Chúa
giáo lấy Chúa làm căn bản cho mình. Theo Chúa giáo (Công giáo, Chính giáo, Tân giáo, v. v., mà điển hình nhất
thuộc về Công giáo), Chúa
đã tạo nên mọi cái, kể cả nhân loại, đồng thời chi
phối mọi cái; mọi cái đều khởi phát từ Chúa rồi lại quay trở về Chúa;
Chúa lấy mình làm mẫu hình chung để tạo nên nhân loại theo mẫu hình đó
đồng thời thể hiện mình thành Ba Ngôi Nhất thể cho nhân loại hiệp thông với Chúa để đạt
được hạnh phúc.
Ba
Ngôi Nhất thể được lấy làm Mầu nhiệm Trung tâm cho Chúa
giáo. Thần học chỉ giải thích Chúa thể hiện mình thành Ba Ngôi Nhất thể
để
cứu vớt nhân loại mà không giải thích tại sao Chúa lại thể hiện mình thành
Ba Ngôi Nhất thể, tức là chỉ giải thích Mầu nhiệm Ba Ngôi Nhất thể (Trinité) nhằm mục đích gì mà không giải
thích Mầu nhiệm Ba Ngôi Nhất thể bắt nguồn từ nguyên nhân nào. Nhưng
theo quan
điểm khoa học được xác lập ở đây, Mầu nhiệm Ba Ngôi Nhất thể có
thể bắt nguồn từ Logic học với Lập luận bằng Ba Mệnh đề (Tam Đoạn Luận) vốn được xác lập bởi Aristote
(384 – 322 trước Công nguyên) đồng thời cũng có thể bắt nguồn từ bản
tính vị kỷ, hoặc cũng có thể bắt nguồn từ cả Logic học lẫn bản tính vị kỷ.
Nhân
loại có lịch sử được khởi phát từ chính
thể chuyên chế. Khi mới xuất hiện trên địa cầu, nhân loại chỉ nhận thức được hạn chế về mọi cái
đồng thời chỉ hoạt động kinh tế thô sơ.
Chính vì nhận thức thấp kém cộng thêm kinh tế thô sơ nên nhân loại chỉ có thể
tổ chức được xã hội theo chính thể chuyên chế mà thôi.
Qua
trải nghiệm thực tế đau thương với
chính thể chuyên chế, nhân loại dần dần
thức tỉnh. Sự thức tỉnh được thể hiện qua các tư tưởng về tự do. Mọi người đều mong muốn được thụ
hưởng tự do nhưng lại khó hiểu được đúng đắn về tự do, làm thế nào để đạt được
tự do lại càng khó khăn hơn.
Đã
từng xuất hiện nhiều trào lưu tư
tưởng khác nhau có tham vọng giải thoát nhân loại khỏi chính thể chuyên chế,
bao gồm cả tham vọng giải thoát nhân loại khỏi những tư tưởng sai lầm; nhưng
chung quy lại chỉ có Chúa giáo mới có
khả năng đó.
Theo
Chúa giáo (Công giáo, Chính giáo, Tân giáo, v. v., mà điển hình nhất
thuộc về Công giáo) thể hiện qua Kinh thánh, Chúa Jesus xuống thế gian
làm Người thông qua Đức Maria Đồng trinh ở Làng Bethlem thuộc nước Palestine (vùng
đất có dân tộc Israel sinh sống thuộc Đế quốc La mã) vào đầu Công nguyên để cứu vớt
nhân loại đang phải chịu đựng vô số tai hoạ khủng khiếp được gây nên bởi
chính nhân loại đang ở vào tình trạng u
mê, trong đó có các dân tộc thuộc Đế quốc La mã đang phải sống theo chính thể độc tài được thiết lập bởi Julius Cesar.
J.
Cesar thiết lập nền độc tài sau khi tiêu diệt nền cộng hoà đã từng tồn tại suốt
mấy trăm năm trước đó với nhiều thành tựu văn hoá rực rỡ có giá trị vĩnh cửu.
Ông ta nổi tiếng với lời tuyên bố rằng: “nền
cộng hoà là cái quái gì, lời nói của
ta chính là luật!” (về sau cả Adolf
Hitler lẫn Benito Mussolini đều
lấy cảm hứng tinh thần từ lời tuyên
bố đó). Với tư tưởng độc đoán như thế, J. Cesar đã thiết lập một nền độc tài điển hình với sự nghiệt ngã cùng cực; nền độc tài đó
đã gây nên biết bao tai hoạ đau thương cho Đế quốc La mã mà chính ông ta cũng
phải lãnh nhận một cái chết bất đắc kỳ tử.
Chúa
Jesus xuống thế gian làm người rất đúng
lúc, vào đúng cái lúc mà nhân loại đang cần được cứu độ. Ngài đã làm nhiều
việc vừa bí ẩn vừa hữu ích đối với nhân loại, trong đó có việc xác lập Mầu nhiệm Ba Ngôi cho Chúa, theo đó Chúa
thể hiện thành ba ngôi: ngôi thứ nhất là Chúa Cha; ngôi thứ hai là Chúa Con, tức là chính Chúa Jesus; ngôi thứ ba là Chúa Thánh thần. Trước đó Chúa chỉ thể hiện trừu
tượng thành Một Đấng Toàn năng Duy nhất
trong Cựu ước khiến người ta khó cảm
nhận được Chúa mà chỉ xác tín rằng có một Chúa tồn tại bí ẩn ở đâu đó bên ngoài
nhân loại hoặc xa lạ đối với nhân loại. Với việc xác lập Mầu nhiệm Ba Ngôi cho
Chúa, Chúa Jesus đã chỉ ra con đường đúng đắn cho nhân loại thoát khỏi tai hoạ.
Chính việc này đã thôi thúc nhiều người tin theo Chúa Jesus trong đó có 12 (mười
hai) người gần gũi nhất tự nguyện làm môn đệ cho Ngài khiến Ngài trở thành Vua.
Ở đây Vua chỉ theo ý nghĩa khai sáng khởi nguồn từ Chúa Ba Ngôi chứ không phải Vua theo ý nghĩa u mê xuất phát từ quyền
lực độc đoán ở thế gian.
Chính
vì số người tin theo Chúa Jesus ngày càng đông nên chính quyền độc tài ở La mã
với ý thức u mê đã tỏ ra lo sợ cùng
cực; chính quyền đó kích động tầng lớp tư
tế ở Palestine bài xích Chúa Jesus, quy chụp Ngài thành kẻ dị giáo rồi vu
khống Ngài kích động dân chúng nổi loạn; cuối cùng, chính quyền đó đã xử phạt
tử hình đối với Chúa Jesus, Ngài bị đóng đinh lên Thập giá rồi chết trên đó.
Các
môn đệ đã chôn cất Chúa Jesus vào hang đá. Nhưng đến ngày thứ ba, Ngài sống lại
rồi ở với các môn đệ thêm 40 (bốn mươi) ngày nữa mới về Trời.
Trước
khi về Trời, Chúa Jesus đã thiết lập 7
(bảy) Phép Bí tích làm nghi lễ
chính thức để nhân loại hiệp thông với Chúa thông qua Giáo hội Chúa giáo với nhiều
hình thức khác nhau.
Với
nhiều hình thức khác nhau, Giáo hội Chúa giáo phát triển mạnh mẽ làm nảy sinh nhiều
vấn đề hệ trọng, trong đó có một số
vấn đề nền tảng, đó là Chúa có hay không? Nếu
có thì Chúa tồn tại như thế nào? Tại sao càng hiểu biết nhiều sẽ làm cho
người ta càng xác tín nhiều hơn vào Chúa? Vân vân.
Thuở
còn dốt nát trước khi xuất hiện khoa học hiện đại (sinh học, tâm lý học,
vật lý học, toán học, tin học, v. v.), người ta chỉ thấy Chúa bằng đức tin;
nhưng thời sáng suốt vốn được bắt đầu từ khi xuất hiện khoa học hiện đại, người
ta còn thấy Chúa bằng cả lý trí nữa. Chính khoa học hiện đại đã
chứng tỏ rõ ràng như vậy.
Ta
hãy lấy một ví dụ cụ thể. Vật lý học
hiện đại làm cho ta biết được thế giới
vừa có tính chất tương đối vừa có tính chất bất định. Tính chất tương đối
làm cho ta xác tín chắc chắn rằng thế giới phải có một sự khởi đầu nào đó, chẳng hạn như Vụ Nổ Lớn (The Big Bang)
hoặc một cái gì đó tương tự nhưng
tính chất bất định lại làm cho ta không
thể xác định chính xác sự khởi đầu đó hoặc làm cho ta chỉ có thể xác định được sự khởi đầu đó bằng xác suất. Cả hai tính chất đó đều mở ngỏ cho sự
khởi đầu thuộc về Chúa. Vả lại, chính vật lý học đã
chứng tỏ rõ ràng rằng nhận thức cũng
có cả tính chất tương đối lẫn tính chất bất định; rằng với cả hai tính chất đó,
nhận thức chỉ biểu hiện một sự sống mong
manh cho ta để ta chỉ có thể sống
được bằng một sự sống mong manh.
Chính sự sống này bắt buộc ta phải xác tín vào Chúa để ta được an bình, rằng chính
Chúa đã tạo tác thế giới để thế giới có sự khởi đầu thuộc về Chúa. Tính
chất bất định cũng như tính chất tương đối làm cho nhận thức phải biểu hiện
thành nhiều ý kiến khác nhau về Chúa: ý kiến này có thể thừa nhận Chúa nhưng ý kiến khác lại có
thể phủ nhận Chúa để Chúa vẫn
cứ tồn tại thản nhiên ngay cả khi bị phủ nhận gay gắt nhất. Charles
Darwin (1809 – 1882) đã từng phủ nhận mạnh mẽ nhất nhưng rồi lại bị phủ nhận
mạnh mẽ hơn bởi Gregor Mendel (1822 – 1884); tuy dung hòa C. Darwin với G.
Mendel, nhưng Clinton Richard Dawkins (sinh năm 1941, hiện nay đang sống tại
Anh quốc) không thể tránh khỏi phải đối mặt với một câu hỏi gay gắt: một
thế giới vị kỷ mà không có Chúa ngự trị sẽ được bảo tồn hay sẽ bị hủy diệt bởi
chính thế giới đó? Chính câu hỏi này đã mở ra một con đường thênh thang dẫn ta đến Mầu nhiệm Ba Ngôi vốn đã được xác lập bởi chính Chúa Jesus.
Nhiều
người biết Chúa thể hiện mình như thế nào hoặc biết được Chúa thể hiện
mình thành ba ngôi như Kinh thánh
đã nói: ngôi thứ nhất là Chúa Cha, tức là Đấng Toàn năng hoặc Đạo Vũ
trụ; ngôi thứ hai là Chúa Con, tức là Chúa Jesus (Jesus
Christ); ngôi thứ ba là Chúa Thánh thần, tức là Chúa Quan phòng.
Nhưng ít người hiểu được tại sao
Chúa lại thể hiện mình như thế! Vì nhân loại có bản năng ham sống hoặc bản năng sợ chết, bản
năng này làm cho mọi cá nhân đều có bản tính vị kỷ: ích kỷ, tư lợi
và tham lam, mà bản tính vị kỷ lại luôn luôn thúc đẩy các cá nhân sẵn
sàng làm hại lẫn nhau hoặc làm cho nhau đau khổ, nên Chúa phải thể hiện mình thành
ba ngôi như trên để cứu vớt nhân loại khỏi tội ác! Trước hết, Chúa chỉ
dẫn cho nhân loại phải biết sống theo pháp luật để có thể trở nên tốt
đẹp hoặc được hạnh phúc; tiếp theo, Chúa khẳng định cho nhân
loại hiểu được rằng: muốn sống theo pháp luật, nhân loại phải biết thiết lập nhà
nước dân chủ hoặc nhà nước cộng hoà; tiếp theo nữa, Chúa chứng
minh cho nhân loại hiểu được rằng: muốn thiết lập được nhà nước dân chủ
hoặc nhà nước cộng hoà, nhân loại phải biết sống bác ái, tức là yêu
thương người khác như yêu thương chính mình, nếu đấu tranh thì phải đấu tranh
bằng ý chí thông qua đối thoại hoà bình chứ tuyệt đối không
được đấu tranh bằng bạo lực thông qua gây hấn chiến tranh.
Chính Chúa Jesus đã dạy bảo các môn đệ rằng: “kẻ nào sử dụng đao kiếm
sẽ bị chết bởi đao kiếm” (ý nói: sử dụng bạo lực sẽ bị chết bởi bạo lực!);
rằng: “kẻ nào tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, kẻ nào tự hạ mình
xuống sẽ được nâng lên” (ý nói: mọi người đều như nhau – bình
đẳng!); rằng: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em;
Thầy đã yêu thương anh em như thế nào, anh em hãy yêu thương nhau như
thế” (ý nói: mọi người đều phải biết sống bác ái!). Như thế tức là phương pháp đấu tranh bằng ý chí hoặc phương pháp đấu tranh bất bạo động đã
được xác lập lần đầu tiên bởi chính Chúa Jesus. Lời giáo huấn này đã
xâm nhập sâu rộng vào toàn thể nhân loại, từ đó đã tạo nên nhiều
quốc gia có nhà nước dân chủ hoặc nhà nước cộng hoà, như các quốc gia ở Mỹ châu
(Canada, Mỹ, Mexico, v. v.), Âu châu (Anh, Pháp, Đức, Ý, Ba lan, v. v.), Úc châu
(Australia, New Zealand, v. v.), Á châu (Ấn độ, Nhật bản, Israel, Đài loan, Nam
Triều tiên, v. v.), Phi châu (Nam Phi, v. v.); nhờ biết lắng nghe Lời Chúa đồng thời biết vận dụng Lời
Chúa vào đời sống của mình mà tất cả các quốc gia đó đều cực kỳ thịnh vượng: kinh
tế giàu có, chính trị tự do, văn hoá tân kỳ (cả khoa học
lẫn nghệ thuật đều nảy nở rực rỡ!), chứ không nghèo đói nhếch nhác như
các quốc gia không có nhà nước dân chủ hoặc nhà nước cộng hoà. Căn cứ vào thực
tế sinh động như thế, khoa học đã hoặc
sẽ xác định rằng: Chúa giáo (Công giáo, Tân giáo, Chính
giáo, v. v., đặc biệt điển hình nhất thuộc về Công giáo) là Tôn giáo Cộng hoà hoặc Tôn giáo về nền Cộng
hoà, cũng như Phật giáo là Tôn giáo Bình đẳng hoặc Tôn giáo về sự Bình đẳng với quan niệm
cho rằng mọi cá nhân đều có Phật tính!
Ngày
nay, Kinh thánh vẫn là bộ sách quan trọng nhất trên thế giới.
Trừ những người bị khuyết tật về trí óc, có lẽ không một người bình thường nào
dám coi thường Kinh thánh. Vì mang thông điệp về Chúa Ba Ngôi nên Kinh thánh
trở nên thiêng liêng nhất đối với các Christians (Tín đồ Chúa giáo) nhưng lại
trở nên cần thiết đối với tất cả mọi
người.
Chúa
giáo khởi nguồn trực tiếp từ Judaism
(Do thái giáo) qua Cựu ước đồng thời
tiếp nhận ánh sáng phát ra từ Triết học
Hy lạp mà điển hình nhất thuộc về Aristote,
chính nhờ đó mà Chúa giáo thể hiện bản chất thành tôn giáo cộng hoà. Do mang bản chất cộng hoà nên Chúa giáo đã trở
thành tiền đề trực tiếp cho tư tưởng khai sáng xuất hiện ở Tây Âu châu vào thế kỷ XVIII mà điển hình nhất thuộc về Charles de Secondat Montesquieu. Quả thật, tư tưởng khai sáng thể
hiện nổi bật nhất qua C. S. Montesquieu. Chính nhờ tiếp nhận ảnh hưởng phát ra
từ Chúa giáo mà ông đã viết được “Tinh thần Pháp luật”, trong đó ông đã
xác lập được quy chế phân lập tam quyền
cho việc thiết lập nhà nước cộng hoà.
George Soros đã đề xuất yêu cầu phải hiện đại hoá tư tưởng khai sáng 157), tôi đã nỗ lực hết mình để góp phần
nhỏ bé vào việc thoả mãn yêu cầu đó!
Nhân
loại có bản năng sinh tồn, tức là bản năng ham sống hoặc bản năng sợ chết, bản năng này làm cho
mỗi cá nhân nhất định luôn luôn có bản tính vị kỷ: ích kỷ, tư lợi và tham lam; bản tính vị kỷ làm cho mỗi cá
nhân đó luôn luôn phản ứng lại mọi tác động từ bên ngoài bất kể những tác động
đó tích cực hay tiêu cực; phản ứng đó biểu hiện thành phản xạ xã hội, đúng như G. Soros đã giả định bằng reflexivity (phản xạ tính hoặc tính phản
xạ).
Vả
lại, nhân loại lại bao gồm tất cả các cá nhân khác nhau về cả thể chất
lẫn trí tuệ, theo đó mỗi cá nhân nhất định luôn luôn bị hạn chế
về cả thể chất lẫn tinh thần khiến cá nhân đó có thể làm được việc này mà không thể làm được việc khác cũng như có thể biết cái này mà không thể biết cái
khác, tức là nhận thức của mỗi cá nhân nhất định luôn luôn có khả năng sai lầm, đúng như G. Soros đã
giả định bằng fallibility (sai khả tính hoặc tính có thể sai).
Vấn
đề quan trọng được đặt ra là cần phải làm
thế nào để nhân loại tồn tại theo một chỉnh thể thống nhất hài hoà, trong đó các cá nhân bổ sung cho nhau mà
không loại trừ nhau?
G.
Soros đã giả định đúng đắn nhưng lại không biết cội nguồn sâu xa dẫn đến cả reflexivity
lẫn fallibility. Nhưng chính nhờ đã
giả định đúng đắn mà ông đã đặt ra rất
đúng đắn những vấn đề đúng đắn mặc dù không có tham vọng giải quyết một lần
cho xong tất cả những vấn đề đó. G. Soros đã để ngỏ những vấn đề đó cho chúng
ta phải giải quyết, hoặc có thể nói thật vui vẻ: ông đã tạo ra nhiều việc làm bổ ích cho chúng ta phải làm!
Qua
nghiên cứu công phu nghiêm túc, tôi thấy rằng cần phải thiết lập chính thể dân chủ cho toàn thể nhân loại để các cá nhân có thể
bổ sung cho nhau thông qua cả hợp tác
lẫn cạnh tranh mà quyết không thể
loại trừ nhau thông qua cả tranh giành
lẫn thôn tính. Chính thể dân chủ sẽ
bảo đảm thúc đẩy cạnh tranh diễn biến hài
hoà theo xu hướng hợp tác để phát triển; ngược lại, chính thể chuyên chế sẽ chỉ thúc đẩy cạnh
tranh diễn biến cực đoan theo xu hướng thôn tính để tự huỷ diệt.
Tôi
giác ngộ được sự thể đó chính nhờ Chúa Jesus đã xác lập Mầu nhiệm Ba Ngôi cho
Chúa.
Chúa
giáo mang tư tưởng hoài niệm về nền dân chủ chủ nô, sự thể này biểu hiện
hết sức rõ ràng qua Giáo lý Nguyên thủy.
Theo
Giáo lý Nguyên thủy, thế giới (bao gồm cả nhân loại nữa) được tạo dựng bởi Chúa, mà Chúa lại có ba ngôi nhất thể: ngôi thứ nhất là Chúa Cha; ngôi thứ hai là Chúa Con, tức là Chúa Jesus (Jesus Christ); ngôi thứ ba là Chúa Thánh thần; cả ba ngôi đều chủ trương cứu vớt nhân loại khỏi
mọi tội lỗi, mọi đau khổ, mọi nỗi khiếp sợ. Để thực hiện chủ trương này, Chúa
dạy bảo nhân loại phải tôn kính Chúa hoặc phải thờ phượng Chúa như con cái thờ
kính cha mẹ vậy, mà muốn thể hiện thái độ tôn kính đối với Chúa lại phải sống
bác ái, theo đó mọi cá nhân đều phải yêu thương người khác như yêu
thương chính mình (thương người như thể thương thân). Bác ái không chỉ thể hiện
bằng lời nói mà còn phải thể hiện bằng hành
động. Nếu sống được như vậy thì sau khi chết sẽ được lên Thiên đàng để sống tiếp một cuộc sống
đầy hạnh phúc cùng Chúa; ngược lại nếu không sống được cuộc sống bác ái với
cuộc đời này mà lại cứ phạm tội lỗi thì sau khi chết sẽ bị đẩy xuống Luyện ngục để sống cuộc đời đầy đau khổ
ở đó, hoặc phải tu dưỡng thêm ở đó rồi mới được lên Thiên đàng, tức là rốt
cuộc, dù thế nào cũng được cứu vớt bởi Chúa vốn đầy lòng bác ái. Nhưng nếu
không biết sám hối (ăn năn hối hận) ở đó thì sẽ bị sa xuống Hoả ngục rồi bị đày đoạ vĩnh viễn ở đây.
Vậy nếu muốn tránh sa xuống Hoả ngục thì phải biết sám hối!
Vì
Chúa sinh ra nhân loại cũng như cha mẹ sinh ra con cái nên nhân loại phải thờ
kính Chúa cũng như con cái phải thờ kính cha mẹ đã đành nhưng nguyên lý này lại
được mở rộng cho cả quan hệ nô lệ lẫn
quan hệ hôn nhân bởi Thánh Paul, theo đó Chúa cũng dạy bảo nô
lệ phải phục tùng chủ nô cũng như vợ phải phục tùng chồng. Qua đây chúng ta
thấy được rằng Giáo lý Nguyên thủy vừa mang tư tưởng cộng hoà vừa mang tư tưởng
chuyên chế.
Tư
tưởng cộng hoà thể hiện qua mấy điểm sau đây: 1) Mọi cái cũng như mọi cá nhân đều được tạo nên bởi Chúa, mà Chúa lại
có ba ngôi nhất thể. Sự thể này vừa
thể hiện tư tưởng về sự bình đẳng vừa
thể hiện tư tưởng về quy chế phân lập tam
quyền; 2) Cả ba ngôi đều thực hiện chủ trương cứu vớt nhân loại khỏi mọi
tội lỗi, mọi đau khổ, mọi nỗi khiếp sợ; tức là mang lại hạnh phúc cho nhân
loại. Sự thể này thể hiện tư tưởng về sự
bình đẳng, nhưng ở đây sự bình đẳng có phạm vi rộng lớn hơn nhiều, không
chỉ có sự bình đẳng giữa ba ngôi mà còn có cả sự bình đẳng giữa Chúa với nhân
loại lẫn sự bình đẳng giữa các cá nhân khác nhau nữa kia. Sự bình đẳng giữa
Chúa với nhân loại thể hiện rõ rệt nhất qua ngôi
thứ hai, tức là Chúa Jesus. Chúa
Jesus có cả Thần tính lẫn Nhân tính, vừa mang bản tính của Chúa
vừa mang bản tính của nhân loại; 3) Kêu gọi mọi người hãy yêu thương người khác
như yêu thương chính mình hoặc hãy thương người như thể thương thân. Sự thể này
thể hiện tư tưởng về bác ái. Nhờ mang nặng tư tưởng cộng hoà mà Chúa giáo
trở thành nền tảng đạo đức cho nền
dân chủ tự do. Mặc dù ở một số nước dân chủ không có Chúa giáo, có thể người ta
không biết hoặc chỉ biết được rất ít về Chúa giáo nhưng thực tế hàng ngày đa số
người ta vẫn thực hành những nguyên tắc cơ bản đã được xác lập bởi Chúa giáo.
Cũng chính vì trở thành nền tảng đạo đức cho nền dân chủ tự do nên Chúa giáo
thu hút được ngày càng nhiều tín đồ. Hiện nay, Chúa giáo có tín đồ nhiều nhất
so với tất cả các tôn giáo khác.
Tư
tưởng chuyên chế thể hiện qua lời kêu gọi vợ
phải phục tùng chồng hoặc nô lệ phải
phục tùng chủ nô cũng như khẳng định chồng
có quyền hành tuyệt đối đối với vợ hoặc chủ
nô có quyền lực tuyệt đối đối với nô lệ. Nhưng hình như tư tưởng này không tồn tại tự thân trong Giáo lý
Nguyên thủy mà có lẽ chỉ được tạo tác
khiên cưỡng theo ý đồ xuyên tạc
nhằm lạm dụng Chúa giáo vào việc bảo tồn
chính thể chuyên chế bởi nền chuyên
chế thần quyền làm cho Chúa giáo bị
biến dạng với tư tưởng chuyên chế như thế. Chính vì bị biến dạng theo ý đồ
xuyên tạc bởi việc lạm dụng mà phải mang nhẹ tư tưởng chuyên chế như thế nên về
sau Chúa giáo cũng lại trở thành nền tảng
tinh thần cho một số nền chuyên chế
hết sức nghiệt ngã đến mức độ mà nó đã bị đả kích dữ dội rất thái quá bởi một số triết gia ngây thơ, trong đó có Jean Jacque Rousseau (1712 – 1778).
Sau
cuộc Cải cách Tôn giáo xảy ra ở Âu
châu vào thế kỷ XVI làm phát sinh Tân
giáo hoặc Giáo phái Tin lành, đặc biệt cuộc tự vấn lương tâm vào
cuối
thế kỷ XX đã làm cho tư tưởng chuyên chế bị loại bỏ hoàn toàn khỏi Giáo
lý Nguyên thủy để Giáo lý Nguyên thủy trở thành Giáo lý Hoàn chỉnh như ngày nay. Với giáo lý hoàn chỉnh, Chúa giáo làm nền tảng chắc chắn nhất cho chính
thể dân chủ đang tiến triển mạnh mẽ trên khắp thế giới.
Chúa
Ba Ngôi làm nên đặc trưng nổi bật nhất
cho Chúa giáo, chính nhờ đó mà Chúa giáo dễ dàng xâm nhập đời sống chính trị
hơn bất cứ một tôn giáo nào khác. Việc tổ chức bộ máy nhà nước theo quy chế phân lập tam quyền thường được chỉ dẫn bởi những tư tưởng chính trị
bắt nguồn trực tiếp hoặc gián tiếp từ giáo lý về Chúa Ba Ngôi. Sự thể này cũng
biểu hiện đặc trưng nổi bật nhất cho văn hoá ở Tây phương, vốn có khả năng ứng dụng rất cao vào đời sống
thực tế.
Hầu
như tôn giáo nào cũng hướng người ta đến cái Thiện để sống bác ái, nhưng có lẽ chỉ Chúa giáo mới xác lập được con đường hiện thực để có thể đưa người
ta đến được cái Thiện. Con đường ấy chính là Mầu nhiệm Ba Ngôi. Chính mầu nhiệm này đã làm cho Chúa giáo trở
thành một tôn giáo thấm đẫm giá trị hiện
thực đến mức độ mà hầu như sự kiện nào cũng xác nhận sự thể đó! Chẳng hạn,
khoa học chỉ có thể phát triển được rực rỡ trong chính thể dân chủ, mà chính
thể này lại chỉ có thể tồn tại được với quy chế phân lập tam quyền, quy chế này
lại hiệp thông thống nhất với Mầu
nhiệm Ba Ngôi; hoặc Chúa Jesus ra đời theo một
mầu nhiệm đặc biệt mà phải đợi đến khi phát minh được kỹ thuật nhân bản vô tính vào năm 1997 với việc cho ra đời chú
Cừu Dolly, người ta mới có thể hiểu được, v. v.. Vô số sự kiện tương tự đã
xác nhận giá trị hiện thực cho Chúa giáo. Chính nhờ đó mà Chúa giáo có thể đã
mang lại sự hoàn thiện cho mọi tôn giáo khác, tức là mọi tôn giáo khác đều có
thể hiệp thông với Chúa giáo!
Với
nhiều căn cứ thực tế, chúng ta có thể
tin rằng Chúa giáo nối tiếp Phật giáo rồi đưa Phật giáo lên một tầm vóc cao hơn
thể hiện thành con đường hiện thực hơn cho việc giải thoát nhân loại. Con đường
đó chính là Mầu nhiệm Ba Ngôi, trong
đó ngôi thứ nhất có lẽ thể hiện Đạo Vũ trụ vốn đã được định hình bởi
chính Phật giáo.
Chúa
Jesus đã phán truyền rằng: “kẻ nào tự
nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, kẻ nào
tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (ý nói: mọi người đều như nhau – bình
đẳng!); “kẻ nào sử dụng đao kiếm sẽ
bị chết bởi đao kiếm” (ý nói: sử dụng
bạo lực sẽ bị chết bởi bạo lực!); “anh
em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em; Thầy đã yêu thương anh em như thế nào, anh em hãy yêu thương nhau như thế!” (ý nói: mọi người đều phải sống bác ái!). Phán truyền như thế, Chúa Jesus
có ý muốn nói rằng: do bình đẳng với nhau
nên mọi người đều phải sống bác ái mới có thể đến được với một Chúa Ba Ngôi để
được lên Thiên đàng (ý nói: được
hưởng hạnh phúc!) rồi sống mãi ở đó
(ý nói: sẽ bảo tồn được mình!).
Lời
phán truyền này có ý nghĩa sâu xa rằng: phải đấu tranh bằng con đường hoà bình để thiết lập chính
thể dân chủ với một nhà nước pháp quyền
được tổ chức theo quy chế phân lập tam quyền, thiết lập được chính thể dân
chủ với một nhà nước pháp quyền được tổ chức theo quy chế phân lập tam quyền sẽ làm cho nhân loại được hạnh phúc! Đó
chính là lý do sâu kín làm cho tất cả các nhà độc tài vừa khiếp sợ vừa thù
ghét Chúa giáo đến mức độ mà Chúa giáo đã từng bị truy bức hết sức đẫm máu
theo suốt chiều dài lịch sử hoặc các vua chúa sẵn sàng làm ra sách báo độc hại
như Tây dương Gia tô Bí lục chẳng hạn
để truy bức Chúa giáo về mặt tư tưởng.
Nhưng vì có tư tưởng thấm đẫm giá trị
hiện thực như thế nên dù bị đàn áp khốc liệt nhất, Chúa giáo vẫn hiên ngang phát triển mãnh liệt hơn mọi tôn giáo khác!
Tôi
cảm thấy mình được cứu rỗi bởi Chúa khi giác ngộ được rằng nhân loại có bản
tính vị kỷ: cá nhân nào cũng ích kỷ, tư lợi và tham lam, khiến nhân loại phải
hành xử theo pháp luật mới trở nên
tốt đẹp; rằng nhân loại phải biết sống theo Mầu
nhiệm Ba Ngôi, tức là phải biết tổ chức bộ máy nhà nước theo quy chế phân lập tam quyền (ứng nghiệm
với Mầu nhiệm Ba Ngôi!) lấy nguyên tắc đa
nguyên bình đẳng làm cơ sở tự nhiên để thiết lập bộ máy đó thông qua chế độ bầu cử tự do, mới được hạnh phúc
(được hạnh phúc tức là được lên Thiên
đàng!); rằng sống theo Mầu nhiệm Ba Ngôi sẽ được hạnh phúc ngay ở đời này
mà không cần phải đợi đến đời sau, tức là Mầu nhiệm Ba Ngôi mang lại hạnh phúc
cho nhân loại ngay khi còn sống chứ
không phải đợi đến sau khi chết; rằng Chúa sẽ mang lại hạnh phúc cho người nào
biết sống theo Mầu nhiệm Ba Ngôi! Tôi luôn luôn cầu mong cho mọi người cũng như
cả thế giới đều biết sống theo Mầu nhiệm Ba Ngôi để được hạnh phúc hoặc thoát
khỏi mọi hình thức chuyên chế!
Tại
sao Chúa lại có Ba Ngôi mà không thể
có nhiều hơn hoặc ít hơn? Vấn đề này đã được giải đáp bằng tất cả các đoạn văn nói về chính thể dân chủ hoặc nhà nước cộng hoà.
Vậy căn cứ vào đó, người ta có thể khẳng
định lại chắc chắn rằng Chúa giáo là Tôn
giáo Cộng hoà hoặc Tôn giáo về nền
Cộng hoà, có thể bao quát hoặc dung nạp được tất cả các tôn giáo khác, tức
là tất cả các tôn giáo khác đều có thể
hiệp thông mà không hề mâu thuẫn với Chúa giáo trong nền cộng hoà! Sự thể
này đã giải thích được tại sao Chúa giáo ở các nước dân chủ rất dễ dàng chấp
nhận các tôn giáo khác (chẳng hạn: chùa chiền mọc lên khá nhiều ở các nước cộng
hoà có Christians (Tín đồ Chúa giáo)
chiếm đa số, v. v.) hoặc coi việc chấp nhận các tôn giáo khác như một trong
những việc đương nhiên thuộc về lòng bác
ái vốn tồn tại tự thân trong bản thân mình, đồng thời cũng giải thích được
tại sao chính thể chuyên chế luôn luôn bài xích Chúa giáo: tất cả các nhà độc tài đều rất thù ghét Chúa giáo, thậm chí ngay cả
các Chức sắc Chúa giáo nắm giữ quyền lực nhà nước trong chính thể chuyên chế
cũng phá hoại Chúa giáo!
Do
bị lạm dụng vào việc biện minh cho nền chuyên
chế thần quyền ở Tây phương vào thời
đại trung cổ nên Chúa giáo vào thời đại đó có diện mạo bạo tàn hết sức đáng sợ đã góp phần quan trọng làm phát sinh Hồi giáo. Hồi giáo chống lại Chúa giáo ngay từ nền tảng quan trọng
nhất. Sau khi góp phần quan trọng bằng diện mạo bạo tàn làm phát sinh Hồi giáo,
Chúa giáo đã bị phân hoá ít nhất hai
lần. Lần thứ nhất liên quan chủ yếu
đến giáo lý cơ bản xảy ra vào thế kỷ XI (năm 1054) làm cho Chúa giáo bị phân hoá thành hai nhánh khác nhau về mối quan hệ giữa ba ngôi nhất thể: Công giáo (Catholicism) cho rằng ngôi
thứ ba được sinh ra từ cả ngôi thứ nhất lẫn ngôi thứ hai, khác hẳn Chính giáo (Orthodoxism) cho rằng ngôi
thứ ba chỉ được sinh ra từ ngôi thứ nhất mà thôi. Trong một tài liệu tuyên truyền được biên soạn
rất lộn xộn bởi Lương Thị Thoa: Lịch sử
Ba Tôn giáo Thế giới. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà nội 2000, thông tin ở trang 13 khác hẳn thông tin ở trang 23; trang 23 nói rằng ngôi thứ ba chỉ được sinh ra từ ngôi thứ
nhất, nhưng trang 13 (chú thích) lại nói rằng ngôi thứ ba được sinh ra từ ngôi thứ hai vốn được sinh ra từ ngôi thứ
nhất, làm cho độc giả không thể biết được chính xác về Chính giáo. Tôi cũng
bị lâm vào tình trạng đó khiến tôi rất cảnh giác với các tài liệu như vậy.
Nhưng dù thế nào tôi cũng tin rằng quan
niệm về mối quan hệ giữa ba ngôi nhất thể chắc chắn phải có ảnh hưởng đến cách thức để tổ chức bộ máy nhà nước. Nếu ngôi
thứ nhất sinh ra ngôi thứ hai rồi ngôi thứ hai lại sinh ra ngôi thứ ba,
hoặc chỉ ngôi thứ nhất sinh ra ngôi thứ
ba, thì tự do sẽ bị hạn chế. Sự
thể này đã giải thích được tại sao
dân chủ phát triển chậm chạp ở các nước theo Chính giáo nhưng lại phát triển
nhanh chóng ở các nước theo Công giáo (ngay cả Hy lạp vốn đã từng phát minh được nền Dân chủ Cổ điển nhưng về sau có lẽ vì theo Chính giáo nên mãi đến cuối thế kỷ XX mới có nền Dân chủ Hiện đại, muộn mằn hơn nhiều so
với các nước theo Công giáo!) làm cho
Chúa giáo không thể tránh khỏi tiếp tục bị phân hoá sâu sắc hơn nữa. Lần thứ
hai liên quan chủ yếu đến tổ chức giáo hội xảy ra trong Công giáo vào thế kỷ XVI với cuộc Cải cách
Tôn giáo làm phát sinh Tân giáo (Neoism) hoặc Thệ phản (Protestantism),
còn được gọi là Tin lành (Evangelism) hoặc Cải giáo (Reformism), v. v.. Lương Thị Thoa cho rằng Tân giáo ở Anh quốc được gọi là Anh giáo
(Anglicanism). Stop Here! Tôi đề nghị
Lương Thị Thoa xem lại “Anglicanism”, tôi thấy hình như đại đa số dân chúng ở Anh quốc theo Công giáo nhưng Giáo hội Công
giáo ở Anh quốc tách khỏi Giáo hội Công giáo ở Roma. Tân giáo đơn giản hoá cả giáo lý cơ bản (chỉ lựa chọn 36
sách trong Cựu ước mà từ bỏ 10 sách trong đó) lẫn tổ chức giáo hội (từ các thiết chế tôn giáo đến các nghi thức tôn giáo đều được đơn giản
hoá) nhằm thế tục hoá sinh hoạt tôn giáo
hoặc biến sinh hoạt đó thành một sinh
hoạt phổ thông hơn. Như thế tức là xét đến cùng, Tân giáo không hề xung khắc với Công giáo! Nếu có xung khắc đẫm máu giữa hai nhánh này thì
sự xung khắc đó chỉ bắt nguồn từ việc Giáo hội Công giáo nắm giữ quyền lực chuyên chế trong nền chuyên chế thần quyền mà thôi. Việc từ
bỏ 10 sách trong Cựu ước có thể đã giải thoát Tân giáo khỏi ảnh hưởng chuyên chế từ Do
thái giáo (Judaism) chứ không làm
cho Tân giáo xung khắc với Công giáo như một số người vẫn nghĩ như vậy. Việc
đơn giản hoá cả thiết chế tôn giáo
lẫn nghi thức tôn giáo có thể chỉ làm
cho giáo hội bị tách khỏi nhà nước chứ chưa chắc đã gây nên tổn thất cho giáo
hội!
Không
chỉ có Chúa giáo bị lạm dụng vào việc biện minh cho chính thể chuyên chế mà
ngay cả Đạo giáo ở Tàu quốc cũng bị lạm dụng vào việc củng
cố chính thể chuyên chế. Nhưng những người thiển cận thảm thương đã hồ đồ đồng
nhất Chủ nghĩa Marx với Chúa giáo, rằng Chủ nghĩa Marx cũng gây nên “núi xương
sông máu” như Chúa giáo. Họ không
hiểu rằng đối với tội ác nhân danh ý thức hệ như thế, Chúa giáo phải làm nạn
nhân đối lập hẳn với Chủ nghĩa Marx lại chỉ làm tác nhân. Chúa giáo phải
làm nạn nhân cho những tội ác tày trời được gây nên bởi nền chuyên chế thần quyền mạo nhận Chúa giáo nhưng Chủ nghĩa Marx
lại chỉ làm tác nhân cho những tội ác tày trời được gây nên bởi nền chuyên chính vô sản lấy Chủ nghĩa Marx
làm hệ tư tưởng chính thức. Nền chuyên chế thần quyền đã thực hiện sai lạc Chúa
giáo dẫn đến những tội ác tày trời nhưng nền chuyên chính vô sản đã
thực hiện đúng đắn Chủ nghĩa Marx dẫn đến những tội ác tày trời. Chúa
giáo luôn luôn được bảo vệ thành công bởi những
trí tuệ siêu phàm, như Nicolaus
Copernicus (1473 – 1543), Galileo
Galilei (1564 – 1642), Isaac Newton
(1642 – 1727), Albert Einstein (1879
– 1955), v. v., những trí tuệ đó đã
giải thoát thành công Chúa giáo khỏi những giáo điều chuyên chế được tạo nên
bởi các nền chuyên chế thần quyền. Nhưng Chủ nghĩa Marx lại luôn luôn bị bác bỏ
thành công bởi những trí tuệ siêu phàm từ giữa thế kỷ XIX đến nay, trong đó có Albert Einstein. Nhân loại phải quay trở về Chúa giáo mới có thể tiến
lên được nhưng nhất định phải từ bỏ
Chủ nghĩa Marx mới có thể tiến lên được. Người ta có thể bào chữa đúng đắn cho
Chúa giáo bằng nhiều lý do khác nhau nhưng không thể biện bạch đúng đắn cho Chủ
nghĩa Marx bằng bất cứ lý do nào.
Thiết
tưởng ở đây cũng nên nhắc lại một sai lầm đáng tiếc đã xảy ra ở các nước thuộc
Tây phương vào thời đại trung cổ, ở
đó Chúa giáo vốn có khuynh hướng khai sáng cho khoa học chân chính nảy nở nhưng
các Chức sắc Chúa giáo nắm giữ quyền lực nhà nước trong chính thể chuyên chế
lại truy bức tàn tệ khoa học đó làm cho khoa học đó bị thui chột đồng thời cũng
làm suy giảm cảm hứng tìm hiểu Chúa bằng câu chuyện về Thánh Augustin được nghe thấy Thiên
thần hiện thân thành một em bé
bảo rằng đừng nhọc công suy nghĩ về một
mầu nhiệm vượt quá trí khôn nhân loại, tức là Mầu nhiệm Ba Ngôi; câu chuyện đó ít nhiều đã cho thấy thái độ bài bác đối với việc tìm hiểu
Chúa bằng khoa học! Tuy nhiên đến cuối thế kỷ XX, Chúa đã soi sáng cho
Giáo hội Công giáo ăn năn hối hận về mọi
sai lầm trong quá khứ. Sự kiện này đã xác lập một dấu mốc chói lọi cho thấy
Chúa giáo chính thức đồng hành với khoa
học đồng thời cũng phân biệt dứt khoát Giáo hội Công giáo với nhà nước
chuyên chế: Giáo hội Công giáo có thể sửa
mình nhưng nhà nước chuyên chế lại không thể sửa mình! Thật vậy, cuộc cách mạng khoa học đang xảy ra hàng ngày
đã cho phép chúng ta tìm hiểu Chúa bằng khoa
học; bằng khoa học, chúng ta hoàn
toàn có thể hiểu biết được tại sao
Chúa lại có ba ngôi mà không thể nhiều hơn cũng như không thể ít hơn với những kết quả nghiêm túc sẽ mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp để có thể thống nhất Chúa giáo (Công giáo,
Chính giáo, Tân giáo, v. v.) thành Một
Giáo hội Duy nhất lấy Mầu nhiệm Ba
Ngôi làm nền tảng thống nhất,
đồng thời có thể thăng tiến đời sống xã
hội (social existence) theo chiều hướng dân chủ hoá; bằng khoa học, chúng ta đã có thể hiểu được
rõ ràng Chúa giáo có tính chất cộng hoà
thể hiện ẩn ngầm qua Mầu nhiệm Ba Ngôi;
bằng khoa học, chúng ta đã có thể
hiểu được rõ ràng tính chất cộng hoà sẽ
làm thất bại mọi mưu toan lạm dụng Chúa giáo vào biện minh cho chính thể chuyên
chế; bằng khoa học, chúng ta đã
có thể hiểu được chính tính chất cộng hoà
đã làm cho Chúa giáo trở thành nguồn cảm hứng cho Phong trào Khai minh khởi phát vào thế kỷ XVIII rồi chặn đứng việc lạm dụng Chúa giáo vào biện minh
cho chính thể chuyên chế bằng các cuộc Cách mạng Dân chủ. Chính vì Chúa giáo có
tính chất cộng hoà nên ngày nay, nhờ nền cộng hoà đang thăng tiến mạnh mẽ mà
người ta bắt đầu hiểu được ý nghĩa sâu xa cho Chúa giáo. Thánh nhân Mahatma
Gandhi cũng đã từng thừa nhận rằng chính Chúa Jesus đã xác lập được một
con đường chắc chắn nhất cho nhân loại đi lên! Những người nào còn nuôi dưỡng
hoặc còn tin tưởng những thành kiến, những định kiến, những thiên kiến, v. v.,
về Chúa giáo hãy tỉnh ngộ mà suy ngẫm nghiêm túc về những sự thật hiển nhiên
được nêu ra ở đây.
Vì Kinh thánh nói Chúa ở mọi nơi vào mọi lúc nên Christianity
trong Anh văn cần phải được chuyển
dịch sang Việt ngữ thành Chúa
giáo mới thật sát nghĩa, nếu chuyển dịch Christianity thành Thiên Chúa giáo thì “Thiên Chúa giáo” không thể hiện được hết ý nghĩa đích thực
cho Christianity, vì Thiên Chúa chỉ
có nghĩa là Chúa Trời nên danh xưng
này dễ làm cho người ta hiểu sai rằng
Chúa chỉ có ở trên Trời, hiểu như vậy
rất sai lạc so với Kinh thánh. Tức là trong quan hệ ý nghĩa với
Christianity, Chúa giáo sát nghĩa hơn
nhiều so với Thiên Chúa giáo: nếu Thiên
Chúa giáo chỉ cho thấy Chúa ở trên Trời thì Chúa giáo lại phải cho thấy Chúa ở mọi nơi vào mọi lúc (cả trên Trời lẫn dưới Đất, cả trong Ta lẫn
ngoài Ta, cả Không gian lẫn Thời gian,
v. v.). Đó chính là lý do thực tế để tôi chỉ nói Chúa giáo mà không nói Thiên Chúa giáo như nhiều người vẫn nói sai như vậy, nói như vậy vừa sai lạc vừa dài dòng, thừa chữ nhưng thiếu nghĩa.
Theo
Ngôn ngữ Israel, Christ (Chúa) có nghĩa là Tẩy
rửa; Jesus có nghĩa là Cứu độ hoặc Cứu vớt; Jesus Christ
(Chúa Cứu độ hoặc Chúa Cứu vớt) có nghĩa là Tẩy
rửa Cứu vớt hoặc Cứu vớt Bằng Tẩy rửa.
Vì xác lập Mầu nhiệm Ba Ngôi
(Trinité) nên Jesus Christ phải được hiểu sát nghĩa nhất thành Tẩy rửa Cứu vớt Bằng Mầu nhiệm Ba Ngôi.
Vậy từ đó có thể suy ra rằng Chúa giáo
(Christianity) là tôn giáo tẩy rửa tâm
hồn cho nhân loại bằng Mầu nhiệm Ba Ngôi được xác lập bởi Chúa Jesus làm cho
nhân loại thoát khỏi đời sống dã man như thú vật vốn được ẩn dụ thành Địa ngục
để được sống đời sống thánh thiện như thiên thần vốn được ẩn dụ thành Thiên
đàng.
Nhân
tiện đây, tôi xin nói sơ qua về J. J.
Rousseau. Với chủ nghĩa lãng mạn,
nhân vật này có ba nhược điểm lớn:
thứ nhất, ông cho rằng mỗi người không nên có quá nhiều tài sản, tức là chống
sở hữu tư nhân để chủ trương sở hữu công cộng; thứ hai, ông cho rằng chính thể
dân chủ không thích hợp với các nước lớn; thứ ba, ông cho rằng Chúa giáo chỉ
thích hợp với chính thể chuyên chế. Ba nhược điểm này về sau đã trở thành một
trong những nguồn gốc sâu xa dẫn đến những tai hoạ khủng khiếp cho nhân loại
suốt từ đầu thế kỷ XIX đến nay: nhược điểm thứ nhất đã góp phần đẻ ra Chủ nghĩa Marx gây nên vô số tai họa
khủng khiếp cho nhân loại trong thế kỷ XX, nhược điểm thứ hai đã góp phần củng cố chính thể chuyên chế ở các nước lớn
gây nên nhiều khó khăn nghiêm trọng cho công cuộc dân chủ hóa thế giới, nhược
điểm thứ ba đã góp phần vào việc truy bức
Chúa giáo ở chính nước Pháp ngay sau Cách mạng 1789 làm cho lý tưởng tự do
bị phản bội trắng trợn nhất ở ngay nước Pháp, chưa kể việc truy bức Chúa giáo
được gây nên bởi chủ nghĩa vô thần
lan tràn từ nước Pháp đến khắp các nơi khác sau đó, lại càng chưa kể việc truy
bức Chúa giáo ở các nơi khác suốt từ đó đến nay với nhiều hệ quả bi thảm hơn.
Thực tế ngày nay đã vượt qua ba nhược
điểm đó. Sở hữu tư nhân trở thành động lực trực tiếp thúc đẩy kinh tế phát
triển mạnh mẽ, Ấn độ xây dựng thành
công chế độ dân chủ, Chúa giáo đã
hoặc sẽ góp phần quan trọng vào công
cuộc dân chủ hoá thế giới. Ngoài các nhược điểm nói trên, J. J. Rousseau còn
chủ trương trao một phần quyền lực công
dân cho nhà nước để được tự do nhiều hơn (!?) Ông ta không thể hình dung
được rằng: một khi đã nắm được một phần
quyền lực công dân, nhà nước sẽ nuốt
chửng tất cả quyền lực đó để biến mỗi công dân thành một nô lệ. Chưa kể đến
việc ông ta ném cả ba đứa con đẻ của mình vào Cô nhi Viện mà không bao giờ biết
được mặt chúng. Chủ nghĩa lãng mạn đã biến ông ta thành một kẻ tàn nhẫn như thế
đấy! Một người như J. J. Rousseau sẽ chẳng có bất cứ một thẩm quyền nào để phê
phán Chúa giáo.
157) George Soros: Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Việt ngữ. Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội, Hà nội 1999, trang 209.
J. B. Hàvăn Huytoàn
(Viêt vào Tháng Sáu 2010)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét