Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012

Những hoàng đế cuối cùng


Tháng 11 4, 2012
Kai Strittmatter
Marcus Vũ dịch
Hàng tỷ thuộc về gia đình những quan chức lớn, và một chút cho mỗi người Hoa. Câu chuyện thần thoại về một đảng cộng sản theo đường lối chủ nghĩa tư bản.
Kỳ quan chính trị
Trung Hoa – kỳ quan kinh tế? Biết rồi khổ lắm nói mãi. Điều thú vị thực ra là: Trung Hoa là một kỳ quan chính trị. Một quốc gia vươn lên hàng thứ hai thế giới về sức mạnh kinh tế với những lãnh đạo không chịu trách nhiệm với bất cứ ai về chuyện họ làm, với thể chế què quặt, một đất nước mà luật pháp không được coi trọng bằng lời nói của một quan chức đảng cấp vùng. Một đảng, dù đã được dự báo là ngắc ngoải nhiều lần, gửi người bay vào quỹ đạo và đẩy thị trường chứng khoán thế giới lúc lên voi lúc xuống chó. Một đảng tự gọi là cộng sản đã khai phá chủ nghĩa tư bản theo kiểu mới.
Trung Hoa chưa từng bao giờ giàu có như bây giờ.
“Và Trung Hoa cũng chưa từng yếu như bây giờ.”
Câu này là của Đái Tình[1], một phụ nữ từng sinh trưởng giữa vòng bao bọc của quyền lực, người đã từng chung lớp mẫu giáo với một số lãnh đạo hiện nay.
“Nếu giờ ai mà hỏi tôi”, bà nói, “lựa chọn sau chót của tôi mới là kiếp sau sinh ra lại làm người Hoa.”
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Được thành lập bởi một nhóm những nhà cách mạng trẻ vào tháng Bảy năm 1921 tại Thượng Hải. Đảng[2]hiện có 82 triệu thành viên – tương đương dân số nước Đức, nhưng có vẻ là mắn đẻ hơn: Trong vòng 10 năm qua đã có trên 26 triệu thành viên mới gia nhập. Đảng lèo lái đường đi nước bước của các công ty lớn, chỉ đạo quân đội lớn nhất hành tinh, dẫn dắt cả một đất nước – những hành động mà ta không thể nhận biết ngay được. Thoạt trông ta chỉ thấy các sếp tổng công ty, một bộ trưởng quốc phòng, một chính phủ. Vâng, Trung Hoa cũng có một chính phủ, chỉ có điều: chính phủ không điều hành. Đảng làm chuyện đó.
Đái Tình năm nay 71 tuổi. Bà từng là nhà báo nổi tiếng nhất nước. Cha bà thuộc đội ngũ những thành viên đầu tiên của Đảng. Cha bà mất trong cuộc chiến kháng Nhật, bà được người bạn của cha bà – nguyên soái Diệp Kiếm Anh[3], một đồng chí chiến đấu của Mao, nhận về làm con nuôi. Trong vai trò con ông cháu cha được bảo bọc, Đái Tình lớn lên trong khu Trung Nam Hải thuộc vườn thượng uyển cũ của Tử Cấm Thành, là nơi mà những ông quan thế hệ mới lưu trú cách biệt với quần chúng, ngay sau khi cách mạng thành công.
“Ở trong kia”, bà vừa nói vừa chỉ tay vào Tây Môn của Tử Cấm Thành, “đó là cái thư viện mà khi còn ở tuổi thiếu niên tôi thường ngồi trong đó cả ngày.” Thời còn là hồng vệ binh, bà tôn thờ Mao, thời là phóng viên trẻ bất mãn, bà tôn sùng Đặng Tiểu Bình và chính sách cải cách của ông ta. Sau ngày thảm sát Thiên An Môn, vào mùa thu năm 1989, bà tự ra khỏi Đảng.
Kể từ đó bà hầu như biến mất: Một người thuộc “nhóm thái tử”[4] – cách người ta thường gọi con cái các quan chức cấp cao của Đảng – đã trở thành kẻ phản kháng. Đái Tình từ đó không được phép xuất bản một dòng nào nữa ở Trung Hoa, một công an được cử túc trực ngày đêm canh chừng bà.
“Đảng như là Thánh”, một giáo sư thuộc trường Đại học Nhân dân Bắc Kinh từng nói. “Thánh hiện diện ở khắp nơi. Bạn chỉ không nhìn thấy Thánh thôi.”
Đang có một sự đổ vỡ
Vào thứ Năm tới, ngày 8 tháng 11 năm 2012, đảng này sẽ họp. Kỳ họp thứ 18 trong lịch sử của nó. Lần này chắc sẽ là một trong những lần quan trọng nhất, vì tính sống còn của nó.  Người đàn ông quyền lực nhất Trung Hoa sẽ được bầu, đồng thời cũng là dịp để Đảng cho thấy liệu nó thực sự có đủ năng lực cải cách chính trị hay không. Từ ngoài nhìn vào thì quốc gia này có vẻ giàu có, mạnh mẽ và tự tin hơn bao giờ hết – nhưng chính người Hoa, dù trong hay ngoài Đảng, đang “cảm thấy một cuộc khủng hoảng sâu sắc”, tạp chí Học tập Thời báo của Đảng cho hay.
Kỳ họp Đảng này có ý nghĩa không nhỏ với cả Trung Hoa lẫn thế giới, dù rằng cho tới gần đây cả hai thậm chí chưa được biết ngày chính thức khởi họp là ngày mấy. Có vẻ như là chính Đảng còn đang bị mắc kẹt một chân ở dưới mặt đất. Và thực sự ai sẽ là người nắm trọng tâm quyền lực, thế giới sẽ chỉ được biết chắc chắn vào ngày cuối cùng. Khi đó, lúc cánh cửa Đại lễ đường Nhân dân mở ra và một nhóm lãnh đạo mới đi vào theo hàng một và đúng thứ tự quyền lực. Cảnh tượng này hơi giống ở đất nước của Giáo hoàng, khi khói trắng bay lên cao.[5]
Một lần, Đái Tình kể, người canh gác bà thắc mắc với vẻ ngạc nhiên vì sao một người có dòng dõi như bà lại không thâu tóm được nhiều của cải cho cá nhân mình. “Tụi con ông cháu cha bị khinh ghét trong dân chúng. Cũng đúng thôi”, Đái Tình nói. “Anh chỉ cần thốt lên một tiếng là được tất cả chẳng khó khăn gì. Vấn đề ở nước tôi là, các ông bố thậm chí không kiểm soát được con cái. Tôi đã từng chứng kiến ngay tại gia đình tôi, với người cha nuôi. Nguyên soái Diệp đã rất buồn rầu về những đứa con đã lợi dụng tên tuổi ông ấy để tạo dựng sự nghiệp hay đạt được quyền lợi. Đó là một phần của chế độ: Anh chỉ cần vơ vét thôi, quá dễ dàng. Anh nghĩ lý do vì sao mà hiện nay người ta còn vào Đảng? Vì họ tin vào chủ nghĩa cộng sản ư? Tôi chẳng còn biết ai như thế. Không: Vì họ sẽ được bổng lộc, và trên hết là: Tiền.”
Đối với Đảng, năm qua chẳng tốt đẹp gì. Trước hết là vụ bê bối xung quanh Bạc Hy Lai – người từng là ngôi sao chính trường, khi vợ ông ta tổ chức thủ tiêu một doanh nhân người Anh và gia đình ông ta thâu tóm tài sản trị giá hàng trăm triệu đô la Mỹ. Sau đó là vụ phanh phui khối tài sản lên tới hàng tỷ của gia đình một số quan chức lãnh đạo cao nhất: đầu tiên là gia đình của Tập Cận Bình, người trong kỳ họp Đảng sắp tới nhiều khả năng sẽ được bầu làm lãnh đạo mới của Trung Hoa, rồi đến gia đình của Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Người Hoa có bất ngờ không? “Có lẽ tôi sẽ bất ngờ nếu như gia đình các ông ấy không tham nhũng”, Yang Lin[6] – một phụ nữ 34 tuổi làm trong ngành quảng cáo ở Bắc Kinh, nói. Dù vậy nhiều người vẫn bị sốc về mức độ và con số mà họ trước nay khó tưởng tượng nổi. Ngay cả Ôn Gia Bảo ư? Vị Thủ tướng mà người ta đồn rằng ông thực sự muốn cải cách. “Ông Ôn có lẽ trong sạch thật. Nhưng chính điều đó làm tôi mất hết hy vọng, bởi ông ta thậm chí không thể kiểm soát được gia đình mình.” Yang Lin trích dẫn một câu nói của vị Thủ tướng: “Sự ngay thẳng và công lý ngời sáng hơn mặt trời.” Rồi cô hỏi: “Các con ông ấy có cười thối mũi vào cha mình không nhỉ?”
Có thể nắm bắt được cảm giác thất vọng và chông chênh. Trong một cuộc trưng cầu của Hoàn cầu Thời báo – một tờ do Đảng kiểm soát, kết hợp với mạng Sina hai năm trước đây, 88% trong số 7000 người được hỏi cho rằng, họ mong nhất là có thể rời khỏi Trung Hoa.
Đang có một sự đổ vỡ.
Chính trị kiểu du kích
Hiệp ước mà Đảng ký với nhân dân sau sự kiện thảm sát Thiên An Môn là: “Tụi bay câm miệng lại, tụi tao đảm bảo rằng tụi bay sẽ ngày càng được sung sướng hơn” – cái này còn giá trị không? “Bên ngoài nhìn vào bạn thấy một cái cây lớn xanh tươi sum suê, nhưng rễ của nó đã mục. Một cơn gió mạnh là cây đổ.” Tuần trước, hai lần liền chúng ta được nghe các hình ảnh ẩn dụ này, và cả hai lần đều là phát ngôn của những đảng viên.
Nói đi cũng phải nói lại: Điều này đã từng được nghe rồi. Hai mươi năm trước đây. Năm 1989, Đảng cho xe tăng cán nhân dân của nó, Bức tường Berlin sụp đổ, rồi Liên Xô tan rã – Đảng Cộng sản Trung Quốc bị cô lập và coi thường, nó có vẻ yếu đuối như chưa từng thế. Nhưng nó đã không chỉ củng cố được quyền lực, mà bên cạnh đó còn chôn luôn chủ nghĩa cộng sản, cứ tám năm lại tăng gấp đôi sức mạnh kinh tế, quản trị cuộc đô thị hóa lớn nhất toàn cầu và kéo hàng triệu người Hoa ra khỏi nghèo đói.
Đảng này thật khôn ngoan, vô áy náy và uyển chuyển, một bậc sư phụ về sống sót. Tất nhiên nó tiếp tục dùng sự đe nẹt và ép buộc khi cần. Trong năm nay, chính phủ dành 110 tỷ đô la Mỹ từ ngân sách cho việc “ổn định xã hội”, có nghĩa: cảnh sát, công an, và tình báo – nhiều hơn 5 tỷ so với ngân sách dành cho quân đội.
Và tất nhiên kiểm duyệt cũng như tuyên truyền quyết định cái gì là sự thật ở Trung Hoa. Chúng xóa bỏ lịch sử: 40 triệu người chết đói mà Đảng liên đới trách nhiệm, thảm sát những người biểu tình ôn hòa. Và chúng khoác thêm tấm áo mới cho ngôn ngữ. Dân chủ? “Đó là chính phủ của Đảng Cộng sản vì dân”. Trên hết, những năm vừa qua Đảng chú trọng vào một giấc mơ về tầm vóc quốc gia và viễn cảnh can dự vào sự cường thịnh: Nhờ đó nó được sự ủng hộ của phần đông quần chúng. Cho tới nay.
Thực chất của đảng này là thế nào? Sẽ dễ hiểu hơn nếu ta quên đi những hình ảnh trước đây của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức và Đảng Cộng sản Liên Xô. Đảng của Trung Hoa là một thực thể khác hẳn, nhà chính trị học Sebastian Heilmann thuộc Đại học Trier – người nghiên cứu Đảng hàng chục năm nay và đã phỏng vấn hàng trăm cán bộ và kế hoạch gia trên toàn đất nước, cho biết. Không phải kiểu máy móc khô cứng. Một mạng lưới của những mạng lưới, hay của những bè phái, trong đó đổi chác và đàm phán đã thay thế chuỗi ra lệnh theo cấp bậc. “Một bộ máy rất uyển chuyển, kiểu như túi mật, biết cách thích nghi với dòng chảy cuồn cuộn của phát triển”. Đảng, Heilmann nói, không chỉ thành công vì nó vứt bỏ đi những gánh nặng cũ, mà chính vì còn giữ được thứ gì đó từ thời đấu tranh ngầm.
Học từ Mao ư, thật thế sao? Chính xác, Heilmann cho biết, bí quyết là: “Chính trị kiểu du kích”. Có nghĩa: Chuyển động như một con cá đang bơi, thích nghi liên tục, tận dụng mọi cơ hội củng cố quyền lực bằng mọi giá. Thử những đường lối không theo lệ thường ở các vùng. “Đảng dưới thời Mao đã làm cách mạng thành công bởi cuộc tìm kiếm phương cách luôn được thực hiện từ dưới lên”, Heilmann nói. “Điều này đã được ghi vào trong ADN[7] của Đảng.“
Cách này không chỉ dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa Nhân dân vào năm 1949, mà gần nửa thế kỷ sau còn là những đặc khu kinh tế và công ty tổ hợp, những doanh nhân sở hữu hàng tỷ tự hào nhận sổ đảng viên và những tập đoàn nhà nước niêm yết trên thị trường chứng khoán. Một quái vật kỳ dị nảy sinh: Cơ thể hệ thống cộng sản mọc ra những chân tay tư bản và những sức mạnh kinh tế mới. Một thứ chủ nghĩa tư bản cán bộ đã làm đất nước giàu lên, và các cán bộ của nó, tất nhiên.
Sự hình thành nên thực thể này đã từng là thành công vĩ đại nhất của chế độ, và giờ đây là nguy cơ lớn nhất. Bởi chất keo kết dính Đảng giờ đây là gì? “Đảng có cả hai: độc quyền quyền lực và thâu tóm những tài sản quan trọng nhất”, Sebastian Heilmann nói. “Điều này còn tồn tại một cách sáng tạo và bình ổn một khi quyền lực và kinh tế nhà nước kiếm được đủ lợi nhuận cho tất cả các bè phái và nhóm lợi ích.”
Thế khi những rạn nứt có thể nhìn thấy được như hiện nay? “Các tranh chấp sẽ diễn ra.”
Vơ vét rồi biến
Một vùng ngoại ô Bắc Kinh. Lẩu kiểu Trùng Khánh: thịt cừu, tôm, nấm trong nước lèo cay xé. Chủ xị bữa này, một người đàn ông nhỏ nhắn lanh lợi ngoại ngũ tuần, nâng cốc. Hãy gọi ông là Zeng Hong.
Zeng là một doanh nhân tư nhân, chuyên nhập khẩu khoáng sản từ Đông Nam Á cho nền kinh tế đói khát của Trung Hoa, nhưng chưa đầy mười năm trước, ông cũng từng là một phần của bộ máy, trong vai trò thư ký của một chủ tịch tỉnh. Ông nói, hồi đó sự xấu hổ còn đặt giới hạn cho những viên chức như ông. “Ừ thì chúng tôi cũng chấp nhận lời mời đi ăn những thứ cao lương mĩ vị đắt tiền, đi hát karaoke, tiêu khiển với gái”, ông kể. “Nhưng mà tất cả những tiền bạc có thể vơ vét được hiện giờ? Không thể tưởng tượng được.” Zeng châm một điếu thuốc lá. “Bạn bè tôi hồi đó giờ đều làm chủ tịch hay cái gì đó tương tự. Và tất cả họ đều giàu sụ. Biệt thự của các anh, đồng hồ Thụy Sĩ của các anh – các anh đều trả được bằng lương à, tôi thường hỏi họ thế.”
Ông liệt kê những gì đã xảy ra từ hồi đó: Bán số lượng lớn đất công, kèn cựa doanh nghiệp tư nhân, sự hồi sinh các xí nghiệp nhà nước trong vòng mười năm qua. “Giờ đây Tiền và Quyền đi đôi với nhau, khác với hồi xưa. Kinh tế trong tay cán bộ, đó là một mô hình thảm họa. Đúng, kinh tế nước tôi tăng trưởng, nhưng tiền có đến được với dân không? Khoảng cách giàu nghèo thật khủng khiếp. Nhân dân đã mất hết niềm tin. Và cũng vì những kẻ trục lợi biết rằng đang đứng trên cái nền chao đảo, nên chúng cố gắng vơ vét nốt càng nhiều càng nhanh càng tốt. Rồi biến.”
“Điều tồi tệ là ở Trung Hoa chưa có một kẻ quyền lực nào bị lãnh trách nhiệm cho việc làm sai trái của hắn”, Đái Tình – nhà phản kháng nói. “Nếu không phải vì anh vừa thua một cuộc chiến quyền lực, anh luôn vô tội.”
Một cuộc điều tra nội bộ trong Đảng cho thấy ở cấp huyện 48% tất cả các cán bộ đều tham nhũng, theo lời một thành viên của một viện nghiên cứu thân thiết với Đảng. Vậy là cứ hai người có một người tham nhũng.
Cải cách hay suy vong
Mùa hè vừa qua xuất hiện một văn bản tả chân đáng chú ý về tình hình xã hội: lạm dụng quyền lực, cướp đất, những phiên tòa thối nát không thể là chỗ dựa của nạn nhân, bạo lực chống lại người thỉnh nguyện, những viên chức chỉ chăm chú vào các cuộc trao đổi ngầm. Ngắn gọn: “Những nhóm lợi ích đầy quyền lực dập tắt mọi hình dung về công lý và đẩy xã hội tiếp tục về hướng một nhà nước mafia.” Ở một đoạn khác: “Nếu ngay cả sư sãi và giáo viên cũng đều tham nhũng, thì đất nước đã thối đến tận ruột rồi.” Trung Hoa trên đường tiến tới một nhà nước mafia? Văn bản này không được viết bởi một nhà bất đồng chính kiến, mà tác giả của nó là Tôn Lập Bình[8], một nhà xã hội học thuộc trường Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh, và trên hết, ông từng là giáo sư hướng dẫn luận văn tiến sĩ của Tập Cận Bình – người đàn ông quyền lực mới của Trung Hoa.
Phải chăng ta có thể chờ mong gì ở vị hoàng tử nối ngôi này? Thậm chí là cải cách? Ông Ngô Tư[9]Wu Si, nhà văn và tổng biên tập của tạp chí Viêm Hoàng Xuân Thu[10]  – ấn phẩm của một số thành viên kỳ cựu và mang tinh thần tự do thuộc Đảng, cho rằng không phải nhân sự làm ông thấy lạc quan, mà là thực trạng. “Chúng tôi đang đi tới một điểm mà cải cách là tất yếu.”
Những tháng qua xuất hiện một cơn lũ các bài luận, ngay cả của những người tiên phong thuộc Đảng, tất cả cùng đồng thanh hát một câu như nhau: Cải cách hay suy vong! Những nhà phân tích yêu cầu trước hết phải phá bỏ thế độc quyền. Và họ đòi hỏi thể chế nhà nước pháp quyền. Chống lại chuyên chế nhà nước, nhưng cũng là phương tiện duy nhất chống tham nhũng. Không hẳn là những người cầm đầu không thấy mối nguy hiểm từ tham nhũng. “Nó có nguy cơ làm xói mòn toàn bộ nền tảng chính trị”, Thủ tướng Ôn Gia Bảo cảnh báo. “Hãy kiểm soát vợ chồng, con cái, họ hàng và bạn bè của các đồng chí”, hoàng tử nối ngôi Tập Cận Bình lưu ý.
Đợi chờ và hy vọng
Giáo sư người Bắc Kinh Hà Gia Hoằng[11] là một trong những luật gia nổi tiếng nhất Trung Hoa. Ông cũng viết cả tiểu thuyết trinh thám. Hai năm trước đây ông khởi xướng một “ngành học chống tham nhũng” tại trường Đại học Nhân dân Bắc Kinh. Bước thứ nhất của ngành đào tạo: Sinh viên không được phép mời các giảng viên đi ăn hay tặng quà. Ai lắng nghe người giáo sư dũng cảm sẽ hiểu được ngay giới hạn những cố gắng của ông. Vẫn còn tình trạng những thanh tra nội bộ Đảng giải quyết vấn đề với các đảng viên bị nghi vấn và tước đoạt quyền can dự của luật pháp. “Là một giáo sư luật, tôi rất buồn phiền về điều này”, ông Hà nói. “Tại đó, dưới sự bao che của Ủy ban Thanh tra Đảng, diễn ra rất nhiều điều bất hợp pháp. Đáng lẽ trong một nhà nước pháp quyền các công tố viên phải làm nhiệm vụ điều tra.”
Trong một nhà nước pháp quyền. Và tại Trung Hoa? Hà thở dài. “Ở Trung Hoa các công tố viên bị đặt dưới quyền kiểm soát của các quan chức cấp vùng. Họ phải lấy ý kiến từ bí thư Đảng trước khi thực thi công việc.” Làm gì bây giờ? “Chúng tôi đợi quyết định từ thế hệ lãnh đạo mới”, Hà nói. “Chúng tôi đợi.”
Tháng Mười vừa qua cả Trung Hoa vui Tết Trung thu. Ngay trước ngày hội có bài thơ sau được lan truyền trên mạng: “Hy vọng, hy vọng mãi / Thất vọng, thất vọng luôn / Ông Trăng trên nước Trung Hoa già cỗi / tròn rồi lại khuyết / khuyết rồi lại tròn / và rồi trong cái thất vọng lại mở ra hy vọng.”
Người ta có thể hy vọng gì? Nhiều người đồn đại rằng những tiết lộ động trời về khối tài sản hàng tỷ của gia đình Thủ tướng Ôn Gia Bảo chỉ được phanh phui, vì ông và nhóm nhà cải cách của mình đã muốn động chạm đến khối tư bản cán bộ, vì muốn tăng sức ép cạnh tranh hay thậm chí là chia nhỏ những tập đoàn nhà nước quá lớn và đầy quyền lực. “Đó là một cuộc chơi lớn ở phía sau”, Sebastian Heilmann nói. “Sự phản đối cải cách rất mạnh mẽ.”
Kỳ họp thứ 18 của Đảng sẽ lên kế hoạch 5 năm chống tham nhũng. Tiếp tục như mọi khi. Và cái kế hoạch này cũng sẽ thất bại, khi nào mà Đảng còn tự thanh tra tham nhũng nội bộ. Cho tới nay nhà lãnh đạo mới nào, bất kể người ta gán cho ông ta những nỗ lực cải cách ra sao, cuối cùng đều trở thành tù nhân của hệ thống.
“Giá như họ dừng được”, Đái Tình nói, “đó sẽ là điều kỳ diệu vĩ đại nhất”.

Nguồn: Dịch từ nguyên bản tiếng Đức “Die letzten Kaiser” của tác giả Kai Strittmatter – nhật báo Süddeutsche Zeitung số ra ngày 2 tháng 11 năm 2012, trang 3. Toàn bộ chú thích của người dịch. Các tiêu đề đoạn do người dịch đặt.
Bản tiếng Việt © 2012 Marcus Vũ & pro&contra

[1] Dai Qing (戴晴)
[2] Đảng (viết hoa): “die Partei” hay “die KP” trong nguyên bản, chỉ Đảng Cộng sản Trung Quốc.
[3]Ye Jianying (葉劍英)
[4] Nguyên văn tiếng Đức: “Prinzenclique”
[5] Tác giả liên hệ đến sự kiện bầu Giáo hoàng mới tại Vatican: Khi khói đen bốc lên từ ống khói của Vatican có nghĩa là chưa ngã ngũ, còn khi khói trắng là đã có một vị được bầu.
[6] Người dịch giữ nguyên tên phiên âm Latinh của các tên người trong bài viết, trừ trường hợp tên người đã có phiên âm tiếng Việt được đông đảo người đọc biết đến.
[7] Acid Deoxyribo Nucleic: phân tử mang thông tin di truyền mã hóa.
[8]Sun Liping (孙立平)
[9]Wu Si (吴思)
[10]Yanhuang Chunqiu (炎黄春秋)
[11]He Jiahong (何家弘)

Bi kịch Việt nam


Phạm Đình Trọng

NHỮNG TẤM LÒNG BAO DUNG

Nhận được những câu hỏi của nhà văn Phạm Thị Hoài tôi cứ nghĩ ngợi vân vi. Không phải nghĩ về câu trả lời mà nghĩ về chính câu hỏi. Đó là những câu hỏi mà mọi người Việt Nam đang quan tâm đến vận mệnh đất nước hôm nay vẫn thường tự hỏi. Bao giờ dân tộc Việt Nam thoát khỏi họa Cộng sản để lại trở về với chính mình, lại trở về với hồn cốt tinh hoa Việt Nam. Nhưng nhà văn không hỏi gay gắt như vậy. Câu hỏi của nhà văn thật nhẹ nhàng, bao dung.
Chúng ta thử hình dung một ngày nào đó không xa, trong vòng mươi năm tới, Việt Nam sẽ chuyển thành công từ thể chế độc quyền dưới sự lãnh đạo toàn diện của đảng Cộng sản Việt Nam sang dân chủ đa nguyên, với nhà nước pháp quyền dựa trên tam quyền phân lập, với tư tưởng tự do và ngôn luận, tự do hội họp và xã hội dân sự. Khi đó cái di sản đã kéo dài ba phần tư thế kỉ ở miền Bắc và gần nửa thế kỉ trên cả nước sẽ đặt chế độ mới trước những thử thách nào? Xã hội Việt Nam cần bao lâu để vượt qua di sản đó? Có những điểm sáng hay truyền thống tốt đẹp nào từ các di sản đó cần giữ gìn? Khả năng diễn ra trong hòa bình của bước ngoặt đó lớn tới mức nào hay tình trạng bạo loạn mà nhiều người tiên đoán và dùng đó làm lập luận chống thay đổi thể chế sẽ xảy ra? Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đóng vai trò gì trong tiến trình chuyển hóa đó?...
Chấm dứt thể chế độc quyền lãnh đạo đất nước của đảng Cộng sản Việt Nam là điều đương nhiên, là tiến trình tất yếu của lịch sử. Càng chậm trễ, càng cản trở tiến trình đó càng có tội với dân tộc, với lịch sử, càng làm cho dân tộc li tán và suy yếu, càng làm cho đất nước tụt lại sau, càng kéo dài đau khổ của nhân dân. Nhà văn khẳng định tiến trình chấm dứt sự độc diễn trên sân khấu chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam là không thể đảo ngược nhưng vẫn trông mong đảng Cộng sản có vai trò chủ động trong tiến trình đó. Phải là một nhân cách văn hóa mới có được tấm lòng nhân hậu, bao dung như vậy. Đó là tấm lòng bao dung của nhà văn, đó cũng là tấm lòng bao dung của dân tộc Việt Nam đối với đảng Cộng sản Việt Nam, một tổ chức chính trị đã dùng bạo lực tàn nhẫn ứng xử với dân tộc Việt Nam văn hiến và đã đem lại cho dân Việt Nam gần một thế kỉ cách mạng, chiến tranh đẫm máu, li tán dân tộc, tan hoang đất nước.
Đảng Cộng sản tồn tại bằng độc quyền quyền lực. Xóa bỏ sự độc quyền quyền lực là xóa bỏ sự tồn tại của đảng Cộng sản. Hiện nay đảng Cộng sản đã là một sản phẩm lỗi thời của lịch sử. Muốn tồn tại, đảng Cộng sản chỉ còn hai lựa chọn: Hoặc dùng bạo lực hùng hậu có trong tay duy trì sự độc quyền quyền lực. Hoặc đổi mới đảng Cộng sản để tham gia vào tiến trình dân chủ đa nguyên, để đảng Cộng sản tồn tại bình đẳng cùng các đảng khác trong thể chế đa nguyên lành mạnh, trong xã hội dân chủ thực sự.
Chọn con đường tồn tại bằng bạo lực, dù có lực lượng bạo lực khổng lồ và hung hãn nhưng đã là sản phẩm lỗi thời của lịch sử thì đảng Cộng sản cũng chỉ tồn tại được ngày nào biết ngày đó, chỉ là khoảnh khắc. Khoảnh khắc tồn tại ngắn ngủi đó phải trả bằng giá đắt: Đảng Cộng sản tự đặt vào thế đối lập với nhân dân, trở thành vật cản của dòng chảy lịch sử, kìm hãm đất nước trong trì trệ, đưa đất nước vào khủng bố, đàn áp đẫm máu, vào bạo loạn, rối ren, giam cầm nhân dân trong ngục tù, nhục hình của chuyên chính vô sản, đày ải, vô hiệu, thủ tiêu nhiều tài năng, trí tuệ và khí phách dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam tham gia vào tiến trình dân chủ đa nguyên, mang lại dân chủ thực sự cho xã hội Việt Nam là hồng phúc cho dân tộc Việt Nam và cũng là hồng phúc cho chính đảng Cộng sản Việt Nam. Để làm được điều đó, những người Cộng sản Việt Nam phải có đủ tầm trí tuệ và lòng dũng cảm nhận ra khiếm khuyết, lỗi lầm của chủ nghĩa cộng sản đã đưa đến những thảm họa khủng khiếp cho loài người và cho dân tộc Việt Nam, phải có tâm hồn của người Việt Nam yêu nước thương nòi, đau nỗi đau khôn cùng của người Mẹ Việt Nam trước những đau thương mất mát quá lớn mà hàng triệu số phận, hàng triệu gia đình Việt Nam đã phải nhận từ năm 1930 đến nay. Trước hết họ phải nhận ra những lầm lẫn, những ảo tưởng, những hậu quả thê thảm của học thuyết đấu tranh giai cấp trong lí luận chủ nghĩa Marx mà họ đã thực thi.

KHÔNG CÓ CÁI TÔI CÁ NHÂN, CHỦ NGHĨA MARX LẠI ĐƯA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI TRỞ VỀ BẦY ĐÀN

Cuộc đời mỗi người đều có ba giai đoạn: Tuổi ấu thơ ngơ ngác, tuổi còn bị sai khiến, dạy bảo, có nhà triết học coi đó là tuổi lạc đà, phải chia động từ “Mày phải”. Mày phải đến trường. Mày phải ngủ đúng giờ... Tuổi của bầy đàn, chưa có cá nhân, cá nhân còn lẫn trong bầy đàn, đánh mất trong bầy đàn, chưa hình thành những nhân cách hoàn chỉnh. Đến tuổi trưởng thành, con người nhận thức được thế giới và nhận thức được bản thân, cá nhân được hình thành tách ra khỏi bầy đàn, cá nhân có tư duy, có chính kiến riêng cần được nhìn nhận, cần được khẳng định sự có mặt trong cuộc đời, đó là tuổi sư tử, tuổi chia động từ “Tôi là”. Tôi là người thợ. Tôi là cầu thủ bóng đá. Tôi là nhà giáo. Tôi là chính khách... Thời mỗi công việc, mỗi hoạt động đều có tính chuyên nghiệp cao, là môi trường tốt nhất để cá nhân bộc lộ hết tài năng trong nghề nghiệp, trong hoạt động, tạo ra những ngôi sao, những đỉnh cao, những thần tượng xã hội. Cá nhân để lại dấu ấn trong cuộc đời bằng tư tưởng, chính kiến và bằng cả tài năng trong những hoạt động nghề nghiệp, hoạt động xã hội. Thời của những dấu ấn cá nhân. Đến giai đoạn xế chiều, con người lại trở về thời ấu thơ, lại trở về bầy đàn, tìm đến đám bạn cùng giới tính.
Xã hội loài người cũng phải qua thời ấu thơ là thời bầy đàn bộ lạc nguyên thủy, thời phong kiến trung cổ, chỉ có lãnh chúa, chủ đất mới có cá nhân, còn lại chỉ là đám đông lao xao, chỉ là công cụ sản xuất trong tay chủ đất và công cụ bạo lực trong tay vua chúa. Bước vào thời văn minh công nghiệp, xã hội loài người mới bước vào thời trưởng thành. Khoa học kĩ thuật cho con người sức mạnh khẳng định mình, cho trí tuệ làm chủ bản thân và làm chủ thế giới. Con người có mặt trong xã hội là những cá nhân với tư tưởng, chính kiến riêng phải được thể hiện và phải được xã hội nhìn nhận, tôn trọng.
Cùng với văn minh công nghiệp, cùng với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa Marx ra đời ở giai đoạn đầu thời trưởng thành của xã hội loài người khi mới chỉ có vài nước châu Âu có văn minh công nghiệp, còn lại thế giới vẫn trì trệ trong xã hội phong kiến, trong nền sản xuất nông nghiệp thô sơ. Ở đó, người lao động nông nghiệp vẫn là những nô lệ của chủ đất, bị bóc lột tàn tệ hơn cả thời trung cổ và bị cột chặt vào đất đai. Ở các nước vừa chập chững bước vào công nghiệp, máy móc ở thế hệ đầu tiên, năng suất chưa cao và còn cần nhiều sức thợ, nguồn tích lũy tư bản lớn nhất của những ông chủ vừa khởi nghiệp là bóc lột tận cùng sức lao động của người thợ để có nhiều sản phẩm, nhiều lợi nhuận. Cùng với bóc lột thậm tệ công nhân trong nước, những ông chủ tư bản cũng đã làm chủ nhà nước tư bản còn ào ạt đưa quân đi xâm chiếm thuộc địa tìm nguyên liệu và mở rộng thị trường.
Nhìn thấy chủ nghĩa tư bản ở buổi sơ khai hoang dã hai tay ròng ròng máu công nhân trong nước và máu người dân thuộc địa, nhìn thấy cuộc sống khốn cùng của người lao động do bị tư bản buổi sơ khai hoang dã bóc lột, với lòng yêu thương con người, chàng thanh niên người Đức gốc Do Thái chưa đến ba mươi tuổi Karl Marx đang miệt mài nghiên cứu lịch sử kinh tế, triết học và đã viết nhiều tập Bản Thảo Kinh Tế Và Triết Học liền cho rằng: Mọi bất công đau khổ mà con người đang phải gánh chịu là do chiếm hữu tư liệu sản xuất. Và: Lịch sử của tất cả các xã hội từ trước đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp! Từ nhận thức vội vàng, nông nổi, lầm lẫn, cực đoan đó, chàng tiến sĩ triết học trẻ tuổi có bộ óc siêu vệt và trái tim nồng nàn yêu thương con người liền xây dựng lên học thuyết Đấu Tranh Giai Cấp để tạo dựng lên một xã hội không còn chiếm hữu tư liệu sản xuất, cội nguồn của bóc lột, bất công, mọi người đều được sống trong yêu thương, hạnh phúc, xã hội cộng sản. Đó là tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Marx.
Chủ nghĩa Marx ra đời khi chủ nghĩa tư bản hoang dã đang hoành hành man rợ nhất, cả loài người đang chìm đắm trong máu và nước mắt. Công nhân bị bóc lột ở các nước công nghiệp quyết liệt đấu tranh giành quyền sống, người dân ở các nước thuộc địa sôi sục làm cách mạng giải phóng dân tộc đều coi chủ nghĩa Marx là cứu tinh và chủ nghĩa Marx đã nhanh chóng chiếm lĩnh cả thế giới. Marx công bố Tuyên ngôn Đảng Cộng sản năm 1848 và cuộc cách mạng xã hội cuối cùng mang tư tưởng cộng sản của Marx thành công ở Cuba năm 1959. Có thể coi nửa cuối thế kí 19 và nửa đầu thế kỉ 20 là một thế kỉ của chủ nghĩa Marx. Loài người đã bước sang thế kỉ 21. Thế kỉ của chủ nghĩa Marx đã vĩnh viễn kết thúc và lùi xa rồi!
Buổi đầu chủ nghĩa Marx đã thổi bùng lên được ý chí đấu tranh giành quyền sống, giải phóng được sức mạnh bị dồn nén của cả khối nhân loại bị bóc lột, áp bức, làm nên những cuộc cách mạng long trời lở đất và giành được thắng lợi ở một phần rộng lớn trên trái đất. Nhưng chủ nghĩa Marx chỉ giành được thắng lợi ở những nơi chưa có văn minh công nghiệp, những nơi chưa có cá nhân, cá nhân chưa được giải phóng, con người vẫn là đám đông, vẫn là bầy đàn. Nước Nga khi cách mạng vô sản tháng Mười năm 1917 nổ ra vẫn là nước Nga nông nghiệp thô sơ của Sa hoàng và chủ đất. Chủ nghĩa Marx là của đám đông, là sức mạnh của đám đông được kích động bởi những quyền lợi vật chất thiết thực bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình! Chủ nghĩa Marx chỉ là lí luận tập hợp đám đông, tập hợp khối người lao động làm thuê, khối dân nô lệ các nước thuộc địa tạo nên sức mạnh bạo lực của đám đông làm cách mạng vô sản, đập tan xã hội cũ của chủ nghĩa tư bản hoang dã.
Những nhà nước do cách mạng vô sản dựng nên, dùng lí luận chủ nghĩa Marx, lí luận làm mạng vô sản của đám đông xây dựng xã hội mới đều thất bại ê chề, cay đắng, đều để lại những tội ác lớn chưa từng có trong lịch sử loài người. Vì xã hội mới là xã hội công nghiệp văn minh, xã hội của ý thức cá nhân, cá nhân được nhìn nhận, thể hiện và khẳng định sự có mặt trong cuộc đời thì học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx chỉ nhìn nhận sự có mặt của đảng Cộng sản, chỉ có cá nhân của những người lãnh đạo Cộng sản, người dân dù là nhà văn hóa, nhà khoa học, là trí thức, nghệ sĩ kiệt xuất cũng chỉ là quần chúng, là bầy đàn lạc đà cam chịu, là công cụ trong tay đảng Cộng sản như thời phong kiến trung cổ chỉ có cá nhân lãnh chúa, chủ đất, còn lại chỉ là bầy đàn, là công cụ sản xuất và công cụ bạo lực.
Mục tiêu hướng tới của chủ nghĩa Marx là vô cùng nhân đạo, cao cả: Xóa bỏ bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội phát triển cao tạo ra của cải vật chất dồi dào, con người được sống trong yêu thương, được thỏa mãn mọi nhu cầu vật chất và tinh thần. Nhưng đi đến mục tiêu cao đẹp ảo ảnh đó bằng học thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo: Nhà nước chuyên chính vô sản sử dụng bộ máy công cụ bạo lực Nhà nước xóa bỏ cá nhân, chà đạp lên số phận con người là một mâu thuẫn tệ hại của chủ nghĩa Marx, là bi kịch lớn nhất mà chủ nghĩa Marx áp đặt cho một nửa nhân loại suốt một thế kỉ. Học thuyết đấu tranh giai cấp vươn hai cánh tay bạo liệt ra, cánh tay kinh tế: Xóa bỏ quyền làm chủ tư liệu sản xuất của tư nhân, lạnh lùng bóp nghẹt cuộc sống và cánh tay chính trị: Chuyên chính vô sản, thô bạo nắm cổ người dân, định đoạt số phận người dân theo ý muốn của quyền lực vô sản chứ không theo pháp luật.
Xóa bỏ quyền làm chủ tư liệu sản xuất của tư nhân là xóa bỏ vai trò cá nhân trong kinh tế. Những cá nhân có vốn liếng, có kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm tổ chức, quản lí sản xuất, làm cho đồng vốn ngày càng sinh sôi, tạo ra của cải vật chất và của cải tinh thần ngày càng nhiều cho xã hội, những người chủ tư nhân thao lược, tài năng bị tước đoạt quyền làm chủ, trở thành những người làm thuê tầm thường cho những ông chủ tầm thường là người đại diện nhà nước vô sản làm chủ khối tư liệu sản xuất chiếm đoạt của tư nhân. Quyền làm chủ tư liệu sản xuất của tư nhân, quyền sản xuất kinh doanh của tư nhân chuyển về tay những người trong bộ máy nhà nước vô sản hoàn toàn không có kĩ năng của người làm kinh tế, không có phẩm chất của người làm chủ, lại hoàn toàn vô trách nhiệm, dẫn đến sản xuất trì trệ, kinh doanh thua lỗ, xã hội nghèo đói là điều đương nhiên đã diễn ra ở tất cả các nước hăm hở, cuồng tín thực hiện chủ nghĩa Marx!
Công hữu hóa tư liệu sản xuất chỉ xóa bỏ cá nhân trong kinh tế thì chuyên chính vô sản đã xóa bỏ cá nhân trong toàn bộ đời sống xã hội. Với chuyên chính vô sản, chỉ những người nắm quyền lãnh đạo đảng Cộng sản mới có cá nhân. Khối nhân dân còn lại chỉ là một đám đông, một bầy lạc đà, một lũ trẻ thơ ngơ ngác phải học chia động từ “Mày phải”. Mày phải học nghị quyết Đảng. Mày phải nói theo Đảng. Mọi việc đã có Đảng và Nhà nước lo. Mày phải câm mồm, không được nói Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, không được biểu tình phản đối Trung Hoa lấn chiếm lãnh thổ thiêng liêng của tổ tiên. Ông ủy viên bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ nói Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam trên diễn đàn Quốc hội thì được nhưng người dân nói Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam thì bị bắt, bị đánh, bị giam cầm. Hiến pháp cho người dân quyền tự do ngôn luận nhưng thực tế cho người dân bài học phải thuộc lòng là: Với Nhà nước của đảng Cộng sản, người dân nói trái ý Đảng liền bị khép ngay vào tội Tuyên truyền chống Nhà nước Xã hội chủ nghĩa mà vụ án tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, vụ bắt giam rồi lén lút, phi pháp đưa bà Bùi Minh Hằng vào trại giam trá hình dưới tên gọi Cơ sở giáo dục là những minh chứng.
Ở các nước công nghiệp phát triển, nơi chủ nghĩa tư bản ngự trị, cá nhân được nhìn nhận, trí tuệ sáng tạo của cá nhân được giải phóng làm nên bộ mặt, làm nên tầm vóc, làm nên sức mạnh của nền văn minh công nghiệp. Khoa học kĩ thuật mang lại cho nhà tư bản lợi nhuận mau lẹ và dồi dào gấp nhiều lần thời bóc lột sức người. Không còn những ông chủ làm giầu bằng bóc lột. Chủ nghĩa tư bản hoang dã bóc lột sức người đã vĩnh viễn lùi xa vào quá khứ tội lỗi. Mọi người dân đều có thể trở thành người chủ. Quyền con người và những giá trị nhân đạo vì hạnh phúc và phẩm giá con người đều trở thành luật pháp xã hội, được Nhà nước Tư bản thực thi nghiêm chỉnh, minh bạch trong cuộc sống. Những sản phẩm tạo ra bằng bóc lột, bằng hủy hoại môi trường, bằng điều kiện làm việc tồi tệ của người sản xuất đều không được chấp nhận.
Những ông chủ thế hệ cũ, vẫn sử dụng công nghệ thấp, cần nhiều sức lao động, vẫn phải tích lũy tư bản bằng bóc lột phải tìm đến các nước đang công nghiệp hóa, đang mở rộng cửa hứng đồng vốn đầu tư nước ngoài như Việt Nam. Chính ở đây Nhà nước Việt Nam do đảng Cộng sản cầm quyền đáng ra phải lấy học thuyết đấu tranh giai cấp đấu tranh với sự bóc lột của chủ tư bản, bảo vệ quyền lợi người dân lao động ruột thịt của mình thì trớ trêu, cay đắng thay Nhà nước vẫn nói kiên định chủ nghĩ Marx, vẫn nhân danh Chủ nghĩa xã hội nhưng chỉ chăm chăm lấy sự hà khắc, phản dân chủ của đấu tranh giai cấp để cai trị, o ép dân và làm ngơ trước sự bóc lột của chủ tư bản nước ngoài với đồng bào minh!
Kiên định chủ nghĩa Marx tội lỗi, lỗi thời, kiên định học thuyết đấu tranh gia cấp bạo liệt, chỉ có Cái Tôi của người cầm quyền, không có Cái Tôi của người dân, người dân chỉ là bầy lạc đà cắm cúi đi trên sa mạc vô tận của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội huyễn hoặc. Chủ nghĩa Marx khai sinh ra đảng Cộng sản. Kiên định chủ nghĩa Marx để duy trì sự tồn tại của đảng Cộng sản, những người Cộng sản lạnh lùng, cam tâm đưa xã hội trở về thời phong kiến trung cổ không nhìn nhận Cái Tôi, đưa nhân dân trở về thời ấu thơ, bầy đàn, khổ đau và tủi nhục.
Coi nhân dân chỉ là bầy đàn, là công cụ, không có cá nhân, không được có tư tưởng, chính kiến riêng bộc lộ rõ cả trong những văn kiện lịch sử của đảng Cộng sản. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội được Đại hội 11 đảng Cộng sản Việt Nam bổ xung và phát triển ghi: Đi lên Chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử! Con người trưởng thành cần khẳng định sự có mặt trong cuộc đời bằng Cái Tôi cá nhân không khi nào chọn thứ Xã hội chủ nghĩa chà đạp lên Cái Tôi thiêng liêng. Coi người dân là bầy đàn, là đám trẻ, không được có tư tưởng chính kiến riêng, không cần điều tra xã hội học, không cần trưng cầu ý dân, những người Cộng sản tự cho họ cái quyền nói tiếng nói của dân, áp đặt cả tâm tư, tình cảm cho người dân và họ thản nhiên ghi trong những văn kiện lịch sử của đảng Cộng sản: Đi lên Chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân. Lựa chọn Chủ nghĩa xã hội là quyền của đảng Cộng sản nhưng đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có ba triệu đảng viên. Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là gần chín mươi triệu người dân Việt Nam.
Lịch sử còn ghi rõ những cuộc tắm máu mà Chủ nghĩa xã hội đã gây ra cho loài người. Sự bế tắc, cùng đường và sụp đổ vĩnh viễn của Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới vừa diễn ra còn nóng bỏng tính thời sự, buộc cả nước Liên Xô Xã hội chủ nghĩa lâu đời nhất, hùng mạnh nhất, thành trì của cả khối Xã hội chủ nghĩa thế giới, buộc cả nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa nghèo khổ nhưng đầy quyết tâm hăm hở làm cách mạng Xã hội chủ nghĩa cũng phải từ bỏ nguyên lí kinh tế cốt lõi của Chủ nghĩa xã hội để trở về kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa. Chính kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa đã mở lối thoát, mở con đường sống cho thành trì Xã hội chủ nghĩa kém phát triển trở thành nước Nga có mặt trong nhóm nước G8 giầu mạnh nhất thế giới và cứu nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa khỏi suy sụp, tan vỡ trong bế tắc, nghèo khổ, cùng quẫn. Lịch sử đó, thực tế đó là lời khẳng định bằng máu và nước mắt của hơn hai tỉ người dân đã từng phải sống dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa rằng: Chủ nghĩa xã hội sản phẩm đầy khuyết tật nghiêm trọng của học thuyết Marx, là tai ương, là thảm họa của loài người, là ngõ cụt lầm lạc của lịch sử. Những người Cộng sản có trí tuệ, có lương tâm đều biết rõ điều đó. Nhưng đảng Cộng sản Việt Nam vẫn ghi trong Cương lĩnh rằng Chủ nghĩa xã hội phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử là tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân. Chỉ một đoạn Cương lĩnh ngắn vẻn vẹn bốn mươi mốt từ, những nhà lí luận và những nhà lãnh đạo Cộng sản đã bộc lộ rõ hai đặc tính truyền thống của đảng Cộng sản: Coi thường dân và lừa dối dân.

NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM KHẮC KHOẢI ĐI TÌM CÁI TÔI. NHỮNG NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ

Trên đường đi đến đô thị của văn minh công nghiệp, những năm ba mươi thế kỉ hai mươi, xã hội Việt Nam chợt đến phố huyện đã để lại dấu ấn trong văn chương là Tự Lực Văn Đoàn với những câu chuyện tình phố huyện, là Thơ Mới ghi lại nỗi thảng thốt sung sướng phát hiện ra Cái Tôi cá nhân trong cuộc đời và sự khắc khoải, bền bỉ đòi hỏi sự nhìn nhận của xã hội đối với Cái Tôi thiêng liêng đó. Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới không những có công lớn với văn hóa Việt Nam mà còn có công lớn với lịch sử Việt Nam vì đã ghi lại bước phát triển vô cùng quan trọng của xã hội Việt Nam và cũng là bằng chứng về sự kéo lùi lịch sử, kéo lùi sự phát triển xã hội của đảng Cộng sản Việt Nam.
Xã hội Việt Nam mới chợt đến phố huyện trên tiến trình đi đến đô thị của văn minh công nghiệp cũng đã kịp gọi những Cái Tôi cá nhân thức dậy. Năng lực sáng tạo của những cá nhân đó được giải phóng đã tạo ra cho lịch sử Việt Nam thời trước Cộng sản những tên tuổi lớn. Về văn hóa có Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm, Hoàng Xuân Hãn, Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Vũ Trọng Phụng, Phạm Cao Củng, Nam Cao, Phạm Huy Thông, Nguyễn Tuân, Thế Lữ... Về kinh tế có Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô, Đỗ Đình Thiện, Nguyễn Thị Năm... Về chính trị có Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học, Lương Văn Can, Lương Ngọc Quyến... Những người Việt Nam kiệt xuất đó với tầm văn hóa và lòng tự hào dân tộc đang lặng lẽ chuẩn bị nền tảng tư tưởng, nền tảng văn hóa và cả nền tảng kinh tế, xã hội cho một xã hội mới và đang bền bỉ thức tỉnh nhân dân, tổ chức lực lượng chính trị cho cuộc đấu tranh với thực dân xâm lược Pháp giành độc lập dân tộc. Con đường đấu tranh bất bạo động bằng tư tưởng, văn hóa, kinh tế, theo con đường của M. Gandhi, theo triết lí phương Đông dựa vào lòng người “lấy chí nhân thắng bạo tàn”, không đẩy người dân tay không ra đối đầu với súng đạn thực dân, tiết kiệm xương máu cho dân là con đường lâu dài nhưng nền độc lập giành được bằng con đường đó là nền độc lập thực sự và bền vững, nền độc lập không bị phụ thuộc vào những thế lực chính trị bên ngoài.
Theo logic lịch sử, tiến trình đó đang lặng lẽ, bền bỉ và vững chắc diễn ra ở Việt Nam thì những người Cộng sản nôn nóng vội vã mang bạo lực cách mạng của học thuyết đấu tranh giai cấp sắt máu từ châu Âu xa lạ về Việt Nam, đưa nhân dân Việt Nam vào những cuộc cách mạng, chiến tranh ý thức hệ đẫm máu của thế giới, chia trận tuyến đấu tranh giai cấp, thanh toán địch – ta vào trong từng con người, trong từng gia đình, trong từng cơ quan, đơn vị, phân chia trận tuyến giai cấp, thanh toán địch – ta trong lòng dân tộc Việt Nam, đẩy nhân dân vào cuộc sát phạt, tiêu diệt, xung đột, giằng xé, đấu đá, bất ổn, li tán cả dân tộc suốt từ giữa thế kỉ hai mươi đến tận hôm nay vẫn chưa chấm dứt.
Sát phạt, xung đột, thanh toán, tiêu diệt, bất ổn, li tán để xóa bỏ Cái Tôi cá nhân vừa thức tỉnh trong trí thức, trong giới chủ, trong thanh niên, học sinh thành phố, để chỉ còn Cái Tôi quyền uy của hơn chục yếu nhân nắm vận mệnh đảng Cộng sản Việt Nam, quyết định số phận cả dân tộc Việt Nam.
Cái Tôi cá tính sáng tạo làm nên sức mạnh sư tử của con người trưởng thành không được chấp nhận, trí thức, nghệ sĩ, nhà khoa học cũng chỉ là bầy lạc đà bị quyền uy chăn dắt, phũ phàng đánh trận đòn “Nhân Văn Giai Phẩm” dằn mặt để không bao giờ còn dám nghĩ đến Cái Tôi cá tính sáng tạo, chỉ còn biết gọi dạ, bảo vâng, ăn theo, nói leo, ngợi ca chính trị, minh họa chính sách.
Không còn Cái Tôi cá tính sáng tạo, sau một đời miệt mài, hăm hở viết, nhà văn Nguyễn Minh Châu phải đau xót viết Lời ai điếu cho nền văn học minh họa, nền văn học được coi là có Tính Đảng vì làm vừa lòng những Cái Tôi quyền uy của những người nắm vận mệnh Đảng, vận mệnh dân tộc nhưng không có Cái Tôi của người viết, không có Cái Tôi của nhân vật, của nhân dân. Không có Cái Tôi nhân cách mang vóc dáng người viết, không có Cái Tôi chân thực của cuộc đời mang hồn cốt nhân dân trong tác phẩm thì tác phẩm chỉ là đồ giả, là mớ giấy lộn, đến khi nhận ra điều đau xót đó thì đã cuối đời, nhà văn chỉ còn kịp viết lời ai điếu cho những tác phẩm của chính mình!
Nhà văn Nguyễn Khải nhận ra Cái Tôi cá tính sáng tạo của ông bị giết chết với một thái độ bình tĩnh hơn nhưng day dứt, đau đớn hơn. Cuối đời ông cứ phải âm thầm, lặng lẽ, ngậm ngùi, thảng thốt, bơ vơ Đi tìm Cái Tôi đã mất, đi tìm Cái Tôi cá tính sáng tạo của nhà văn đã bị bức hại, đi tìm Cái Tôi nhân cách, Cái Tôi bản thể của con người trưởng thành đã bị giết chết để đến nỗi nhà văn chỉ còn là đứa trẻ con cho người ta sai bảo!
Một nhà báo ngang tàng của Đài Tiếng Nói Việt Nam, một thời thường xuyên có những bài viết nhiều tìm tòi, phát hiện về đồng bằng sông Cửu Long đăng trên những tờ báo lớn của đảng Cộng sản Việt Nam, báo Nhân Dân, báo Sài Gòn Giải Phóng. Chính nhà báo này từ năm 1992 là người đầu tiên gọi tên sự ứng xử với tự nhiên của người dân đồng bằng sông Cửu Long làChung sống với lũ. Từ đó Chung sống với lũ trở thành phương châm, trở thành chính sách Nhà nước ở đồng bằng sông Cưu Long. Nhìn lại chặng đường dài lặn lội viết báo cho Đảng, với những thực tế đau lòng của đời sống báo chí, nhà báo ngang tàng Lê Phú Khải cũng phải giận dữ, ai oán thét lên Lời ai điếu cho một nền báo chí nô bộc.
Nhà văn Trần Hoài Dương vốn điềm đạm, nói năng nhỏ nhẹ bỗng một hôm hốt hoảng kể với tôi về một giấc mơ làm anh toát mồ hôi: Đêm qua mình có giấc mơ khủng khiếp quá. Không hiểu sao mình lại mơ thấy cách mạng Tháng Tám thành công ngay sau cuộc nổi dậy của Xô Viết Nghệ Tĩnh, tháng chín năm 1930. Những người đàn bà yếm nâu váy đen, tay cầm liềm, những người đàn ông cởi trần da cháy nắng cầm giáo mác, gậy gộc đi dưới rừng cờ đỏ ầm ầm từ Nghệ Tĩnh kéo ra Hà Nội. Họ biến đường phố Hà Nội thành những dòng sông đỏ màu cờ và họ rùng rùng tiến về tụ lại ở Ba Đình nghe ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập. Mình giật mình toát mồ vì nhớ ra rằng năm 1930 đó chưa có Vỡ Đê, chưa có Giông Tố của Vũ Trọng Phụng, chưa cóVang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân, chưa có Nhớ Rừng của Thế Lữ, chưa có Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng, chưa có Bước Đường Cùng của Nguyễn Công Hoan, chưa có Sống Mòn, chưa có Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao... Mình hốt hoảng thức dậy, người ướt đầm mồ hôi và không ngủ lại được nữa. Thật hú vía! Nếu cách mạng Tháng Tám thành công từ năm 1930 thì chúng ta làm gì có Vũ Trọng Phụng, làm gì có Nguyễn Tuân, làm gì có Thế Lữ... Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng vẫn còn sống khá lâu dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa nhưng những tác phẩm để đời của họ, những tác phẩm thực sự văn chương, thực sự là niềm tự hào của văn chương Việt Nam đều được viết trước cách mạng, viết bằng Cái Tôi cá nhân của họ. Cái Tôi cá nhân của họ không thể tồn tại trong Chủ nghĩa xã hội thì họ chẳng còn gì!
Từ trước đến nay đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tự cho là có công lớn với dân tộc Việt Nam, có công đưa dân tộc Việt Nam từ nô lệ đến tự do, từ mất nước đến độc lập, từ nghèo hèn đến giầu sang. Nhưng dân tộc Việt Nam đã phải trả một giá quá đắt cho độc lập trong khi độc lập dân tộc là một xu thế tất yếu của lịch sử. Lịch sử không đi những lối bất ngờ như nhà thơ của đảng Cộng sản Việt Nam, Tố Hữu viết. Lịch sử bao giờ cũng có qui luật, có giai đoạn, có bước đi được lập trình tạo nên tiến trình, tạo nên xu thế lịch sử.
Lịch sử loài người đi từ hoang dã đến văn minh. Chủ nghĩa tư bản cũng phải đi từ hoang dã đến văn minh cùng nhịp với nền công nghiệp đi từ thô sơ, cần nhiều sức người, đó là thời chủ nghĩa tư bản hoang dã bóc lột sức người, đến nền công nghiệp hiện đại không cần nhiều sức người nữa mà cần nhiều tri thức, cần nhiều kĩ năng. Lợi nhuận không tạo ra từ sức người nữa mà tạo ra từ khoa học kĩ thuật. Đầu tư vào khoa học kĩ thuật, những người chủ của xã hội công nghiệp văn minh cũng đầu tư vào phát triển xã hội, đầu tư nâng cao giá trị nhân văn của xã hội loài người. Chế độ nô lệ dưới mọi hình thức đều không được xã hội công nghiệp văn minh chấp nhận. Đó là thời chủ nghĩa tư bản văn minh cũng là kỉ nguyên độc lập dân tộc.
Những người Cộng sản đã đưa dân tộc Việt Nam đi qua chặng đường máu lửa thảm khốc và xa ngái mới đến nền độc lập mong manh. Những ngày này giặc phương Bắc ngang nhiên lấn đất, lấn biển của ta, áp đặt mọi tai ương cho dân tộc ta. Từ khi hấp tấp, hốt hoảng sang Thành Đô gặp lãnh đạo phương Bắc, tháng chín năm 1990, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam phải liên tiếp nhượng bộ hết đòi hỏi này đến đòi hỏi khác của phương Bắc. Nhưng càng nhượng bộ, họ càng lấn tới, lại càng thấy nền độc lập của ta có được từ sông máu biển lửa là vô cùng mong manh. Nền độc lập mong manh phải đổi bằng giá đắt như vậy nhưng có độc lập thì người dân lại mất tự do cá nhân, mất Cái Tôi cá nhân thiêng liêng và quí giá của kiếp người thì đó là công hay tội nhỉ?
Thời đầu đổi mới, cuối những năm tám mươi, thế kỉ hai mươi, đảng Cộng sản Việt Nam nêu khẩu hiệu Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật nhưng chưa bao giờ những người Cộng sản Việt Nam đủ lòng trung thực để nhìn vào sự thật. Đảng luôn tự cho mình là sáng suốt, vĩ đại, quang vinh thì không thể tiếp cận sự thật. Nhân dân bền bỉ hi sinh dựng nước và giữ nước để có nước Việt Nam hôm nay không bao giờ được Đảng nhắc đến bằng một khẩu hiệu khiêm nhường. Tổ quốc thiêng liêng cũng bị lãng quên. Từ khi đảng thâu tóm đất nước trong tay, đất nước gấm vóc, nhân dân cần cù sáng tạo nhưng xã hội Việt Nam càng ngày càng tụt lại sau so với các nước vậy mà từ đỉnh Lũng Cú, Hà Giang đến chót mũi Năm Căn, Cà Mau, nơi nào cũng thấy hàng chữ cao ngạo Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm! Muôn năm cả cái Xã hội chủ nghĩa hư vô, không có thật. Chủ nghĩa xã hội không có thật đã gây bao đau khổ và nhiều nợ máu với nhân dân mà vẫn muôn năm: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm! Còn nhân dân hết đời này đến đời khác lấy máu viết lên chữ Việt Nam thì Đảng không cần biết tới, thì chỉ là hư vô!
Với người còn tư duy bình thường, còn phân biệt được cái riêng, cái chung, cái tầm thường, cái cao cả thì phải hiểu Tổ quốc là giá trị tinh thần thiêng liêng, cao cả, bất biến, vĩnh hằng của cả dân tộc. Đảng chỉ là tổ chức chính trị bình thường, biến động và nhất thời của riêng một số người, là vô cùng nhỏ bé so với nhân dân, dân tộc, Tổ quốc. Một Đảng phải tồn tại bằng bạo lực, phải lấy tiền thuế của dân nuôi một bộ máy công an khổng lồ chỉ biết còn đảng còn mình để trấn áp tiếng nói tự do dân chủ của dân để duy trì sự tồn tại của Đảng, một Đảng đạp vào mặt dân và bỏ tù trí thức chỉ vì trí thức nói sự thật thì Đảng đó không còn bình thường nữa mà đã là tầm thường rồi. Đưa lá cờ của Đảng dù đang cầm quyền nhưng cũng chỉ là tổ chức chính trị nhất thời, nhỏ bé, tầm thường của riêng một số người lên ngang hàng lá cờ Tổ quốc thiêng liêng của cả dân tộc là sự cao ngạo đến mức không còn biết đến chữ Lễ, chữ Nhân.
Cao ngạo như vậy làm sao thấy được sự thật! Cao ngạo như vậy làm sao đến được với những lo toan, vất vả, khổ đau của dân! Cao ngạo như vậy nên ai thẳng thắn nói điều trái ý Đảng, đụng đến cái sai, cái yếu của Đảng, của Nhà nước, đều bị Đảng khép vào tội tuyên truyền chống Nhà nước của Đảng, đều bị Đảng trừng trị khắc nghiệt. Nhưng ngục tù chỉ có thể giam cầm được thân xác Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Hoàng Cầm, Tuân Nguyễn, Hoàng Minh Chính, Hà Sĩ Phu, Phạm Quế Dương, Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Hải, Cù Huy Hà Vũ, Tạ Phong Tần, Bùi Minh Hằng.., không giam cầm được tư tưởng của họ. Bạo lực chuyên chính vô sản chỉ có thể bịt miệng được người dân, không bịt miệng được lịch sử. Trước sau lịch sử Việt Nam cũng phải ghi những trang đau buồn rằng đảng Cộng sản Việt Nam đã kéo lùi lịch sử phát triển dân tộc, đã biến cả dân tộc Việt Nam thành bầy đàn nô lệ của Đảng, đã biến dân tộc Việt Nam văn hiến, tồn tại bằng đùm bọc thương yêu thành dân tộc li tán, hận thù, bạo lực! Và những người Việt Nam có Cái Tôi bị chà đạp, bị giết chết tức tưởi là những chứng nhân hùng hồn xác nhận điều đó.

BI KICH CỘNG SẢN – BI KỊCH VIỆT NAM

Chế độ xã hội này chỉ có thể thay thế chế độ xã hội khác bằng tạo ra được năng suất lao động cao hơn. Giai cấp này thay thế giai cấp khác thống trị xã hội phải là giai cấp nhân văn hơn, tiến bộ hơn, văn minh hơn, phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử, thúc đẩy xã hội phát triển nhanh hơn.
Xã hội tư bản tạo ra năng suất lao động cao hơn hẳn xã hội phong kiến. Giai cấp tư sản được kỉ nguyên Ánh sáng nâng tầm trí tuệ. Với tư tưởng giải phóng cá nhân, quyền con người, quyền công dân trở thành tuyên ngôn của giai cấp tư sản, trở thành luật pháp của Nhà nước tư sản. Giai cấp tư sản làm chủ xã hội, cá nhân được nhìn nhận, năng lực sáng tạo của cá nhân được giải phóng đã đưa xã hội loài người vào thời kì phát triển kì diệu, đưa con người vào kỉ nguyên vũ trụ, đưa xã hội loài người vào nền văn minh tin học. Cho đến nay sự phát triển kì diệu vẫn đang tiếp diễn. Cho đến nay giai cấp tư sản giầu có của cải, giầu có trí tuệ vẫn là giai cấp tiên tiến nhất, vẫn phải nhận sứ mệnh lịch sử là giai cấp lãnh đạo xã hội. Giải phóng năng lực sáng tạo của cá nhân tạo nên sự phát triển kì diệu của xã hội, thực tế đó đã khẳng định rằng trí tuệ con người được giải phóng, năng lực sáng tạo của cá nhân được giải phóng chính là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Coi đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển đó là điểm xuất phát, là nền tảng tư tưởng sai lầm của học thuyết Marx. Sai lầm gọi sai lầm. Sai lầm tư tưởng cũng gây ra sai lầm dây chuyền domino. Lí luận chủ nghĩa Marx xây dựng trên nền tảng tư tưởng sai lầm, cực đoan đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển đã đưa xã hội loài người vào cuộc đấu tranh bạo liệt bất tận tranh giành quyền lợi, tranh giành miếng ăn, tranh giành không gian sinh tồn như xã hội loài vật. Đưa giai cấp không phải là giai cấp tiên tiến, giai cấp vô sản, một giai cấp không có của cải, không có tri thức và chính Marx phải thú nhận giai cấp vô sản chỉ có xiềng xích, làm cách mạng lật đổ giai cấp tư sản là giai cấp khi vừa làm cách mạng thắng lợi lật đổ giai cấp phong kiến trì trệ, không có cá nhân, đã công bố ngay Tuyên ngôn Nhân quyền xác nhận Quyền Con Người cho mọi người dân và xây dựng luật pháp bảo đảm Quyền Con Người cho mọi công dân trong đó có những người vô sản làm thuê.
Làm cách mạng lật đổ giai cấp tư sản, giai cấp vô sản chỉ mất xiềng xích mà được cả thế giới. Được cả thế giới rồi đảng Cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản lại đưa nhân dân dưới sự cai trị của họ trở về bầy đàn. Học thuyết đấu tranh giai cấp trao cho đảng Cộng sản, thực chất là trao cho nhóm người nắm quyền lực trong Đảng độc quyền quản lí xã hội, độc đoán xóa bỏ cá nhân, tước đoạt Cái Tôi cá thể của người dân. Xã hội Cộng sản thời công nghiệp có đủ tiện nghi hiện đại, rực rỡ ánh sáng nhưng con người không còn Cái Tôi thiêng liêng, thân phận lại trở về thời trung cố tăm tối. Đó là bi kịch Cộng sản!
Đưa giai cấp không phải là tiên tiến, giai cấp nghèo khổ, làm thuê, chưa có cá nhân, chưa làm chủ được chính cuộc đời mình lên làm chủ xã hội, lên thống trị xã hội, bi kịch Cộng sản đó diễn ra ở nước ta là: Khi đảng Cộng sản lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Việt Nam chỉ có mấy mỏ than đang khai thác chủ yếu bằng sức người, mấy cơ sở công nghiệp phục vụ sinh hoạt như nhà máy điện, nhà máy nước, nhà máy dệt, vài xưởng cơ khí sửa chữa nhỏ, chưa có hình hài của nền sản xuất công nghiệp, chưa có đội ngũ công nhân công nghiệp đủ để trở thành lực lượng xã hội, giai cấp vô sản Việt Nam chỉ là những người nông dân cùng khổ không nuôi nổi bản thân phải giao thân cho chủ đất. Cách mạng vô sản đã đưa những người nông dân cùng khổ, chưa có cá nhân, không nuôi nổi bản thân, phải giao thân cho chủ đất, lên làm chủ xã hội, lo toan nuôi cả xã hội, tổ chức hoạt động cho cả xã hội.
Ở vị trí làm chủ xã hội, những người nông dân cùng khổ dồn về thủ đô, ngồi vào vị trí của những tài năng, tinh hoa, trí tuệ của đất nước. Lập tức có ngay một hiệu ứng xã hội: Cả thủ đô nói ngọng! Chỉ những tiếng nói ngọng nghịu ở thủ đô đã cho thấy đất nước bị xuống cấp đến mức nào. Xuống cấp từ nền tảng văn hóa, cái thế, cái tầm của đất nước xuống thấp, cái cao cả không còn nữa, cái thấp hèn tràn ngập.
Nền tảng văn hóa thấp đó lại bị ý thức hệ giai cấp thống trị, triệt tiêu ý thức dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam đã tự đặt mình vào vị thế lệ thuộc vào phương Bắc, lệ thuộc ý thức hệ giai cấp, phải kí hết hiệp định này đến hiệp định khác, những hiệp định bất bình đẳng, thua thiệt với phương Bắc, tạo điều kiện cho Phương Bắc xâm nhập sâu rộng vào đời sống xã hội Việt Nam, gây bất ổn xã hội, cái họa Bắc thuộc hiển hiện trước mắt. Đất đai biển trời thiêng liêng của dân tộc Việt Nam bỗng thành của riêng của giai cấp vô sản Việt Nam để giai cấp vô sản Việt Nam vô tư cắt nhượng cho giai cấp vô sản phương Bắc. Đã là của riêng của giai cấp vô sản thì việc cắt nhượng đất đai chỉ là việc riêng của đảng Cộng sản, việc riêng của Nhà nước Cộng sản, nhân dân không được biết, đến Quốc hội cũng không được biết! Nhưng cắt nhượng cho phương Bắc nửa thác Bản Giốc hùng vĩ ở Cao Bằng, cắt nhượng cho phương Bắc cả tòa thành cổng nước cổ kính ở Lạng Sơn đã in bóng sừng sững trong lịch sử Việt Nam thì không thể lén lút giấu dân được mãi. Sự thật mất đất đai của tổ tiên phơi bày ra rồi, nhân dân chỉ còn biết nghẹn ngào, đau xót, khóc cho cơ thể Tổ quốc Việt Nam bị cắt xẻo ứa máu, khóc cho lịch sử Việt Nam phải ghi lại những năm tháng tủi nhục!
Làm ăn kinh tế thua lỗ. Các tập đoàn kinh tế Nhà nước độc quyền khai thác tài nguyên đất nước, thoải mái sử dụng đồng tiền thuế của dân, say sưa mở rộng đầu tư vô tội vạ, tự trả lương cho mình cao chót vót rồi thất thanh kêu lỗ, nằng nặc đòi tăng giá sản phẩm, dồn gánh nặng thua lỗ lên đôi vai gầy guộc của người dân nghèo khốn khổ! Những tập đoàn kinh tế chủ lực của đất nước cứ thua lỗ dài dài như vậy, bao giờ người dân mới thoát kiếp nghèo? Chỉ một tập đoàn công nghiệp tầu thủy Vinashin, những người quản lí kinh tế đất nước chi tiêu vung vãi, làm thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng tiền thuế mồ hôi xương máu của dân!
Nền tảng văn hóa thấp không thể tiếp cận tư tưởng Ánh sáng : Tự do – Bình đẳng – Bác ái, không biết đến Quyền Con Người của người dân, những người nông dân có quyền lực trong tay lập tức hiện hình lên là những ông quan đục khoét dân, bức hại dân thời phong kiến suy tàn. Phép vua thua lệ làng, quan lại địa phương Tiên Lãng tự tạo ra luật huyện, luật xã nhẫn tâm cướp đất, cướp mồ hôi, xương máu của dân. Cướp bằng trát không được thì nhân danh Nhà nước, nhân danh công vụ dùng sức mạnh bạo lực Nhà nước vốn chỉ để trấn áp tội phạm và giặc cướp nước ra trấn áp dân lương thiện.
Lí tưởng xã hội sụp đổ thì chỉ còn biết dựa vào bạo lực và nền tảng văn hóa thấp thường lạm dụng bạo lực. Bạo lực được sử dụng tràn lan với dân. Bạo lực không phải chỉ là dùng sức mạnh công an đàn áp, bắt bớ dân khi dân ôn hòa bộc lộ chính kiến khác biệt với Nhà nước vô sản về những vấn đề của đất nước. Bạo lực không phải chỉ là huy động lực lượng đông đảo công an, quân đội, chó nghiệp vụ hùng hổ thực hiện những cuộc cưỡng chế, giải tỏa thất đức. Bạo lực không phải chỉ là công an hung hãn đánh dân ngay trên đường phố, đánh chết dân trong trại giam. Bạo lực còn là những phiên tòa bịt miệng luật sư, những phiên tòa vắng bóng công lí và những bản án nghiệt ngã dành cho người dân có chính kiến khác biệt với Nhà nước vô sản.
Nhà nước ứng xử với dân bằng bạo lực là bằng chứng rõ nhất về một nền chính trị suy vi, không còn lí tưởng, không còn chính danh, là biểu hiện của một thời bất ổn, thời bạo lực lên ngôi, thời Nhà nước phải xây nhiều nhà tù công khai và nhiều nhà tù trá hình như cơ sở giáo dục đang giam cầm chị Bùi Minh Hằng. Còn ngoài xã hội những vụ giết người man rợ xảy ra khắp nơi! Mạng sống của dân lành quá rẻ rúng, máu dân lành đang lênh láng bởi bạo lực Nhà nước và bạo lực côn đồ!
Những người nông dân cùng khổ chưa có cá nhân nay làm chủ xã hội thì họ không biết đến cá nhân của con người trong xã hội, họ không đếm xỉa đến Quyền Con Người cũng là tất yếu. Người dân sử dụng Quyền Tự do Ngôn luận liền bị Nhà nước không đếm xỉa đến Quyền Con Người bỏ tù. Người dân sử dụng Quyền Biểu Tình liền bị Nhà nước không đếm xỉa đến Quyền Con Người đàn áp, bị công an đạp vào mặt, bị bắt giam, bị đánh đập.
Những người nông dân cùng khổ trước đây nuôi bản thân không nổi, sau mấy chục năm ở vị trí làm chủ xã hội, nay đã nhà cao cửa rộng và để tiêu chuẩn hóa, để tương xứng với vị trí làm chủ xã hội, họ đã có đủ bằng cấp, học hàm, học vị cao sang. Nền tảng văn hóa của một con người cũng như sự màu mỡ của một cánh đồng. Phải có dòng sông phù sa qua nhiều đời bồi đắp mới làm nên cánh đồng màu mỡ. Phải có thói quen, nề nếp tư duy, lao động trí não như một dòng chảy tự nhiên, bền bỉ tích lũy qua nhiều thế hệ mới làm nên nền tảng văn hóa. Hình thái lao động cũng có sự phân công tự nhiên. Có người có sự khéo léo, tài hoa nghệ sĩ. Có người có sức mạnh của đôi tay. Có người có sức mạnh của trí tuệ. Học để có văn hóa phổ thông, biết đọc biết viết tiếng mẹ đẻ thì ai cũng học được. Còn học để biến kiến thức của loài người thành kiến thức của riêng mình, để hình thành con người văn hóa, nhân cách văn hóa của mình thì không phải ai cũng học được. Không phải ai cũng học được nhưng ai cũng có thể mua được, chạy được, tìm cách để có được tấm bằng của sự học. Nhìn cách hành xử của những quan chức ở Vinashin, quan chức ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, không hề thấy con người văn hóa, nhân cách văn hóa mà vẫn chỉ thấy nguyên xi con người nông dân ngày nào nghèo khổ không nuôi nổi bản thân nay họ có quyền lực trong tay, có tiền bạc, tài sản của nhân dân trong tay, họ hối hả tìm mọi cách biến của dân thành của riêng họ.
Một trí thức yêu nước của giai cấp tư sản giàu có của cải, giầu có trí tuệ đi với cách mạng vô sản trong chiến tranh giải phóng dân tộc khi rời chức vụ về hưu ông đã trả lại ngôi nhà nguy nga được cấp giữa thủ đô cho Nhà nước, trở về ngôi nhà của gia đình có từ trước cách mạng. Đó là hành xử của trí thức tư sản, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Còn quan chức vô sản bao đời không nuôi nổi bản thân nay có chức vụ liền dùng chức vụ để thỏa mãn những thèm khát từ bao kiếp người. Quan chức nào cũng vội vã xây lâu đài nguy nga. Chính những lâu đài nguy nga đó đã dựng lên chân dung văn hóa nghèo nàn thảm hại của họ. Cả ông phó ban Biên giới bộ Ngoại giao khi nói rằng tàu Trung Hoa vào sâu trong vùng biển của ta cắt cáp tàu của ta, phá việc khai thác dầu khí của ta cũng chỉ như người cha yêu thương con, yêu cho roi cho vot, yêu thì phải dạy bảo, ở ông quan cấp cao bộ Ngoại giao đó cũng không hề thấy con người văn hóa, nhân cách văn hóa!
Những người nông dân nghèo khổ, chưa có cá nhân, không nuôi nổi bản thân, nhờ có cách mạng vô sản họ mới trở thành Tổng giám đốc này, Chủ tịch nọ, phó Ban kia. Cách mạng vô sản là họ. Đảng vô sản cũng chính là họ. Và họ sẽ bảo vệ Đảng đến cùng. Đảng Cộng sản là của những con người như vậy.
Đảng Cộng sản Việt Nam còn độc quyền thống trị xã hội Việt Nam thì bi kịch Cộng sản vẫn còn đeo đẳng với dân tộc Việt Nam, dân tộc Việt Nam còn bị tha hóa, đánh mất mình, đánh mất cả nền văn hiến, đánh mất cả tình thương yêu đùm bọc dân tộc, chỉ còn bạo lực, li tán và hận thù dân tộc!
3.2.2012. Ngày ĐCSVN tròn 82 tuổi.

Hôm qua chó nhà tang, hôm nay chó gác cửa: Bàn về cơn sốt Khổng Tử hiện nay

Tháng 11 22, 2012


Lưu Hiểu Ba
Phan Trinh dịch
Lời giới thiệu của người dịch
1. “Chó nhà tang” và “chó gác cửa” ở đây chỉ Khổng Tử. Đề tài này có thể hơi nhạy cảm với ít nhiều trí thức Việt Nam, vì nó đưa ra một cái nhìn hơi lạ về một người quen, và có lẽ cũng vì trong Văn Miếu Quốc Tử Giám hiện nay vẫn có bệ thờ Khổng Tử.
Thoạt đọc, bài này có vẻ như muốn ‘hạ bệ’ Khổng Tử, nhưng đọc kỹ, người đọc sẽ thấy Lưu Hiểu Ba muốn tìm lại sự thật cho Khổng Tử, và thấy Khổng Tử cũng như nhiều trí thức xưa nay lúc thì bị ruồng rẫy, khi thì được ‘phong thánh’, được gán cho nhiều điều mình không có, và trở thành bao tay nhung che cho bàn tay sắt.
2. Tên của Khổng Tử và Lưu Hiểu Ba trong vài năm qua nhiều lần được nhắc chung. Lưu Hiểu Ba viết bài này về Khổng Tử ngày 18/8/2007. Năm 2010, nhà cầm quyền Trung Quốc vội vã thành lập Giải Khổng Tử để đối trọng với Giải Nobel Hòa Bình vừa được trao cho Lưu Hiểu Ba, vì nỗ lực đấu tranh cho nhân quyền của ông. Cũng nên nhắc lại là vào Lễ Noel 25/12/2009, Lưu Hiểu Ba bị Bắc Kinh kết án 11 năm tù vì tội tuyên truyền chống nhà nước, còn Giải Khổng Tử năm 2011 thì được trao cho Vladimir Putin, lãnh tụ Nga có khuynh hướng độc tài*.
3. Cơn sốt Khổng Tử mà Lưu nói tới vẫn kéo dài đến nay. Viện Khổng Tử (gần như Viện Goethe, Hội Đồng Anh…) công cụ của quyền lực mềm trong tay nhà cầm quyền Trung Quốc, mở cơ sở đầu tiên năm 2004, đến nay đã có hơn 320 Học viện được thành lập trên thế giới, trong đó 1/5 là ở Mỹ **.
4. Đọc bài này, rất có thể người đọc sẽ nêu câu hỏi: Liệu có điểm gì giống nhau giữa Viện Khổng Tử và Viện Trần Nhân Tông, Giải Khổng Tử và Giải Trần Nhân Tông được nhắc tới gần đây với ít nhiều nghi ngại hay không.
5. Bản dịch này dựa trên bản tiếng Anh, có tham khảo bản tiếng Trung. Bản tiếng Anh có tựa “Yesterday’s Stray Dog Becomes Today’s Guard Dog” (Chó hoang hôm qua nay thành chó giữ nhà) do Thomas E. Moran dịch, in trong cuốn No Enemies, No Hatred (Không thù, không ghét) tuyển tập luận văn và thơ Lưu Hiểu Ba, do Perry Link, Tienchi Martin-Liao và Lưu Hà biên tập, xuất bản năm 2012 tại Anh Quốc. Bản tiếng Trung có tựa “昨日丧家狗 今日看门狗视当下中国的孔子”” (Tạc nhật táng gia cẩu, kim nhật khán môn cẩu, thấu thị đương hạ Trung Quốc đích “Khổng Tử nhiệt”), xuất bản lần đầu trên vào ngày 2/9/2007 trên boxun.com.
P.T.
________________
Người Trung Quốc hiện rất phấn khích vì nước nhà đang trỗi dậy như một cường quốc. Nhờ kinh tế trỗi dậy nên văn hóa cũng trỗi dậy, nhờ tung tiền khắp nơi nên “quyền lực mềm” cũng được xuất khẩu ra thế giới. Trong nước, người người đua nhau chạy theo cơn sốt đọc cổ văn, cơn sốt thờ Khổng, cơn sốt theo đạo Nho. Chương trình Bách gia Giảng đường của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) cũng khởi xướng cơn sốt đọc lại Luận ngữ nhằm phục hồi đạo đức truyền thống. Trong khi đó ở ngoài nước, Trung Quốc đầu tư lớn để mở hàng loạt các “Viện Khổng Tử” nhằm lan tỏa quyền lực mềm. Giấc mơ bá chủ thiên hạ của Trung Quốc bị dồn nén hơn thế kỷ nay lại có cơ tái xuất giang hồ. Đức Khổng Tử ở trong và ngoài nước bỗng kết thành một trận tuyến liên hoàn. Cơn sốt Khổng Tử quả là càng lúc càng nóng.
Nhưng, đàng sau cơn phấn khích của đám đông kia, tôi cho rằng không phải là ước muốn khôi phục nền đạo đức cũ, mà là toan tính phục hồi truyền thống sùng bái thánh Khổng, một phần không thể thiếu trong kế hoạch của nhà nước nhằm đẩy mạnh chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Những năm sau biến cố Thiên An Môn [1989], nhà nước một mặt chống lại các nỗ lực đòi hỏi tự do, chống “diễn biến hòa bình”, một mặt lại thổi bùng tình cảm “yêu nước” cực đoan. Chủ nghĩa yêu nước cực đoan này, rường cột cho ý thức hệ mới của nhà cầm quyền Trung Quốc, kết hợp với chiến dịch quảng bá cho cái mà Đảng Cộng sản Trung Quốc gọi là “Thời hoàng kim thịnh vượng” đã làm làn sóng dân tộc chủ nghĩa dâng cao vô tội vạ. Không gì rõ hơn những dòng này ở cuối “Tế văn Vinh danh Khổng Tử, nhân Liên hoan Văn hóa Khổng Tử Quốc tế 2005, tại Khúc Phụ, Trung Quốc”. Tế văn viết những lời có cánh như sau: “Thời hoàng kim vừa đến, nuôi giấc mơ đại đồng; Mừng gặp thời thịnh vượng, và cường quốc vinh quang”. Thật là một bản song tấu rổn rảng điển hình khi chủ nghĩa dân tộc hòa vào ‘Phúc âm’ của “Thời hoàng kim”.
Trong một năm qua, việc cổ xúy văn hóa truyền thống trên chương trình Bách gia Giảng đường của CCTV đã góp phần biến Khổng Tử thành một món hàng thời thượng, hoặc mượn lời của Lỗ Tấn, thành “‘Mô-đen’ Khổng Tử”. (Điều tương tự từng rộ lên cách đây vài năm khi Mao Trạch Đông cũng trở thành một thứ “mốt”.) Hiện sách vở đủ loại về Khổng Tử đang hốt bạc cho các nhà xuất bản, các lớp quốc học và cổ văn cũng mang lại món lợi lớn. Ban Quốc học Đại học Thanh Hoa tính học phí mỗi người 26.000 nhân dân tệ, Đại học Phục Đán lấy mỗi người 38.000 nhân dân tệ, và khóa học cổ văn ngoài giờ cho trẻ em cũng có học phí cao ngất ngưởng.
Chương trình nói trên của CCTV cũng làm tên tuổi Vu Đan trở thành hiện tượng được cả nước biết. Vu Đan rao bán, thay vì rao giảng Khổng Tử bằng một giọng điệu khéo léo, kết hợp những câu chuyện cao đạo về người xưa với những kiến giải có độ sâu sắc chỉ ngang với ca từ nhạc sến. Những suy luận võ đoán, những lý giải nông cạn thường trực của bà về Khổng Tử có tác dụng như một thứ ma túy tinh thần giữa cơn sốt phục hưng đạo Khổng trong văn hóa đại chúng. Cuốn Luận ngữ tâm đắc của Vu Đan mang một thông điệp dễ dãi. Theo giải thích của Vu Đan thì Khổng Tử dạy rằng ai ai cũng có thể sống thoải mái với tâm thế thực dụng, dù gặp gì đi nữa cũng đừng phàn nàn, nếu biết thuận theo hoàn cảnh thì sẽ thích ứng dễ dàng và sống đời hạnh phúc.
Trong khi cơn sốt đọc Khổng Tử do Vu Đan khởi xướng đang ăn khách, thì giáo sư Đại học Bắc Kinh, Lý Linh, xuất bản cuốn sách có tên Chó nhà tang – Tôi đọc Luận ngữ [1]. Bằng nghiên cứu của riêng mình, giáo sư Lý đã trục xuất những điều vớ vẩn được nói về Khổng Tử và trả ông về với hình ảnh nguyên thủy. Giáo sư Lý viết trong lời mở đầu:
“Sách của tôi là thành quả những ý tưởng của riêng tôi về Khổng Tử. Tôi không lặp lại những gì người khác đã nói. Tôi cũng không quan tâm tới những gì Mạnh Tử, Vương An Thạch [2], hoặc bất cứ học giả lớn nhỏ nào đã từng nói về Khổng Tử. Nếu điều gì không có trong văn bản gốc, thì tôi sẽ gạt qua một bên… Nếu muốn biết đích thân Khổng Tử nghĩ gì, hãy tìm đọc văn bản gốc… Tôi không viết để dự phần vào cuộc tranh cãi của các trí thức, cũng không viết để thỏa mãn thị hiếu của đa số.”
Và giáo sư Lý kết luận:
“Sau khi đọc Luận ngữ, tôi thấy tốt nhất không nên đặt Khổng Tử lên bệ thờ, cũng không nên dìm ông xuống bùn, mà chỉ nên nói rằng ông rất giống Don Quixote.”
Qua việc phản đối nạn sùng bái thần thánh và khát khao truy tìm sự thật với thái độ không mị dân, giáo sư Lý đã góp phần đả phá truyền thống thần thánh hóa Khổng Tử đã kéo dài suốt hơn 2000 năm nay. Ông viết:
“Trong cuốn sách này, tôi muốn giải thích cho độc giả rằng Khổng Tử thực ra không phải là một vị thánh. Vị Khổng Tử mà các hoàng đế tôn sùng từ triều đại này qua triều đại khác không phải là Khổng Tử thật, mà là một Khổng Tử “nhân tạo”. Khổng Tử thật không phải là thánh, cũng chẳng phải vua, cũng không là “nội thánh ngoại vương” [trong thánh, ngoài vua] gì cả… Khổng Tử chỉ là người, một người xuất thân bình dân, luôn tin rằng kẻ sĩ cổ đại (những “quân tử” đúng nghĩa) đã định ra chuẩn mực mà mọi người nên noi theo để đối nhân xử thế; một người yêu chuộng những gì cổ xưa, học hành chăm chỉ, không nản chí; một người thầy tận tụy, không mệt mỏi truyền đạt văn hóa người xưa và khích lệ học trò học tập kinh sách cũ; một người không có chức, cũng không có quyền – chỉ có học vấn về đạo đức – nhưng dám can ngăn kẻ cầm quyền; một người đi tứ xứ du thuyết, lao tâm thay cho kẻ cai trị, liều mình khuyến dụ người cải tà quy chính; một người nhiệt tình, ước mơ khôi phục đường lối nhà Chu để thiên hạ thái bình; một người luôn bị giằng xé, hoang mang, nay đây mai đó, giống hành trạng của một con chó vô chủ, lang bạt, không có nhà để về. Đó là Khổng Tử thật.”
Trong cách nghiên cứu và lý giải Luận ngữ của mình, rõ ràng giáo sư Lý đã bỏ rất xa Vu Đan nông cạn và bất cẩn. Quan trọng hơn, ông đồng cảm được với Khổng Tử, người trí thức hơn 2000 năm trước. Ông cho biết chính Khổng Tử cũng tự nhận mình là con chó nhà tang mất chủ ngơ ngáo. Ông viết:
“Khổng Tử tuyệt vọng với quê hương mình, cùng các môn sinh ông đi khắp nơi, làm việc với chư hầu, nhưng cũng chẳng được gì. Cuối đời ông trở về quê hương, sống những năm cuối đời với tâm trạng buồn bã. Trước khi ông qua đời, con trai và hai học trò yêu của ông, Nhan Hồi và Tử Lộ (Trọng Do) cũng mất, ông khóc thương họ cạn nước mắt. Tuy ông mất trong nhà mình, nhưng cũng có thể nói ông không hề có nhà. Những giáo huấn của ông có thể đúng hoặc sai, nhưng dù đúng hay sai, đời ông cũng phản ánh số phận của người trí thức Trung Quốc tiêu biểu.”
Việc giáo sư Lý Linh đưa ra lời bình luận về con chó mất chủ giữa lúc cơn sốt Khổng Tử và văn hóa truyền thống đang lên cao trào, giống như ném một tảng đá to xuống nước: Nó tạo nên những làn sóng phản đối dữ dội từ những tín đồ mới của đạo Khổng. Giáo sư Lý bị đả kích cay độc, bị nguyền rủa, những kẻ bị xúc phạm đã biến bức xúc của mình thành giận dữ. Giáo sư Lý bị tố là phao tin đồn nhảm, và là một “phẫn thanh” [đọc trại sẽ thành 'thằng ăn cứt"], những người chưa đọc sách của giáo sư Lý tự cho mình cái quyền gọi nó là “rác rưởi”. Tất cả những eo xèo này chỉ vì ông dám gọi Khổng Tử là chó nhà tang vô chủ. Điều đó cho thấy lòng sùng kính Khổng Tử của những nhà Nho mới đưa đã đưa Thánh Khổng lên vị trí bất khả xâm phạm, không ai được đụng tới. May mắn là số nhà Nho mới này không có quyền lực chính trị là bao. Nếu có quyền lực, chúng ta chắc đã phải trở về thời đại mà (như Lâm Bưu nói về Mao Trạch Đông) “mỗi lời của ngài đều là chân lý, mỗi chữ của ngài quý hơn ngàn vạn chữ của kẻ khác.”
Giáo sư Lý Linh là một nhà nghiên cứu lịch sử nghiêm túc. Ông viết: “Tôi xem Luận ngữ là một chủ đề nghiên cứu lịch sử, chứ không phải sách thánh.” Khi ông gọi Khổng Tử là chó nhà tang, ông nhắc ta nhớ rằng ở Trung Quốc thời Xuân Thu (770-476 trước CN) tầng lớp trí thức đã phải sống trong bất an, cả trong sợ hãi, tài năng của họ thường không được trọng dụng, và trong hoàn cảnh đó, một “kẻ có lý tưởng nhưng không tìm được quê hương tinh thần của mình” thì chẳng khác gì con chó nhà tang mất chủ ngơ ngáo. Nhưng, theo tôi, giáo sư Lý nói rằng Khổng Tử thiếu “quê hương tinh thần” là đã cho ông hơi nhiều điểm. Sự thật là ông đi khắp đó đây không phải để tìm quê hương tinh thần của mình, mà là tìm một chỗ để làm quan. Mục tiêu lớn của ông là trở thành quân sư, nhưng ông đã thất bại. Ông là con chó nhà tang không chủ, nhưng nếu được kẻ cầm quyền nào tin dùng, thì chú chó không chủ kia đã trở thành chó gác cửa.
Cũng nên biết là giáo sư Lý Linh không phải người đầu tiên gọi Khổng Tử là chó nhà tang. Người xưa đã từng đánh giá ông như thế. Truyện Khổng Tử trong cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên (145?-86 trước CN) viết rằng, vào năm 40 tuổi, khi không đạt được gì, Khổng Tử đã than rằng “Ta cùng đường rồi!” và rằng “Chẳng chỗ nào trong thiên hạ dung được ta!” Cũng theo Sử ký, dân chúng thời Khổng Tử đã tả rằng nhìn ông “băn khoăn lo lắng như con chó ở nhà có tang”. Khi đệ tử kể lại cho Khổng Tử nghe lời nhận xét này về mình, ông đã bảo rằng nói như thế là đúng làm sao, đúng làm sao![4] Ngày nay, những kẻ “bảo vệ Đạo lý đích thực” thì cho rằng những lời nói kia của Khổng Tử là những lời tinh tế có ý nghĩa lớn lao về thuật trị quốc và dạy người. Họ bảo Lý Linh gọi Khổng Tử là chó nhà tang như vậy là phạm thượng, phản bội, vô đạo và cuốn sách đó chỉ đáng vứt vào sọt rác. Có bạn ‘phẫn Nho’ còn cho rằng giáo sư Lý “mắc bệnh thần kinh!”
Người tôn thờ Khổng Tử có thể nguyền rủa sách của giáo sư Lý đủ kiểu, nhưng thực ra những gì ông viết về Khổng Tử, nhất là trong lời mở đầu rất thẳng thắn và thu hút, đã vượt xa những gì mà Tương Khánh và những “nhà tư tưởng mới” về Khổng Tử rêu rao. Rất nhiều học giả nổi tiếng đã đánh giá cao cuốn Chó nhà tang của giáo sư Lý.
Trong bài viết có tên “Tính khả thi của Nhân, Nghĩa – Điểm sách Chó nhà tang của Lý Linh”, sử gia Ngô Tư viết: “Giáo sư Lý đã làm rất tốt. Các dự án văn hóa sau này cũng phải được xây dựng trên những văn bản gốc cốt lõi. Theo tôi, những phát hiện của Lý Linh trong cuốn sách nói về Luận ngữ của ông còn hay hơn những gì Chu Hy (1130-1200) nói về Khổng Tử.”
Trong một bài điểm sách tương tự, giáo sư Tiên Lý Quần của Khoa Trung văn Đại học Bắc Kinh viết: “Cách giáo  sư Lý Linh đọc Luận ngữcho thấy một điểm rất lớn đó là sự đồng cảm chân thật, ‘từ trái tim đến trái tim’ với Khổng Tử, sự đồng cảm của một trí thức với một trí thức. Sự đồng cảm này giúp ông nhìn thấy vấn đề được gói ghém trong hình tượng ‘chó nhà tang’ kia là gì. Khi tôi đọc cụm từ ‘chó nhà tang’ tôi cũng thấy có ít nhiều nhạo báng, nhưng quan trọng hơn, tôi cảm được sự trăn trở và nỗi buồn đau của Khổng Tử.”
Trong một cuộc phỏng vấn, ông Lưu Mộng Khê, giám đốc Sở Nghiên cứu Văn hóa Trung Quốc, thuộc Viện Nghiên cứu Nghệ thuật Trung Quốc, đã khen ngợi công phu nghiên cứu văn bản rất có trách nhiệm và cách làm việc nghiêm túc của giáo sư Lý Linh, góp phần giải độc những huyền thoại về Khổng Tử.
Giáo sư Tần Hy tại Đại học Thanh Hoa, trong bài “Làm thế nào Luận ngữ trở thành kinh điển?” đã viết rằng: “Hiện có những kẻ tìm cách nâng Luận ngữ lên thành một thứ Thánh Kinh của đạo Khổng, điều này cũng y như trước đây có kẻ muốn nâng cuốn sách nhỏ mỏng tang có tên Mao tuyển lên thành ‘đỉnh cao’ của chủ nghĩa Mác. Thử hỏi sự phấn khích với Mao tuyển đã làm phong phú chủ nghĩa Mác hay đã phá thối nó? Cũng vậy, sự phấn khích dành cho Luận ngữ hôm nay sẽ tôn vinh đạo Khổng hay chỉ làm hỏng nó?”
Trung Quốc vốn có truyền thống sùng thánh lâu đời, và trong mắt những người sùng bái thánh hiền xưa hoặc nay thì Khổng Tử nằm ngoài tầm tra vấn; ông là một vị vua không ngai đáng kính, là người nắm giữ chân lý, là quân sư của các thời đại, ông được tặng danh hiệu “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương” (“Vị vua và vị thánh tuyệt hảo của văn hóa”, danh hiệu được gán cho ông vào thế kỷ thứ 14) và với danh hiệu ấy, các vị hoàng đế đứng trước ông cũng phải cúi đầu. Đối với Khang Hữu Vy (1858-1927) và Hội Khổng học của mình, Khổng Tử là giáo chủ của một tôn giáo và cũng là một vị thánh; còn đối với những nhà Khổng học ngày nay thì ông là biểu tượng cho văn hóa Trung Quốc. Với họ, mỗi câu trong Luận ngữ đều là những lời giáo huấn thấu tình đạt lý về nghệ thuật trị quốc và tu thân. Nếu thời xưa, lời xưng tụng to tát nhất dành cho Luận ngữ là câu “Chỉ dùng nửa bộ Luận ngữ cũng có thể trị cả thiên hạ”, thì câu tán dương thời nay lại là câu “Giáo huấn của Khổng Tử đã quản thiên hạ 5000 năm trước, nay sẵn sàng để quản thiên hạ 5000 năm sau.” Có kẻ còn nói “Không đọc Khổng Tử không phải là người!” Ngày nay, có những “tín đồ đạo Khổng mới” lại còn ngụy tạo ra những tin tức giật gân, chẳng hạn như chuyện râm ran gần đây, rằng vào năm 1988, 75 người đoạt giải Nobel toàn thế giới đã họp nhau tại Paris để bầu chọn Khổng Tử là nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử loài người! [5]
Trước cơn ‘tẩu hỏa nhập ma’ vì sùng bái thánh nhân này, tôi xin hỏi các nhà Nho tân thời một câu tầm phào sau: “Trong con mắt các vị thì Khổng Tử đương nhiên là thánh rồi, thế nhưng, ngài cũng chỉ là người, vậy ngài có đánh rắm phun hương không?!”
Sự sùng bái kia khiến người ta mất khả năng phân biệt đâu là người đâu là thánh, đâu là lời nói đời thường đâu là lời phán của trời. Họ gán cho những lời dạy thông thường trong Luận ngữ những ý nghĩa thâm thúy, cao siêu. Chẳng hạn như hai câu mở đầu của Luận ngữ“Học nhi thời tập chi, bất diệc thuyết hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?” (Học mà mỗi buổi mỗi tập, chẳng cũng thích ư? Có bạn ở xa nghe tiếng mà tìm lại, chằng cũng vui ư?)[6] Thử hỏi sự thâm thúy cao siêu trong câu này nằm ở đâu mà thiên hạ phải khổ công chú giải suốt suốt 2000 năm qua cho đến tận bây giờ?
Chu Tố Nhân (1885-1967) trong cuốn Luận ngữ tiểu ký đã nói đúng: “Luận ngữ chỉ cách tu tập để thành người tốt và cách ứng xử với đời… Đó có thể là một cẩm nang hữu ích cho hậu thế, nhưng dứt khoát không được xem đó là những chân lý không bao giờ thay đổi hoặc những chuẩn mực đạo đức. Càng không nên nghĩ rằng nó chứa đựng những triết lý chính trị sâu sắc có thể trị quốc và mang lại hòa bình cho thiên hạ.” Ngay G.W.F. Hegel, triết gia lớn của Đức, cũng chỉ xemLuận ngữ như một cuốn sách ghi chép những đạo lý thường thức, không hơn không kém.
Chính Hán Vũ Đế (156-87 trước CN) người ra quyết định “độc tôn Nho thuật” đã hóa phép cho Khổng Khâu trở thành đức Khổng Phu Tử. Con chó nhà tang chết còn bộ xương, nay bộ xương bỗng chốc phục sinh và trở thành con chó gác cửa cho các triều đại quân chủ chuyên chế Trung Hoa.
Vì đạo Nho tỏ ra có ích cho quyền thống trị của vua chúa chuyên chế, nên địa vị của con chó giữ cửa được chăm sóc, củng cố, một khi ngồi vào chỗ rồi là nó cứ ngồi đó suốt hai ngàn năm. Và khi thần tượng của giới có học được triều đình thổi lên đến tận trời xanh, thậm chí biến thành tượng thờ giát vàng trong tổ miếu hoàng gia, thì đó là lúc trí thức Trung Hoa có tư tưởng tiến bộ bị đầy xuống địa ngục, biến thành nữ tì phục vụ quyền lực. Một trường hợp điển hình là Tư Mã Đàm (165-110 trước CN) cha của Tư Mã Thiên. Hai cha con đều phục vụ triều đình nhà Hán trong tư cách những thái sử. Khi Tư Mã Thiên vì dám can ngăn Hán Vũ Đế mà bị xử thiến, ông đã bi phẫn than rằng:
Cha ta cũng chẳng đạt được gì đáng ghi tên vào sổ sách triều đình. “Nghề viết văn, viết sử, xem sao, xem lịch thì cũng gần với bọn thầy bói, thầy cúng. Chúa thượng vẫn đùa bỡn nuôi như bọn con hát, còn thế tục vẫn coi thường.”[7]
Đến thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi các cường quốc Tây phương ép Trung Quốc mở cửa cho thế giới thì hệ thống quyền lực và ý thức hệ cũ lập tức suy vong nhanh chóng. Năm 1911, khi Cách mạng Tân Hợi kết liễu đế chế truyền thống thì Đạo Khổng, hệ ý thức của vua chúa độc tài, cũng mất hẳn chỗ dựa. Một lần nữa, “chó giữ cửa” lại trở thành “chó nhà tang” lang thang xó chợ. Mặc dù Viên Thế Khải (1859-1916) đã xoay sở để trở thành hoàng đế vào tháng 1 năm 1916 và cố phục hồi nghi lễ Đạo Khổng, nhưng cũng chẳng được bao lâu. Chỉ sáu tháng sau, Viên Thế Khải chết. Sự sụp đổ toàn diện của những định chế truyền thống và ý thức hệ cũ đã diễn ra, không thể nào tránh khỏi.
Theo tôi, khi các nhà Nho truyền thống mất chỗ dựa quyền lực thì đó là nỗi bất hạnh của họ, con chó gác cửa cung đình lại trở thành con chó lang bạt. Nhưng, nếu nhìn cách khác thì đây lại là một vận may lớn, là cơ hội để giới có học ở Trung Quốc có thể trở thành người trí thức hiện đại, có thể vứt bỏ những bệ đỡ của quyền lực độc tài mà họ vẫn dựa vào, có thể nuôi dưỡng và phát huy tinh thần phê phán độc lập. Cơ hội đã đến dù họ muốn hay không.
Nhưng rủi thay, thời kỳ “chó lang” bất đắc dĩ này chỉ kéo dài khoảng 50 năm. Khi Cộng sản Trung Quốc thiết lập chế độ cực quyền trên toàn quốc thì người trí thức cũng chẳng còn được thoải mái làm chó hoang nữa. Phần lớn bị đàn áp, truy đánh, dập dụa như “bầy chó mắc mưa”, một số gặp thời biến thành “chó giữ cửa” cho chính quyền Mao Trạch Đông. Quách Mạt Nhược (1892-1978) là một ví dụ điển hình, trong thời kỳ dân quốc ông còn dám mắng cả Tưởng Giới Thạch, nhưng sau năm 1949 thì ông chẳng khác nào con sâu nhũn gọi dạ bảo vâng trong tay Mao Trạch Đông.
Số phận của Khổng Tử trong thế kỷ 20 có lẽ sẽ khiến chính Khổng Tử choáng váng. Hai lần ông trở thành mục tiêu của những cuộc vận động chính trị chống lại mình. Lần đầu là trong phong trào Ngũ Tứ Vận động khởi đầu năm 1919, và lần kế tiếp là trong phong trào “phê Lâm [Bưu], phê Khổng [Tử]” do Mao Trạch Đông phát động năm 1974. Những năm sau vụ Thiên An Môn [1989], giới trí thức có khuynh hướng chống lại những gì được cho là cấp tiến, và họ xem cả hai phong trào Ngũ Tứ Vận động lẫn Phê Lâm Phê Khổng của Mao Trạch Đông là như nhau và bác bỏ cả hai. Nhưng làm như thế là họ không thấy hai cuộc vận động đánh đổ nhà Khổng này thực ra hoàn toàn khác nhau.
Trước hết, hai cuộc vận động có điểm xuất phát khác nhau. Ngũ Tứ là cuộc vận động văn hóa tự phát từ dưới lên. Người tham gia chủ yếu là những trí thức đô thị đã hấp thu tư tưởng mới, giá trị mới, và phương pháp mới du nhập từ phương Tây, và họ dùng những chuẩn mực phương Tây để hiểu vì sao Trung Quốc lạc hậu. Họ bất mãn với quan điểm vào cuối thế kỷ 19 cho rằng việc bắt kịp phương Tây chỉ là vấn đề kỹ thuật, hay thay đổi hình thức chế độ. Họ đi đến kết luận rằng thay đổi cốt lõi phải là thay đổi văn hóa. Ngược lại, phong trào “phê Lâm, phê Khổng” vào năm 1974 là một màn vận động chính trị từ trên xuống của Mao Trạch Đông, kẻ có quyền lực tuyệt đối và muốn đưa Tư tưởng Mao lên vị trí độc tôn và không tư tưởng nào khác trong hay ngoài nước được phép có mặt.
Thứ hai, tính chất của hai cuộc vận động này cũng khác hẳn nhau. Đối tượng mà các trí thức cách tân của Ngũ Tứ Vận động chống đối không phải là Khổng Tử thời Tiên Tần, lúc trăm nhà đua tiếng vào thế kỷ thứ năm trước CN, mà là Đức Thánh Khổng của Hán Vũ Đế, người đã đưa đạo Khổng lên vị trí độc tôn. Họ muốn đánh đổ sự độc quyền tư tưởng của đạo Khổng, của con “chó gác cửa”. Ngược lại, chiến dịch của Mao Trạch Đông chống lại Khổng Tử không liên quan gì đến nỗ lực cải tổ văn hóa, và cũng chẳng liên quan gì đến Khổng Tử. Cuộc vận động chỉ là công cụ giúp Mao cạnh tranh quyền lực với nhóm chóp bu của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Mục tiêu cuối cùng của Mao là hạ bệ Lâm Bưu và cảnh cáo nhà “đại nho” Chu Ân Lai.
Nói cách khác, hai cuộc vận động chống Khổng Tử có bản chất khác nhau. Một bên là những nhà trí thức không quyền lực một bên là kẻ nắm quyền lực tuyệt đối chẳng khác gì một Tần Thủy Hoàng kiểu mới. Một bên là cuộc cách mạng văn hóa tự phát từ dưới lên, một bên là cuộc vận động chính trị từ trên xuống. Một bên cố tìm lối thoát cho văn hóa Trung Quốc, một bên chỉ mong củng cố quyền lực độc tôn.
Đó là lý do đến nay tôi vẫn tán đồng nỗ lực chống ảnh hưởng của Đạo Khổng như Ngũ Tứ Vận động chủ trương, và tiếp tục chống đối cuộc vận động chống Đạo Khổng của thời kỳ Cách mạng Văn hóa.
Trong luận văn viết năm 1935 “Khổng Phu Tử của Trung Quốc hiện đại”, khi Lỗ Tấn gọi Khổng Tử là thánh nhân “mô-đen” là ông có ý phê phán truyền thống tôn sùng thánh nhân của chế độ chuyên chế Trung Quốc. Ông viết: “Những kẻ đặt Khổng Tử lên bàn thờ, thánh hóa ông chính là những kẻ cầm quyền, hoặc những kẻ muốn nắm quyền. Việc này hoàn toàn không phải là việc của dân chúng bình thường.”
Theo tôi thì tệ sùng bái thánh nhân ở Trung Quốc là một công trình văn hóa giả tạo cực lớn do các đời vua chúa cùng bọn văn nhân cung đình phối hợp tạo nên. Vị Khổng Tử mà các vua chúa và quần thần “phong thánh” đã đánh mất hoàn toàn mọi mối liên quan với vị Khổng Tử đích thực, và đáng được xem như một món hàng giả vô cùng nguy hiểm.
Thực ra, nếu đọc kỹ các triết gia Tiên Tần, sẽ không khó nhận ra rằng tư tưởng của Khổng Tử cũng chỉ là những lời thuyết giáo đạo đức bình thường. So với Trang Tử (369-286 trước CN), Khổng Tử không có cái siêu thoát, nhẹ nhàng, tự nhiên, cũng không có trí tưởng tưởng đẹp đẽ kỳ vĩ, hoặc ngôn ngữ trôi chảy bất tận, cũng không có khả năng hòa quyện tri thức triết học với vẻ đẹp văn học thoát tục, hoặc tỉnh táo mà nhìn thấu đáo bi kịch của con người. So với Mạnh Tử (372-289 trước CN), Khổng Tử không có được cái khí phách của một trang nam tử, hoặc tầm nhìn rộng lớn, đó là chưa kể đến khả năng đối diện với quyền lực với thái độ đầy tự trọng, hoặc sự quan tâm thật lòng tới dân đen. Chính Mạnh Tử là người đã nói “dân vi trọng, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.  So với Hàn Phi Tử (281-233 trước CN), Khổng Tử còn có vẻ hư ngụy, giả dối, không thẳng thắn, thiếu sắc bén, cũng không có khả năng châm biếm tài hoa. So với Mặc Tử (470-391 trước CN) Khổng Tử không lấy bình đẳng làm lý tưởng và tính thiện tự nhiên, đạo đức tự giác làm nền tảng cho một chủ nghĩa mới như chủ nghĩa kiêm ái, cũng không có một hệ thống lý luận cụ thể rõ ràng nào.
Ngược lại, những lời giáo huấn của Khổng Tử chỉ là trí thông minh nhỏ, không chứa đựng trí tuệ lớn. Những chỉ dạy ấy cực kỳ thực dụng, khôn khéo, nhưng không có tính thẩm mĩ hoặc triết lí thâm thúy. Ông cũng không có nhân cách cao quý hoặc tầm nhìn khoáng đạt. Ban đầu ông lang bạt tứ xứ muốn được làm quan, sau thất bại bèn trở thành thày dạy đạo đức. Danh hiệu vị thầy chăm chỉ, và “dậy người không mệt mỏi” dành cho ông thực ra cũng chỉ phản ảnh ước muốn viển vông xuất phát từ một nhân cách nông cạn. Nguyên tắc nổi danh của ông “thịnh thế tắc nhập, loạn thế tắc ẩn” (thời thịnh trị thì dấn thân, thời loạn lạc thì ở ẩn), nếu nhìn kĩ sẽ thấy đó chính là cái đạo xử thế khôn lanh, thể hiện tính vô trách nhiệm và cơ hội chủ nghĩa. Thật hoài phí và tổn hại cho dân tộc Trung Hoa biết bao khi chính nhà tư tưởng này, nhà tư tưởng thực dụng hết mực, khôn lanh hết mực, và đời thường hết mực này, đức Khổng Tử, kẻ tránh né trách nhiệm xã hội và không biết cảm thông với đồng bào thọ nạn này, đã trở thành vị thánh và là mẫu mực cho họ noi theo. Dân tộc nào thì thánh nhân nấy, và thánh nhân nào thì dân tộc nấy. Tôi e rằng toàn bộ tính nô lệ trong lòng người dân Trung Quốc bắt nguồn từ đây, một thứ siêu di truyền văn hóa kéo dài từ xưa và tiếp tục đến ngày nay.
Ngoài việc truy tìm ý nghĩa đích thực của Luận ngữ, giáo sư Lý Linh còn muốn nhắm tới chủ nghĩa dân tộc cực đoan hiện nay của Trung Quốc. Giáo sư Lý thách thức những trào lưu thời thượng như cơn sốt đọc cổ văn, cơn sốt thờ Khổng Tử, và gián tiếp đặt vấn đề về sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc. Việc Lý Linh ám chỉ Khổng Tử như con chó lang thang “không một quê hương tinh thần” cũng là để phê phán các nhà Nho mới đang ra sức cổ vũ cho Khổng Tử như vị cứu tinh của thế giới. Giáo sư Lý cho rằng: “Tôi chẳng hứng thú gì khi người ta cắm ngọn cờ Khổng Tử trên toàn thế giới. Khổng Tử không thể cứu Trung Quốc, cũng chẳng thể cứu thế giới.”
Mục tiêu thứ hai mà Lý Linh nhắm tới là truyền thống phò quyền lực của giới trí thức Trung Quốc. Lời chỉ trích này rất thức thời vì giới Nho gia mới hiện đang tranh thủ lấy lòng giới cầm quyền. Họ độc tôn đạo Khổng, hô hào cho đạo Khổng, không phải vì muốn dùng đạo Khổng phục hồi đạo đức nước nhà, mà là họ chú trọng đến công năng chính trị “tu, tề, trị, bình” của đạo Khổng, họ muốn thống nhất chính trị và tôn giáo. Họ muốn Khổng Tử  trở thành “quân sư” hoặc giữ địa vị “quốc sư”. Họ muốn Nho giáo trở thành “quốc giáo”, và họ muốn nhà cầm quyền luật hóa các mục tiêu này. Khi làm việc này, rõ ràng những nhà Nho mới đang cho thấy tham vọng trở thành “quân sư” cho các đế vương hiện đại – hoặc trở thành một dạng “vua triết gia” theo kiểu Plato, thực sự nắm quyền lực trong tay. Khi tân trang hình ảnh cho Khổng Tử, họ thực ra đưa Trung Quốc ngược trở lại với thời Hán Vũ Đế. Họ muốn tái lập thời đại mà trong đó tư tưởng đa dạng của cả trăm nhà đều bị bãi bỏ, để độc tôn duy nhất đạo Khổng, họ muốn phục hồi tệ sùng bái “thần thánh” truyền thống.
Giáo sư Lý Linh nhận ra rằng trong lịch sử Trung Quốc, giới trí thức, vốn mang trong đầu rất nhiều điều không tưởng, chỉ thực sự hữu dụng khi nằm ngoài quyền lực và giữ vai trò phê phán nhà cầm quyền. Khi có quyền lực trong tay họ sẽ trở nên nguy hiểm, thậm chí thảm họa, cho quốc gia. Giáo sư Lý viết: “Giới trí thức, với mắt bén, đầu sáng, có thể trở nên độc tài hơn bất cứ ai. Đặt gươm đao phủ vào tay họ, thì kẻ đầu tiên mất mạng sẽ chính là những trí thức khác.” Điều này xảy ra vì thói quen của giới trí thức Trung Quốc tự cho rằng mình có trí tuệ tối ưu, đạo đức tối ưu, lí tưởng tối ưu, và sự hiểu biết tối ưu, cao hơn bất cứ ai. Họ tự cho mình cái quyền “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của mọi người”, và tin rằng họ còn có thế cứu vớt mọi người thoát vòng tai ương và kiến tạo thiên đường trên mặt đất. Trương Tải (1020-1077 trước CN) đời nhà Tống tóm tắt mục tiêu của người trí thức Trung Quốc trong bốn câu sau đây: “Vì trời đất lập đạo, vì dân sinh lập mệnh, vì thánh nhân xưa mà truyền thụ giáo huấn, vì muôn đời mà mang lại thái bình.” Ngày nay nhiều trí thức Trung Quốc vẫn mang não trạng này, cho thấy truyền thống tự mãn và cuồng vọng của trí thức Trung Quốc đã trở nên thâm căn cố đế, khó thay đổi.
Giáo sư Lý Linh muốn kêu gọi giới trí thức Trung Quốc hôm nay học lại bài học lịch sử, biết giữ khoảng cách với nhà cầm quyền, từ bỏ mộng trở thành quân sư, chấm dứt việc biến kinh sách truyền thống thành công cụ chính trị, phải giữ tính độc lập trong tri thức, tư tưởng, học thuật, phát huy tinh thần sáng tạo của người trí thức. Ở đoạn cuối lời giới thiệu sách, giáo sư Lý viết:
“Hãy bình tâm mà đọc Luận ngữ, đừng chính trị hóa, đạo đức hóa, giáo phái hóa Luận ngữ. Mục tiêu duy nhất là tìm cho được con người Khổng Tử thật, giữa một thời đại mà, mượn chính lời Khổng Tử, lễ nhạc đã suy đồi.”
Nếu giới trí thức Trung Quốc bỏ qua lời khuyên này, số mệnh của họ sẽ chẳng khác gì những kẻ đi trước, sẽ chỉ là những con chó chạy quẩn quanh phục vụ kẻ khác, đến khi không được ai công nhận thì trở thành chó nhà tang lang thang xó chợ đầu đường, gặp vận may được cưng chiều thì làm chó gác cửa.
Theo tôi, đại bi kịch của lịch sử văn hóa Trung Quốc không phải là việc Tần Thủy Hoàng (259-210 trước CN) “đốt sách chôn nho”, mà chính là việc Hán Vũ Đế “bãi truất trăm nhà, độc tôn đạo Nho”. Từ chủ trương này, Đổng Trọng Thư (175-105 trước CN) đã sửa đổi học thuyết của Khổng Tử, biến những đế chế vốn dĩ được thiết lập dựa trên bạo lực trở thành biểu hiện của đạo trời. Nguyên lý của Đổng Trọng Thư, ghi trong cuốn Lịch sử Tiền Hán, cho rằng “trời không đổi gì thì không gì phải đổi” (“thiên bất biến đạo diệc bất biến”) là căn cứ để khẳng định tính hợp pháp của chế độ, rằng sự trường tồn của các triều đại là việc đã được vũ trụ an bài. Lập luận này khoác lên mình chế độ bạo lực toàn trị một lớp áo nhân trị êm ái. Đương nhiên các đế vương thấy ngay tác dụng của lớp áo ngoài này, nên đã tiếp tục lập đạo Khổng thành một ý thức hệ chính thống độc tôn và trở thành con đường chính thức để kẻ có học lập thân, có nghĩa là trở thành “đầy tớ ngoan ngoãn” cho kẻ cầm quyền. Chính Mao Trạch Đông cũng định vị thân phận của giới trí thức rất rõ ràng  khi dùng câu nói “da [kẻ cầm quyền] không còn, thì lông [trí thức] bám vào đâu?”
Trách nhiệm lớn nhất của giới trí thức Trung Quốc hôm nay không phải là bảo vệ truyền thống sùng thánh mà quyền lực độc tài chủ xướng, mà là thoát khỏi sự lệ thuộc và vị thế phục dịch cho quyền lực độc tài kia. Chúng ta cần kế thừa và phát huy truyền thống Ngũ Tứ, mà giáo sư Trần Dần Khác (1899-1969) đã tóm tắt bằng câu “tư tưởng tự do, nhân cách độc lập”.
Lưu Hiểu Ba
Bắc Kinh, 18/8/2007
Xuất bản lần đầu tiên vào ngày 2/9/2007 trên boxun.com.
Ghi chú của người dịch
** Xem “Khổng giáo, công cụ của quyền lực mềm“: Con số 320 Viện Khổng Tử được The Economist nhắc tới vào đầu năm 2011, trong khi ký giả Carrie Gracie của BBC gần đây lại nói có tới con số gần 1.000, đây là con số đáng ngờ, vì ngay cả phía Trung Quốc cũng chỉ dự định đạt được con số 1.000 Viện Khổng Tử vào năm 2020. Hình ảnh minh họa cho bài của Carrie Gracie cũng không chính xác vì bức tượng Khổng Tử tuy được khánh thành long trọng tại Thiên An Môn vào tháng 1/2011, nhưng đến tháng 4/2011 thì bức tượng cao 9 mét này đã được âm thầm dời đi trong đêm. Nghe nói tượng hiện được đặt trong vườn tượng thuộc Viện Bảo tàng Quốc gia. Nguồn các thông tin này xem tại: The Economist, 20/1/2011BBC Việt ngữ 10/10/2012Tân Hoa Xã (tiếng Anh), 10/2/2006.
——————————————
[1] Táng Gia cẩu: Ngã độc Luận ngữ 丧家狗:我读《论语》, Lý Linh, NXB Nhân Dân Sơn Tây, Trung Quốc, 2007
[2] Trong nguyên bản, Lưu Hiểu Ba dùng cụm từ “nhị thánh nhân, tam thánh nhân” để chỉ hai vị, dịch giả T. E. Moran nêu danh tính hai vị là Mạnh Tử và Vương An Thạch để độc giả phương Tây dễ hiểu. Ở nhiều đoạn khác, T. E. Morgan cũng ghi thêm ngày sinh, ngày mất bên cạnh tên tác giả để độc giả phương Tây dễ tham khảo.
[3] Quan điểm chỉ dùng Luận ngữ để tìm hiểu tư tưởng của Khổng Tử cũng là quan điểm của học giả Nguyễn Hiến Lê, vì có chứng cớ xác thực cho thấy Khổng Tử là người viết ra Luận ngữ, trong khi các tác phẩm khác lại không phải. Nguyễn Hiến Lê viết: “Từ xưa tới nay hầu hết các học giả viết về học thuyết Khổng tử đều dùng cả tứ thư lẫnKinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Khổng Tử Gia ngữ v.v… làm tài liệu, như vậy theo tôi không phải là tìm hiểu Khổng Tử mà tìm hiểu Khổng giáo trong suốt thời Chiến Quốc, vì trong những sách dẫn trên, ngoài bộLuận ngữ là bộ đáng tin nhất, còn thì bộ nào cũng chứa nhiều tư tưởng của người sau, không phải của Khổng Tử.
Tôi lấy thí dụ cuốn Đại học của Tăng Tử (một môn sinh được trực truyền) ngay trong đoạn đầu nói về việc tu thân để tề gia, trị quốc…, cũng đã có một ý tôi cho không phải của Khổng tử mà của Tăng Tử, tức “tri tri tại cách vật”, vì trong Luận ngữ ông không hề nói tới sự cách vật.
Sách Trung dung của Tử Tư, cháu nội Khổng Tử, cũng có những tư tưởng siêu hình, mà Khổng tử tránh phần siêu hình.
Rồi những câu “cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa”, “nhất hạp nhất tịch vi chi biến, vãng lai bất cùng vi chi đạo” (trong Kinh Dịch – Hệ từ thượng) mà nhiều người dẫn (chẳng hạn Trần Trọng Kim trongNho giáo) và cho là quan niệm về thiên lý, về đạo của Khổng Tử, thì sao tôi thấy có màu sắc của Lão giáo quá.
Ngay như Lễ kí, thiên Tăng Tử Vấn (Tiểu Đái kí) phần lớn không tin được vì xuất hiện sau Khổng Tử bảy trăm năm (thế kỷ II sau Tây Lịch) và do người đời Hán viết.
Căn cứ vào những bộ đó thì không khác gì tô xanh tô đỏ lên học thuyết của Khổng Tử, còn đâu chân diện mục của nó nữa. Từ lâu tôi vẫn bất mãn về điều đó và chỉ thấy mỗi một học giả ở Pháp, ông Etiemble, trong cuốn Confucius (Gallimard 1966) là không dùng phương pháp đó mà chỉ căn cứ vào mỗi hệ Luận ngữ mà thôi.”
(Trích từ Lời nói đầu, Nguyễn Hiến Lê viết ngày 1/7/1978, in trong cuốn Khổng Tử, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1992, trang 7-8).
[4] Đoạn nói về “chó nhà tang” được Tư Mã Thiên ghi trong Sử ký như sau:
“Khổng Tử đến nước Trịnh, thày trò lạc nhau. Khổng Tử đứng một mình ở phía đông cửa thành. Có người nước Trịnh bảo Tử Cống:
- Ở cửa phía đông có một người trán giống Nghiêu, cổ có vẻ Cao Dao, vai ông ta giống Tử Sản, nhưng từ lưng trở xuống thì kém vua Vũ ba tấc, có vẻ băn khoăn lo lắng như con chó ở nhà có tang.
Tử Cống nói thực với Khổng Tử. Khổng Tử mừng rỡ cười mà rằng:
- Hình dáng bên ngoài là việc vụn vặt, nhưng nói “giống như con chó của nhà có tang” thì đúng làm sao! Đúng làm sao!”
(Trích Sử ký – Tư Mã Thiên, Phan Ngọc dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 1999, trang 163-164)
[5] Trong cuốn Khổng Tử – Luận ngữ với cuộc sống hiện đại, do Dương Minh Hào sưu tầm và biên dịch, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2012, phần Lời mở đầu của Dương Minh Hào cũng ghi một “tin giật gân” tương tự, xin trích nguyên văn:
“Năm 1991 trong tuyên ngôn đại hội những người nhận giải thưởng Nôben toàn cầu tại có câu: ‘Nếu nhân loại muốn được tiếp tục sinh tồn ở thế kỷ 21, thì cần phải trở lại hơn hai ngàn năm trăm năm trước để hấp thu lấy những trí tuệ cũa Khổng Tử.’
Các nhà khoa học trên toàn thế giới đều đã nhất trí cao với nhận thức này.”
[6] Trích Luận ngữ, Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, năm 1994, trang 25.
[7] Trích từ Sử ký – Tư Mã Thiên, bản dịch của Phan Ngọc, sđd, trang 5-6.
 Bản tiếng Việt © 2012 Phan Trinh & pro&contra