực thể với thuộc tính đã được nói đến ở trên.
Với ý nghĩa như vậy, cái vị kỷ làm cơ sở tự nhiên cho đời sống chính trị, theo đó mọi thể chế chính trị đều phải dựa vào cái vị kỷ. Tuy nhiên, nếu chính thể nào dựa chủ yếu vào sự khác nhau về thực thể (cả thể chất lẫn tinh thần hoặc trí tuệ) giữa các cá nhân thì chính thể đó sẽ tồn tại bấp bênh; ngược lại, nếu chính thể nào dựa chủ yếu vào sự giống nhau về thuộc tính (bản năng sinh tồn) giữa các cá nhân thì chính thể đó sẽ tồn tại bền vững. Quả thật, cái vị kỷ đòi hỏi phải có pháp luật để ngăn ngừa các cá nhân làm hại cho nhau đồng thời khuyến khích các cá nhân làm lợi cho nhau hoặc được sống theo Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Nhưng muốn có pháp luật, nhân loại bao gồm tất cả các cá nhân vừa khác nhau về thực thể vừa giống nhau về thuộc tính phải tổ chức xã hội theo chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hòa. Vậy cái vị kỷ làm cho chính thể dân chủ hoặc chính thể cộng hoà phải dựa chủ yếu vào sự giống nhau về thuộc tính (bản năng sinh tồn) giữa các cá nhân để chính thể này tồn tại bền vững.
Chính thể dân chủ bảo đảm cho pháp luật tồn tại. Pháp luật tồn tại lại thôi thúc mọi người đều phải hành xử theo đạo đức. Đạo đức thể hiện cụ thể thành ít nhất ba giá trị cơ bản: Tự do – Bình đẳng – Bác ái, làm cho người ta biết hướng tới cái Thiện đồng thời cũng biết chối bỏ cái Ác.
Tự do là tình trạng được làm tất cả những gì có lợi cho mình đồng thời cũng có lợi cho cả người khác biểu hiện thành toàn bộ các quyền làm người thuộc về mỗi cá nhân nhất định hoặc nhân quyền như vẫn thường gọi.
Bình đẳng là như nhau hoặc giống nhau về cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ.
Bác ái là yêu thương người khác như yêu thương chính mình.
Đạo đức phải tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến cho dù mọi thứ khác đều có thể phải biến chuyển liên tục.

Tóm lại, cái vị kỷ đòi hỏi mỗi cá nhân nhất định phải có tinh thần khoan dung để ứng xử với các cá nhân khác bằng thái độ tương kính mới có thể làm chủ được cái vị kỷ.

J. B. Hàvăn Huytoàn
(Viêt vào Tháng Mười 2011)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét