Tháng 10 22, 2013
Yasheng Huang (Hoàng Á Sinh)
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
Thử hình dung lẫn lộn hai phát ngôn sau đây của một bác sĩ chuyên về ung thư: 1) “Anh có thể chết vì ung thư” và 2) “Tôi muốn anh chết vì ung thư.” Không khó nhận ra sự khác biệt căn bản giữa hai phát ngôn này. Phát ngôn thứ nhất là một lời tiên đoán – phát ngôn này nói rằng một việc có thể xảy ra với một số điều kiện nhất định (trong trường hợp này là chết nếu bị ung thư). Phát ngôn thứ hai là một sở nguyện, một ao ước, hay một ý muốn về một thế giới theo sở thích cụ thể của một người.
Ai lại có thể phạm một sai lầm căn bản khi nhầm lẫn hai loại phát ngôn này? Nhiều người lắm, trong đó có Eric X. Li, trong
bài diễn thuyết TED Talk hôm nay. Đại luận thuyết của Marx đã ăn sâu vào đầu Li – và đầu tôi thời niên thiếu và thời thanh niên trong thập niên 1960 và 1970 – là một
phát ngôn chuẩn tắc. Khi Marx nảy ra những tư tưởng về sự tiến hóa của các xã hội loài người, trên thế giới chưa có một quốc gia nào giống chút đỉnh như chế độ cộng sản mà ông cổ xúy. Chế độ cộng sản theo hình dung của Marx không có quyền tư hữu hay bất cứ kiểu quyền sở hữu nào. Tiền cũng không có mặt trong chế độ đó. Phiên bản chủ nghĩa cộng sản của Marx chưa bao giờ, và rất có thể sẽ chẳng bao giờ, trở thành hiện thực. Marx “tiên đoán” dựa trên suy diễn; và những người kế thừa ông tiên đoán bằng cách áp đặt ước muốn của họ, được thực hiện bằng quyền lực và bạo lực.
Ngược lại, cái luận thuyết dường như được mớm cho Li khi ông là một “anh chàng hippie Berkeley” thì dựa trên kinh nghiệm thực tế của các vấn đề con người. Chúng ta đã có hàng trăm năm kinh nghiệm với dân chủ và hàng trăm quốc gia / năm có các quá trình chuyển tiếp sang dân chủ và cai trị bằng dân chủ. Phát ngôn cho rằng các quốc gia chuyển sang dân chủ khi họ giàu lên là một
phát ngôn thực chứng– đó là một tiên đoán dựa trên dữ liệu. Trong thập niên 1960, khoảng 25 phần trăm các nước trên thế giới có chế độ dân chủ; tỉ lệ hiện nay là 63 phần trăm. Có rất nhiều trường hợp các chế độ độc tài chuyển sang chế độ dân chủ hơn là ngược lại. Những nước còn lại trên thế giới đã thể hiện rõ ràng ý muốn có chế độ dân chủ. Như
Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân) đã cho biết, trong 25 nước có GDP bình quân đầu người cao hơn Trung Quốc mà chưa tự do hay tự do một phần, 21 nước sống nhờ tài nguyên thiên nhiên. Nhưng đó là những ngoại lệ giúp chứng minh quy tắc – các quốc gia chuyển sang dân chủ khi họ giàu hơn. Ngày nay không có quốc gia nào được xếp vào nhóm giàu nhất có chế độ toàn trị độc đảng. (Singapore là một trường hợp chưa rõ ràng, còn nhiều tranh cãi.) Dù Li có thích hay không, các quốc gia đó dường như đều có đích đến như nhau.
Các nền dân chủ có tham nhũng hay không? Li nghĩ vậy. Ông trích dẫn
Chỉ số của Minh bạch Quốc tế (TI) để chứng minh quan điểm của mình. Số liệu TI cho thấy Trung Quốc có thứ hạng cao nhiều chế độ dân chủ. Cũng có lý.
Tôi luôn nghĩ rằng có hơi mỉa mai khi dùng số liệu về tính minh bạch để biện hộ cho một chế độ chính trị xây trên nền tảng mờ ám. Ngoài chuyện mỉa mai, nên nhớ rằng bản thân chỉ số TI là sản phẩm của chế độ chính trị mà Li quá coi thường – chế độ dân chủ (nói cho đúng là dân chủ kiểu Đức). Điều này nhấn mạnh một điểm căn bản – chúng ta biết rất nhiều về tham nhũng ở các chế độ dân chủ hơn chúng ta biết về tham nhũng ở các nước toàn trị vì các chế độ dân chủ, theo định nghĩa, có tính minh bạch cao hơn và họ có nhiều dữ liệu hơn về tính minh bạch. Tuy tôi tin những so sánh về tham nhũng giữa các nước dân chủ, việc so sánh một cách máy móc tham nhũng ở Trung Quốc với tham nhũng ở các chế độ dân chủ, như Li đã làm rất nhiều lần, là phạm sai lầm căn bản. Phương pháp của ông nhầm lẫn hai hiệu ứng – mức độ minh bạch của một quốc gia và mức độ tham nhũng của một quốc gia. Tôi không muốn nói là các chế độ dân chủ nhất thiết phải trong sạch hơn Trung Quốc; tôi chỉ muốn nói rằng cách Li dùng dữ liệu của TI không phải căn cứ để rút ra kết luận theo một trong hai hướng. Cách đúng đắn để rút ra kết luận về vấn đề này là nhận định rằng với cùng một mức độ minh bạch (và cùng mức độ về nhiều thứ khác, trong đó có thu nhập), Trung Quốc có – hay không có – tham nhũng nhiều hơn các chế độ dân chủ.
Chỉ cần một ví dụ đơn giản là đủ minh họa ý này. Năm 2010, hai doanh nhân Ấn Độ lập một trang mạng gọi là
I Paid a Bribe (Tôi hối lộ). Trang mạng này kêu gọi người ta đăng nặc danh những trường hợp công dân Ấn Độ phải bỏ tiền ra để hối lộ. Đến tháng 8/2012, trang mạng này đã ghi nhận hơn 20.000 vụ tham nhũng. Một số doanh nhân Trung Quốc cố gắng bắt chước: Họ lập trang I Made a Bribe (Tôi hối lộ) và
522phone.com. Nhưng hai trang mạng này nhanh chóng bị chính quyền Trung Quốc đóng. Kết luận đúng ở đây không phải, theo như kiểu lập luận của Li, là Trung Quốc trong sạch hơn Ấn Độ vì Trung Quốc không có bài đăng trên mạng nào về các vụ tham nhũng trong khi Ấn Độ có khoảng 20.000 vụ được đăng lên.
Dù tôi rất tôn trọng công lao của Minh bạch Quốc tế, dữ liệu của tổ chức này rất kém trong việc xử lý điểm khác biệt căn bản về mức cảm nhận tham nhũng (perception of corruption) và mức độ tham nhũng thực sự xảy ra (incidence of corruption). Các chế độ dân chủ có tính minh bạch cao hơn – về những cái tốt và cái xấu của chúng – hơn các chế độ toàn trị. Chúng ta biết nhiều hơn về nạn tham nhũng ở Ấn Độ một phần vì chế độ Ấn Độ minh bạch hơn, và có một giới bình luận nhiều chuyện không ngại phê phán và chỉ trích chính phủ (và trong một vài trường hợp, gắn máy quay phim trong phòng khách sạn để ghi cảnh đưa tiền đút lót cho các chính khách). Ngoài ra, tham nhũng ở cấp thấp dễ quan sát hơn tham nhũng ở cấp cao nhất trong hệ thống tôn ti chính trị. Chỉ số TI phát hiện trò tham nhũng của một cảnh sát viên tên Barun ở Chennai dễ hơn là phát hiện tội tham nhũng của một ủy viên Bộ Chính trị tên Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh. Những yếu tố này, chứ không phải bản thân nạn tham nhũng, có thể giải thích phần lớn những khác biệt về thứ hạng TI giữa Trung Quốc và Ấn Độ.
Vẫn dùng số liệu của TI, Li thích chỉ ra rằng những nước như Indonesia, Argentina và Philippines vừa là chế độ dân chủ vừa khét tiếng về tham nhũng. Ông thường bỏ sót các dữ kiện quan trọng khi đề cập đến vấn đề này. Phải, các quốc gia này là những nền dân chủ, vào năm 2013, nhưng những nước này đã được cai trị bởi các nhà độc tài quân sự nhẫn tâm trong mấy chục năm trước khi chuyển sang dân chủ. Chính chế độ chuyên quyền của các quốc gia này đã sinh ra và dung dưỡng nạn tham nhũng. (Còn nhớ 3.000 đôi giày của bà Marcos?) Tham nhũng giống như ung thư, đã thành di căn và ăn sâu. Tuy ta có lý do hoàn toàn chính đáng để phê phán các nền dân chủ mới vì không kịp thời diệt tận gốc nạn tham nhũng, nhưng nhầm lẫn các khó khăn của việc chữa trị nạn tham nhũng ăn sâu với nguyên nhân sâu xa của nó thì cũng hệt như nói rằng một bệnh nhân ung thư bị mắc bệnh ung thư sau khi nhập viện để làm hóa trị.
Nhóm những kẻ tham nhũng trắng trợn nhất thế giới chỉ toàn những kẻ chuyên quyền. Theo một báo cáo của TI, tính đến năm 2004, ba lãnh tụ cầm quyền bòn rút quốc dân nhiều nhất là Suharto, Marcos và Mobutu. Ba nhà độc tài này đã cướp bóc tổng cộng 50 tỉ Mỹ kim từ người dân bần cùng ở nước họ. Đương nhiên các chế độ dân chủ không miễn dịch với nạn tham nhũng, nhưng tôi nghĩ họ phải cố gắng cật lực hơn nữa mới mong theo kịp những nhà độc tài này.
Li hết sức tin tưởng ở chế độ Trung Quốc. Trước hết ông lập luận rằng chế độ này được đa số dân chúng Trung Quốc ủng hộ. Ông trích dẫn một cuộc khảo sát của báo
Financial Times nói rằng
93 phần trăm thanh niên Trung Quốc lạc quan về tương lai của họ. Tôi đã xem những mức đánh giá tín nhiệm cao này do Li và nhiều người khác dùng làm bằng chứng cho thấy chế độ Trung Quốc lành mạnh và vững vàng, nhưng tôi không hiểu tại sao Li lại dừng ở mức 93%. Sao không đi tới cùng, 100% luôn? Ở một nước không có tự do ngôn luận, yêu cầu người dân trực tiếp đánh giá thành tích của các vị lãnh đạo thì cũng giống như yêu cầu người dân làm bài thi chỉ có một lựa chọn trả lời duy nhất. Số liệu trưng cầu dân ý dành cho Erich Honecker và Kim Jong-un hẳn phải khiến các vị lãnh đạo Trung Quốc xấu hổ.
(Tôi cũng xin chú thích một chút để khuyến cáo về cách nên và không nên sử dụng số liệu khảo sát ở Trung Quốc. Tôi đã làm nhiều nghiên cứu khảo sát ở Trung Quốc, và tôi luôn thấy ngượng vì khó lý giải được các kết quả khảo sát. Ngoài các áp lực chính trị thường hướng các câu trả lời theo một chiều nhất định, một trở ngại khác là người trả lời khảo sát ở Trung Quốc đôi khi xem làm khảo sát giống như làm bài thi. Bài thi ở Trung Quốc có câu trả lời chuẩn, và đôi khi người trả lời khảo sát ở Trung Quốc điền vào mẫu khảo sát bằng cách cố gắng đoán xem câu trả lời “chuẩn” là gì, chứ không phải bày tỏ ý kiến của chính họ. Tôi thường khuyến cáo không nên sử dụng một cách ngây thơ số liệu khảo sát ở Trung Quốc.)
Li cũng ca ngợi khả năng thích ứng của chế độ chính trị Trung Quốc. Tôi xin trích:
“Giờ đây, phần lớn giới chính trị học cho rằng hệ thống độc đảng vốn dĩ không có năng tự sửa sai. Hệ thống đó không trường tồn vì không thể thích ứng. Quý vị thử xem thực tế thế nào nhé. Trong 64 năm điều hành quốc gia lớn nhất thế giới, các chính sách của Đảng đã có phạm vi rộng hơn bất ở nước nào khác trong ký ức cận đại, từ tập thể hóa đất đai triệt để đến chủ trương Đại Nhảy vọt, rồi tư hữu hóa đất nông trại, rồi Cách mạng Văn hóa, rồi cải cách thị trường của Đặng Tiểu Bình, rồi đến người kế nhiệm Giang Trạch Dân thực hiện một bước tiến chính trị lớn là mở cửa cho phép doanh nhân tư nhân vào Đảng, điều không tưởng trong thời kỳ Mao cầm quyền. Như vậy, Đảng tự sửa sai theo cách khá đáng kể.”
Giờ thử hình dung ta kể câu chuyện sau đây để tung hô “khả năng thích ứng” của Nga chẳng hạn: Nước Nga hay dân tộc Nga đều có khả năng thích ứng rất cao. “Các chính sách” của Nga đã có phạm vi “rộng hơn bất ở nước nào khác trong ký ức cận đại”, từ trại tù gulag đến phong trào khủng bố đỏ của Stalin, rồi tập thể hóa, rồi kế hoạch hóa tập trung, rồi glasnost và perestroika, rồi tư hữu hóa, rồi chủ nghĩa tư bản bè phái, rồi chế độ dân chủ phi tự do dưới thời Putin, điều không tưởng trong thời kỳ Lenin cầm quyền. Như vậy, nước Nga “tự sửa sai theo cách khá đáng kể.”
Tôi xin nói rõ và dứt khoát – cách Li lý giải về khả năng thích ứng của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) giống y hệt cách tôi nói về Nga. Điểm khác biệt duy nhất là Li nói đến một tổ chức chính trị – ĐCSTQ – còn tôi nói về một nước có chủ quyền.
Thính giả TED vỗ tay tán thưởng bài diễn thuyết của Li – nhiều lần là đằng khác. Nếu Li đã so sánh ví von về Nga, chẳng biết thính giả có còn tán thưởng nồng nhiệt nữa hay không. Lý do rất đơn giản: Thính giả TED hiểu tường tận tình hình xáo trộn, bạo lực và con số người chết cao ngất trời trong thời cai trị của Liên Xô. Trong cuốn sách của ông có nhan đề
The Better Angels of our Nature (tạm dịch:
Những thiên thần tốt đẹp hơn của bản chất con người chúng ta),
[i] Steven Pinker trích dẫn kết quả nghiên cứu của các học giả khác cho thấy chế độ Liên Xô đã giết 62 triệu người dân của chính mình. Thiết nghĩ cái từ “sửa sai” có phần nói nhẹ đi mức độ biến đổi to lớn từ chế độ sát nhân, diệt chủng của Stalin sang nước Nga ngày nay tuy còn nhiều vấn đề và khó khăn nhưng dù sao vẫn có dân chủ.
Tôi không biết một anh chàng hippie Berkeley học gì ở trường, nhưng ở Cambridge, Massachusetts, nơi tôi đã học và nay theo nghiệp làm giáo sư, tôi đã học – và hiện nay dạy – hàng ngày rằng ngôn từ thực sự có ý nghĩa. Đối với tôi, tự sửa sai có ít nhất hai hàm ý. Thứ nhất, tự sửa sai là việc sửa sai do chính bản thân thực hiện. Đúng là các chính sách của Mao bị những người kế tục “sửa sai” hay thậm chí đảo ngược, như Li đã đề cập, nhưng nói đây là “sự tự sửa sai” nghĩa là sao? Những chính sách vô cùng tai hại của Mao vẫn còn trong những ngày xế bóng của ông ngay cả khi Mao Chủ tịch nằm liệt giường trong trạng thái thực vật, và người kế vị ông – lên nắm quyền thông qua một thay đổi gần như là đảo chính – chỉ dám sửa đổi các chính sách của Mao sau khi đã biết chắc Mao không sống nổi nữa. Nếu đây là một ví dụ của việc tự sửa sai, vậy đúng ra cái gì không phải là một hành động tự sửa sai? Gần như mỗi ví dụ thay đổi chính sách mà Li nêu ra trong bài diễn thuyết của mình đều được thực hiện bởi người kế vị người đã khởi xướng cái chính sách bị sửa đổi. (Trong nhiều trường hợp, thậm chí không phải do người kế vị liền sau đó.) Đây là một định nghĩa kỳ cục về việc tự sửa sai. Cái này có gồm kiểu tự sửa sai khi những bài toán làm sai mà tôi chưa sửa thuở nhỏ nay đang được con tôi sửa?
Nghĩa thứ hai của tự sửa sai liên quan đến hoàn cảnh diễn ra việc chỉnh sửa, chứ không chỉ là danh tính của người thực hiện chỉnh sửa. Một đứa trẻ 10 tuổi có thể tự nguyện sửa lỗi chính tả hay phép toán làm sai của mình, hoặc có thể đành phải sửa sau khi bị cô giáo quất mạnh mấy phát vào tay. Trong cả hai tình huống, danh tính của người chỉnh sửa là một – đứa học trò 10 tuổi – nhưng hoàn cảnh diễn ra việc chỉnh sửa lại khác hẳn nhau. Ta thường sẽ xếp tình huống thứ nhất vào loại “tự sửa sai”, còn tình huống thứ hai vào loại ép buộc, cưỡng bách, hay như trong trường hợp này, bạo lực. Nói cách khác, tự sửa sai hàm ý sự tự nguyện của người thực hiện chỉnh sửa, chứ không phải bị ép buộc hay cưỡng bách, không phải vì không còn cách nào hơn là phải chỉnh sửa. Yếu tố chọn lựa là một thành phần thiết yếu của định nghĩa về tự sửa sai.
Tôi xin cung cấp thêm vài chi tiết bị bỏ sót cho những ai vỗ tay tán thưởng khi Li gọi giai đoạn 64 năm của chế độ độc đảng ở Trung Quốc là giai đoạn của những trường hợp tự sửa sai nối tiếp nhau. Từ năm 1949 đến 2012, ĐCSTQ đã có sáu lãnh tụ tối cao. Trong sáu người này, hai vị bị phế truất một cách đột ngột và không kèn không trống (và một trong hai vị này bị hạ bệ mà không được xét xử đúng quy trình, thậm chí theo các thủ tục của chính ĐCSTQ). Một vị thứ ba mất hết quyền lực và bị quản thúc tại gia trong 15 năm cho đến khi chết. Vậy là 3 trong 6 vị không nắm quyền cho trọn nhiệm kỳ dự trù của họ. Hai trong số những người được Mao chọn kế vị chết trong khi tại chức, một người thiệt mạng trong một vụ nổ máy bay khi ông tìm cách trốn sang Liên Xô, còn người kia bị tra tấn đến chết và bị chôn với tên giả. À, tôi đã nhắc đến con số ước tính 30 triệu người đã chết do chủ trương Đại Nhảy vọt tai hại của Mao, và có lẽ là hàng triệu người đã chết do bạo lực của Cách mạng Văn hóa chưa nhỉ? Vả lại, bạn có biết Mao không những vẫn tiếp tục mà còn đẩy nhanh các chính sách Đại Nhảy vọt
sau khi những bằng chứng về mức độ [tác hại] của nạn đói [thời kỳ 1958-1962]
[ii] đã rõ như ban ngày?
Li gọi những thay đổi chính sách này sau những biến động đau đớn này là “những hành động tự sửa sai”. Cách lý giải của ông là một thực thể gọi là ĐCSTQ, chứ không phải ai khác, thực hiện những thay đổi chính sách này. Trước hết, sở dĩ như vậy có phải là do chẳng có ai khác được phép có cơ hội thực hiện những thay đổi chính sách này? Thứ hai, lối suy nghĩ cứ chú trọng đến ai thực hiện thay đổi chính sách chứ không phải hoàn cảnh diễn ra thay đổi chính sách quả là không ổn. Ta thử mở rộng logic của Li thêm một chút nữa. Liệu chúng ta có phải định nghĩa lại Phong trào Độc lập Mỹ là một hành động tự sửa sai của người Anh? Hay có lẽ gọi việc nhượng quyền cai trị của đế quốc Anh cho Ấn Độ là một hành động tự sửa sai khác của người Anh? Liệu chúng ta có phải mô tả lại sự đầu hàng của người Nhật để kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai là hành động tự sửa sai của người Nhật? Đúng là có hai quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki và bao chuyện nữa, nhưng chẳng phải các đại diện của Nhật hoàng Hirohito đã ký Văn kiện Nhật Đầu hàng trên chiến hạm USS Missouri hay sao?
Đã là búa thì nhìn gì cũng nghĩ là đinh. Li nhìn thấy các căn bệnh của các chế độ dân chủ ở khắp nơi – khủng hoảng tài chính ở Châu Âu và Mỹ, nền chính trị tiền bạc và nạn tham nhũng. Tôi đồng ý ngay là nền chính trị tiền bạc ở Mỹ là một vấn đề rất lớn và quả thật nó đang khiến cho chế độ như một cỗ máy hỏng nặng, không còn vận hành trơn tru. Nhưng ta nên hiểu thật rõ bằng cách nào và lý do tại sao nền chính trị tiền bạc là một cỗ máy hỏng hóc. Nó hỏng hóc chính là vì về cơ bản nó đối nghịch với dân chủ. Nền chính trị tiền bạc là hình thái lệch lạc của dân chủ. Nó phá hoại và làm mất giá trị một trụ cột chuẩn mực của dân chủ – một người một phiếu. Để nhất quán về logic, lẽ ra Li nên tung hô nền chính trị tiền bạc vì nó đưa Mỹ đi sang hướng của nền chính trị kiểu chuyên quyền mà ông quá say mê.
Điều này có thể là một tiết lộ gây sốc cho Li, nhưng các nền dân chủ Mỹ và Châu Âu không sáng chế ra khủng hoảng tài chính. Nhiều chế độ chuyên quyền đã trải qua các cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trầm trọng. Ví dụ như Indonesia năm 1997 và nhiều chế độ quân phiệt ở Châu Mỹ La tinh trong thập niên 1970 và 1980. Những chế độ chuyên quyền duy nhất không bị khủng hoảng tài chính rõ rệt là các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, như Romania và Đông Đức. Nhưng sở dĩ như vậy hoàn toàn là do họ không đáp ứng điều kiện tối thiểu để có khủng hoảng tài chính – là phải có một hệ thống tài chính. Những hậu quả của khiếm khuyết này thì ai cũng biết rồi – thay vì những trồi sụt lớn tuần hoàn theo chu kỳ, những nước này bị đình trệ kinh tế lâu dài. Một nhà đầu tư vốn mạo hiểm chẳng phát đạt nổi trong chế độ đó.
Li nói ông đã nghiên cứu khả năng đạt thành tích của các chế độ dân chủ. Ít nhất là trong bài diễn thuyết này, bằng chứng cho thấy ông đã nghiên cứu chưa được thuyết phục cho lắm. Không có bằng chứng nào cho thấy các quốc gia phải trả giá kinh tế vì có tính dân chủ. (Cũng nên lưu ý rằng cũng không có bằng chứng toàn cầu đáng thuyết phục cho thấy các chế độ dân chủ nhất thiết phải đạt thành tích tăng trưởng kinh tế tốt hơn các chế độ chuyên quyền. Có nơi có, có nơi không. Kết luận tùy từng trường hợp.) Nhưng về các lĩnh vực dịch vụ công, bằng chứng cho thấy các chế độ dân chủ nhỉnh hơn. Hai học giả David Lake và Matthew Baum chứng minh rằng các chế độ dân chủ ưu việt các quốc gia chuyên quyền về cung cấp dịch vụ công, chẳng hạn như y tế và giáo dục. Không chỉ các nền dân chủ lâu đời có thành tựu tốt hơn; mà cả các nước chuyển sang dân chủ cũng có cải thiện tức khắc về cung cấp các dịch vụ công này, và các nước quay trở lại với chế độ chuyên quyền thường bị sa sút.
Li đổ lỗi tình trạng tăng trưởng thấp ở Châu Âu và ở Mỹ cho dân chủ. Tôi hiểu tại sao ông có quan điểm này, vì đây là sai lầm phổ biến của những người quan sát hời hợt – Trung Quốc tăng trưởng với tỉ lệ 8 hay 9 phần trăm, còn Mỹ tăng trưởng với tỉ lệ 1 hoặc 2 phần trăm. Ông đang nhầm lẫn một hiệu ứng toán học của việc tăng trưởng thấp do cơ số lớn với một hiệu ứng chính trị của việc dân chủ kìm hãm tăng trưởng. Vì các quốc gia dân chủ thường giàu hơn và có GDP bình quân đầu người cao hơn nhiều, nên họ khó mà có tỉ lệ tăng trưởng bằng với các nước nghèo – và chuyên quyền – có GDP bình quân đầu người thấp hơn nhiều. Tôi xin đưa ra một so sánh ví von. Một cậu bé 15 tuổi có nhiều khả năng tự đi xem phim hay đi chơi với bạn bè hơn một cậu bé 10 tuổi vì cậu ta lớn tuổi hơn và trưởng thành hơn. Cũng có thể là cậu ta không lớn nhanh bằng cậu bé 10 tuổi vì cậu ta đã gần hơn với đỉnh của chiều cao con người. Quả là ngớ ngẩn nếu nhận xét, theo logic của Li, rằng cậu bé 15 tuổi lớn chậm hơn vì cậu tự đi xem phim.
Li nói rất rõ rằng ông ghét dân chủ, hơn là về các lý do khiến ông ghét dân chủ. Li bác bỏ dân chủ với lý do văn hóa. Trong bài diễn thuyết, ông khẳng định dân chủ là một khái niệm xa lạ đối với văn hóa Trung Hoa. Quan điểm này suýt nữa nghe buồn cười nếu không có những hàm ý gián tiếp. Như tôi vẫn hiểu xưa nay, vốn mạo hiểm là một khái niệm nhập ngoại nhưng dường như điều đó không cản trở Li theo nghiệp này và giàu lên nhờ nó. (Mà hình như “Eric” cũng là gốc gác nước ngoài phải không nhỉ? Tôi có thể sai về điểm này.) Ngược lại, Li có nhất nhất tôn trọng từng nguyên tắc của văn hóa và truyền thống Trung Hoa? Liệu Li có phản đối việc bãi bỏ tập quán bó chân của phụ nữ Trung Quốc?
Có một thực tế đơn giản là người Trung Quốc đã chấp nhận nhiều khái niệm và tập quán nước ngoài. (Xin nhắc một chút: đối với người Trung Quốc, chủ nghĩa Marx cũng Tây phương không kém Adam Smith.) Sẽ hoàn toàn chính đáng nếu ta tranh luận về những tư tưởng và tập quán nước ngoài nào Trung Quốc nên chấp nhận, áp dụng hay phỏng theo, nhưng cuộc tranh luận này là về những tư tưởng mà Trung Quốc nên áp dụng, chứ không phải về việc liệu Trung Quốc có nên áp dụng bất cứ tư tưởng và tập quán nước ngoài nào hay không.
Nếu vấn đề là về những tư tưởng nào hay những tập quán nào nên áp dụng hay bác bỏ, thì khác với Li, tôi không cảm thấy đủ tự tin để biết chính xác những tư tưởng và tập quán nước ngoài nào mà 1,3 tỉ dân Trung Quốc muốn theo hay muốn bác bỏ. Về mặt logic, một lập luận mang tính văn hóa để phản bác dân chủ không khiến người Trung Quốc không có được dân chủ, mà dẫn đến một phương hướng hành động để người dân Trung Quốc tự quyết định về các ưu điểm hay nhược điểm của dân chủ. Hơn nữa, nếu chính người Trung Quốc tự nguyện bác bỏ dân chủ, thì việc gì phải tốn kém quá nhiều nguồn lực để chống và cấm đoán dân chủ? Không có cách nào tốt hơn để tiêu xài số tiền này hay sao?
Cho đến nay cuộc tranh luận này chưa diễn ra ở Trung Quốc, vì muốn có cuộc tranh luận này thì trước tiên phải có chút ít dân chủ cái đã. Nhưng nó đã diễn ra ở những môi trường Trung Hoa khác, và kết quả của những cuộc tranh luận đó là giữa văn hóa Trung Hoa và dân chủ về căn bản không xung khắc nhau. Hong Kong, dù không có chế độ dân chủ bầu cử, có tự do báo chí và chế độ pháp trị, và chẳng có bằng chứng nào cho thấy nơi này rơi vào cảnh hỗn loạn hay vô chính phủ. Đài Loan ngày nay có một nền dân chủ đầy sức sống, và nhiều người Đại lục sang thăm Đài Loan thường ngạc nhiên khi thấy xã hội Đài Loan không chỉ có dân chủ mà còn tôn trọng truyền thống Trung Hoa hơn nhiều so với Đại lục. (Xưa nay tôi luôn cảm thấy những người tin rằng dân chủ và văn hóa Trung Hoa xung khắc với nhau là những người thầm ủng hộ độc lập cho Đài Loan. Họ không xem người Đài Loan là Trung Hoa.)
Quả thật bản thân Li đã chấp nhận một số cải cách chính trị thường được xem là “Tây phương”. Các tổ chức phi chính phủ thì được, và thậm chí đôi chút tự do báo chí cũng được. Ông cũng ủng hộ đôi chút dân chủ trong nội bộ Đảng. Đó đều là những bước đúng đắn để đạt đến chế độ Trung Quốc có tính dân chủ hơn chế độ của Mao, và tôi ủng hộ cả hai tay. Chúng tôi khác biệt ở chỗ tôi cho rằng quyền tự do bỏ phiếu và cạnh tranh đa đảng là những bước mở rộng tự nhiên và hợp lý của những cải cách ban đầu này, trong khi Li vạch một ranh giới rõ rệt giữa các cải cách chính trị đã diễn ra và những cải cách chính trị tiềm năng mà một số người trong chúng ta đã cổ xúy. Dù gắng hết sức, tôi vẫn không thấy có gì khác biệt trên nguyên tắc giữa những cải cách một phần này và những cải cách hoàn chỉnh hơn có bao gồm dân chủ.
Li có một cách kỳ lạ để phản đối dân chủ: Ông phản đối nhiều cơ chế vận hành của dân chủ. Đặc biệt, ông có ác cảm với việc bỏ phiếu. Nhưng vấn đề là bỏ phiếu chỉ là cách để thực thi dân chủ, và ngay cả Li cũng ủng hộ có đôi chút dân chủ. Ví dụ, ông ủng hộ dân chủ trong nội bộ Đảng. Được, tôi cũng vậy; nhưng làm sao ta thực thi dân chủ trong nội bộ Đảng nếu không có bỏ phiếu? Như vậy hơi giống như ca ngợi môn thể thao quần vợt nhưng lại lên án việc dùng vợt để chơi môn này.
Li chưa đưa ra được một lập luận mạch lạc và hợp lý cho các quan điểm của mình về dân chủ. Tôi ngờ rằng, dù tôi không có bằng chứng trực tiếp, có một phương án đơn giản – ủng hộ các cải cách mà ĐCSTQ ủng hộ và phản đối các cải cách mà ĐCSTQ phản đối. Làm bộ làm tịch như vậy thì cũng ổn, nhưng đó không phải là một lập luận có nguyên tắc về bất cứ điều gì.
Nói vậy, nhưng tôi vẫn tin rằng có một cuộc tranh luận quyết liệt về dân chủ là điều hoàn toàn lành mạnh và thực sự cần thiết – nhưng cuộc tranh luận đó phải dựa trên số liệu, dữ kiện, logic là lý luận. Theo tiêu chí này, bài diễn thuyết của Li chưa khởi xướng cuộc tranh luận đó.
Tuy nhiên, về mặt này, chế độ dân chủ và chế độ chuyên quyền không đối xứng nhau. Trong một chế độ dân chủ, ta có thể tranh luận và phê phán cả dân chủ lẫn chuyên quyền, như Li đã làm khi ông chê George W. Bush (tôi rất khoái chỗ này) và như tôi làm ở đây. Nhưng những người trong một chế độ chuyên quyền chỉ có thể phê phán dân chủ mà thôi. (Có tin kể rằng khi được thông báo có những người biểu tình la hét “Đả đảo Reagan” trước Nhà Trắng mà chính quyền Mỹ chẳng làm được gì với họ, Brezhnev nói với Reagan, “Có những người la hét ‘Đả đảo Reagan’ trên Quảng trường Đỏ và tôi sẽ chẳng làm gì với họ cả.”) Tôi chẳng có ác cảm gì với những người phê phán giới cầm quyền và tỏ ra nghi ngờ về dân chủ. Thực ra, khả năng làm được điều đó trong một nền dân chủ chính là sức mạnh của dân chủ, và một nguyên nhân quan trọng của tiến bộ nhân loại. Copernicus là Copernicus vì ông lật đổ, chứ không phải vì ông tái tạo thiên văn học Ptolemy. Nhưng với cùng tiêu chí đó, tôi quả thật có ác cảm với những người không thấy ưu điểm của việc cung cấp quyền tự do mà họ đang có cho những người hiện chưa có quyền tự do đó.
Giống như Li, tôi không thích giọng điệu cứu tinh mà một số người dùng để ủng hộ dân chủ. Tôi ủng hộ dân chủ vì những lý do thực dụng. Lợi ích quan trọng nhất của dân chủ là nó có khả năng chế ngự bạo lực. Trong cuốn
The Better Angels of Our Nature, tác giả Pinker cung cấp những số liệu thống kê đáng kinh ngạc: Trong thế kỷ 20, các chế độ toàn trị gây ra 138 triệu cái chết, trong đó có 110 triệu ở các nước cộng sản. Các chế độ chuyên quyền làm chết thêm 28 triệu người nữa. Các chế độ dân chủ làm chết 2 triệu người, chủ yếu ở các thuộc địa của họ cũng như những vụ phong tỏa thực phẩm và đánh bom dân sự trong chiến tranh. Như Pinker đã đề cập, các chế độ dân chủ thậm chí gặp khó khăn trong việc xử tử những kẻ giết người hàng loạt. Theo lập luận của Pinker, các chế độ dân chủ có “một mớ bòng bong các giới hạn về thể chế, nên một vị lãnh tụ không thể chỉ việc hứng chí huy động quân đội hay dân quân dàn trải khắp nước rồi bắt đầu sát hại hàng loạt dân thường.”
Ngược lại với những điều dường như Li được chỉ bảo khi ông là một anh chàng hippie Berkeley, ý đồ của dân chủ không phải là dân chủ dẫn đến một cõi Niết bàn, mà là dân chủ có thể giúp ngăn chặn một địa ngục trần gian. Dân chủ còn nhiều, nhiều vấn đề. Chức năng bảo hiểm này của dân chủ – về giảm thiểu các thảm họa – thường bị lãng quên hoặc bị xem là đương nhiên, nhưng đây là lý do quan trọng nhất khiến dân chủ ưu việt hơn tất cả mọi chế độ chính trị khác từng được loài người phát minh cho đến nay. Biết đâu một ngày nào đó sẽ có một chế độ tốt hơn dân chủ, nhưng chế độ chính trị của Trung Quốc, theo cách diễn đạt của Li, không phải là một trong những chế độ đó.
Yasheng Huang (Hoàng Á Sinh) là Giáo sư Kinh tế Chính trị và Quản trị Quốc tế tại Trường Quản trị Kinh doanh Sloan thuộc Viện Công nghệMassachusetts (MIT) và là nhà sáng lập cả Phòng Nghiên cứu Trung Quốc lẫn Phòng Nghiên cứu Ấn Độ ở trường Sloan của MIT. Các bài viết của ông đã đăng trên The Guardian, Foreign Policy
, Forbes, và gần đây nhất là trên Foreign Affairs
, nơi ông tranh luận với Eric X. Li về một chủ đề tương tự. Năm 2011, giáo sư Huang nói chuyện ở diễn đàn TEDGlobal về dân chủ và tăng trưởng ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra
[i] Xem bài phỏng vấn tác giả giới thiệu sách
ở đây. (N.D.)
SHARE
http://www.procontra.asia/?p=3517